Phẫu thuật cắt xương chậu và ghép xương mác đồng loại điều trị trật khớp háng bẩm sinh
Phẫu thuật cắt xương chậu sử dụng rộng rãi như một thành phần không thể thiếu của
phẫu thuật điều trị loạn sản khớp hông ở trẻ em. Các vấn đề như trượt mảnh ghép,
dịch chuyển và hấp thụ, dẫn đến mất chỉnh sửa ổ cối được ghi nhận trong các trường
hợp được điều trị tại Bệnh viện của chúng tôi. Nghiên cứu hồi cứu kết quả lâm sàng
và X quang 79 trường hợp btrật khớp háng bẩm sinh điều trị bằng cắt xương chậu và
sử dụng xương mác đồng loại. Trật khớp háng được phân loại theo Tonnis. Chỉ số ổ
cối là số đo cơ bản để theo rõi chính. Thời gian theo dõi tối thiểu là 2 năm. Giữa tháng
giêng Năm 2009 và tháng 12 năm 2011, 79 khớp háng được phẫu thuật trên 73 bệnh
nhân. 63 trẻ gái (86,3%) và 10 trẻ trai (13,7%); 13 bệnh nhân (17,8%) tuổi từ 12 đến
18 tháng tuổi tại thời điểm phẫu thuật, 60 bệnh nhân (82,2%) tuổi từ 18 đến 36 tháng
tuổi, với tuổi trung bình 22,4 tháng tại thời điểm phẫu thuật.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật cắt xương chậu và ghép xương mác đồng loại điều trị trật khớp háng bẩm sinh
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 226 Hồng Hải Đức, Nguyễn Ngọc Hưng Khoa Chỉnh hình Bệnh viện Nhi TƯ PHẪU THUẬT CẮT XƯƠNG CHẬU VÀ GHÉP XƯƠNG MÁC ĐỒNG LOẠI ĐIỀU TRỊ TRẬT KHỚP HÁNG BẨM SINH Phẫu thuật cắt xương chậu sử dụng rộng rãi như một thành phần không thể thiếu của phẫu thuật điều trị loạn sản khớp hông ở trẻ em. Các vấn đề như trượt mảnh ghép, dịch chuyển và hấp thụ, dẫn đến mất chỉnh sửa ổ cối được ghi nhận trong các trường hợp được điều trị tại Bệnh viện của chúng tôi. Nghiên cứu hồi cứu kết quả lâm sàng và X quang 79 trường hợp btrật khớp háng bẩm sinh điều trị bằng cắt xương chậu và sử dụng xương mác đồng loại. Trật khớp háng được phân loại theo Tonnis. Chỉ số ổ cối là số đo cơ bản để theo rõi chính. Thời gian theo dõi tối thiểu là 2 năm. Giữa tháng giêng Năm 2009 và tháng 12 năm 2011, 79 khớp háng được phẫu thuật trên 73 bệnh nhân. 63 trẻ gái (86,3%) và 10 trẻ trai (13,7%); 13 bệnh nhân (17,8%) tuổi từ 12 đến 18 tháng tuổi tại thời điểm phẫu thuật, 60 bệnh nhân (82,2%) tuổi từ 18 đến 36 tháng tuổi, với tuổi trung bình 22,4 tháng tại thời điểm phẫu thuật. Có 6 bệnh nhân (8,2%) có trật khớp hai bên. 67 bệnh nhân (91,8%) bị trật khớp háng một bên. 17 khớp háng bên phải (23,3%) và 56 khớp háng bên trái (76,7 %). Phân loại theo Tonnis: độ III có 26 khớp háng (32,9%), và độ IV có 53 khớp háng 67,1%). Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật cắt xương theo Hung và ghép xương mác đồng loại. Chỉ số ổ cối đã được cải thiện trước mổ trung bình là 42,50 và ngay sau mổ trung bình là 18,90, đồng tâm ổ cối đạt 96,2%. Liền xương giữa mảnh ghép và xương chậu trung bình là 14 tuần (từ 12 tuần - 17 tuần) sau phẫu thuật. Có 4 (5,1%) khớp háng trật khớp lại và bán trật khớp, có 3 (3,8%) khớp háng có hoại tử vô mạch chỏm xương đùi và 2 (2,5%) coxa magna. Không có nhiễm khuẩn với ghép xương, phẫu thuật không cần cố định mảnh ghép bằng đinh Kirshner. Kết quả: Rất tốt 53 (67,1%); Tốt 20 (25,3%); Trung bình 3 (3,8%); Kém 3 (3,8%). Phẫu thuật cắt xương chậu theo Hung cho phép các sử dụng vật liệu xương mác đồng loại với đường mổ ngắn, làm cho mảnh xương ghép ổn định không cần thiết phải cố định xương bên trong. Kỹ thuật phẫu thuật an toàn và hiệu quả cho trẻ em từ 12 đến 36 tháng tuổi. TĨM TẮT Nguyen Ngoc Hung SUMARY Background: Innominate osteotomy procedures have been widely used as an integral component of combined surgery to treat developmental dysplasia of the hip in children. Autograft concern is further supported by authors who suggest the routine use of internal fixation. Problems such as graft extrusion, rotation and absorption, leading to loss of acetabular correction, were often noted in cases previously treated at our National Hospital for Pediatrics. Methods: This retrospective study reviewed the radiographs of 79 hips presenting with developmental dislocation which were treated by modified Salter’s innomiate osteotomy and using a fibular allograft as the interposition material. Dislocations of the hip were Phần 3. Phần chấn thương chung 227 graded using the Tưnnis system. Measurement of the acetabular index (AI) was the main variable. The minimum follow up period was 2 years. Possible complications such as loss of acetabular correction, hip redislocation, graft extrusion or resorption, the need for osteotomy internal fixation, adelayed or non union, infection or avascular necrosis (AVN) were documented in this series. Results: Between January 2009 and December 2011, 79 surgeries were performed in 73 patients. Sixty-three (86.3%) of the patients were girls and ten (13.7%) were boys, thirteen patients (17.8%) were between twelve and eighteen months old at the time of the operation, the remaining sixty (82.2%) patients being between eighteen and thirty- six months old, with the mean age of 22.4 months at the time of surgery. There were six (8.2%) patients had bilateral dislocation. Sixty - seven (91.8%) patients were affected unilaterally. The right hip was involved in seventeen (23.3%) and the left hip in fifty- six (76.7%) cases. Tưnnis system Type III was in 26 hips (32.9%), and Type IV was in 53 hips (67.1%). All patients combined open reduction and modified Salter’s innomiate osteotomy, inserting a fibular allograft as the interposition material. Acetabular index was improved, preoperation was 42.5˚, and latest follow-up 18.9˚, concentrical acetabulum 96.2%. All of the fibulat allografts were completely incorporated mean 14 weeks (range, 12 weeks - 17 weeks) post-surgery. There were four (5.1%) redislocation and subluxation, three AVN (3.8%) and two (2.5%) coxa magna. Without graft infections, none of the osteotomies required internal fixation for stability. Final results: Excellent 53 (67.1%), Good 20 (25.3%), Fair 3 (3.8%), Poor 3 (3.8%). Conclusion: Open reduction and modified Salter’s innomiate osteotomy allow interposition material by fibular allografting with a short operative incision, renders excellent osteotomy stability that eliminates the need for internal fixation. Surgical technique are safe and effective for Children between twelve and thirty-six months old. I. ĐặT VấN Đề Trật khớp háng bẩm sinh (Developmental dysplasia (dislocation) of the hip - DDH) là một bệnh lý khĩ khăn của ngành Chỉnh hình Nhi. Chẩn đốn và nắn chỉnh sớm trật khớp háng bẩm sinh là rất quan trọng, để cĩ được một tiên lượng tốt. Salter mơ tả một cắt xương mà chuyển hướng ổ cối để sửa khớp háng chứng loạn sản và báo cáo kết quả tốt hoặc rất tốt 92% bệnh nhân [1] dựa vào phim Xquang. Phẫu thuật mở khớp háng và cắt xương của Salter đã trở thành một phẫu thuật phổ biến trong điều trị DDH [2] [3]. Những thất bại vẫn là một vấn đề lâm sàng cĩ liên quan đến tỷ lệ cao cứng khớp, loạn sản tồn dư, và hoại tử vơ mạch (AVN) [4], [5]. Ở Việt Nam, đa số bệnh nhân đến muộn, việc phẫu thuật là cần thiết để đặt lại chỏm xương đùi vào ổ cối tạo mối quan hệ phù hợp của chúng. Bệnh nhân cần được theo dõi để phát hiện những biến dạng khác trong quá trình phát triển và điều trị khi cần thiết. Ghép xương đồng loại đã được các tác giả thế giới đề nghị sử dụng cho trẻ em, đặc biệt là ở trẻ lớn với độ an tồn và hiệu quả [6]. Mục đích nghiên cứu là: Đánh giá kết quả điều trị trật khớp háng bẩm sinh ở trẻ em độ tuổi từ 1 đến 3 tuổi với phẫu thuật cắt xương kết hợp ghép mác. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng Lựa chọn bệnh nhân: Nghiên cứu này chỉ bao gồm trẻ em cĩ DDH, tuổi từ 12-36 tháng tại thời điểm phẫu thuật, và phẫu thuật mở cắt xương chậu và ghép xương mác đồng loại. Theo dõi thời gian tối thiểu 2 năm sau phẫu thuật và tại thời điểm theo dõi cuối cùng đánh giá kết quả để đưa vào nghiên cứu này. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 228 Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân - Các bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên cứu là các bệnh nhân cĩ chẩn đốn xác định là trật khớp háng bẩm sinh và cĩ chỉ định mổ. Bệnh nhân > 12 tháng tuổi đến < 36 tháng tuổi - Chẩn đốn xác định dựa vào lâm sàng và X quang: gĩc AI > 350 Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: -Những trường hợp chưa đủ điều kiện để thực hiện phẫu thuật như mắc bệnh tồn thân. Bệnh nhân trật khớp háng kèm bại não thể co cứng 2 chi dưới và các bệnh lý thần kinh cơ khác. Cĩ loạn sản khớp háng khơng cĩ trật khớp. Viêm dính đa khớp bẩm sinh. 2. Phương pháp nghiên cứu Tiến cứu, mơ tả cắt ngang Lâm sàng: Khai thác bệnh sử bao gồm các yếu tố nguy cơ: - Con so (con thứ mấy); Trẻ gái; Ngơi mơng (kiểu sinh); Thiểu ối; Bên trái > Phải; Tiền sử gia đình; Tuổi sinh của mẹ; Tình trạng lúc sinh. * Khám lâm sàng trước và sau mổ - Khám mất vững khớp; Ngắn chi; Đo tầm vận động khớp háng các gĩc: Giang/ khép, Gấp/ duỗi, Xoay trong/ xoay ngồi; Dáng đi tập tễnh; Đau; Chức năng sinh hoạt hàng ngày. * Các bệnh lý kết hợp - Vẹo cổ bẩm sinh; Bàn chân khoèo; Bàn chân khép. *Cận lâm sàng: Dấu hiệu X quang - Bệnh nhân được ghi nhận trật khớp theo phân độ Tưnnis [7] Độ 1. Tâm cốt hĩa chỏm xương đùi nằm trong đường Perkin Độ 2. Tâm cốt hĩa chỏm xương đùi nằm ngồi đường Perkin nhưng dưới gờ trên ổ cối. Độ 3. Tâm cốt hĩa chỏm xương đùi nằm ngang gờ trên ổ cối. Độ 4. Tâm cốt hĩa chỏm xương đùi nằm trên gờ trên ổ cối. - Dấu hiệu hoại tử chỏm trên X quang. - Gĩc AI (Acetabular Index) được đo trước mổ, ngay sau phẫu thuật và 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm. - Cổ xương đùi xoay trước - Gĩc thân xương và cổ xương đùi - Ổ cối nghiêng trước (AAV). Đánh giá MRI ổ cối nghiêng trước Chúng tơi khơng sử dụng gĩc CE của Weiberg. - Đánh giá hoại tử vơ mạch (AVN) của chỏm xương đùi được phân loại theo Kalamchi và Mac- Ewen của [8]. Kỹ thuật phẫu thuật tạo hình khớp háng Phẫu thuật Vào khớp theo đường mổ mặt trước khớp hơng. Bệnh nhân nằm ngửa, kê độn mơng bên bệnh. Rạch da dưới gai chậu trước trên 1 cm, theo dọc nếp bẹn, dài 4 cm. Tách vào giữa cơ may và cơ thắt lưng chậu, tách và bảo vệ dây thần kinh đùi. Tách theo cơ thắt lưng chậu xuống dưới, cắt gân cơ thắt lưng chậu sát với mấu chuyển bé. Tiến hành bộc lộ điểm bám của nguyên ủy cơ thẳng đùi, cắt gân cơ sát với gai chậu trước dưới. Bộc lộ bao khớp hơng. Cắt nguyên uỷ cơ thẳng đùi sát với gai chậu trước dưới. Mở khớp hơng. Mở khớp theo hình “T” theo sát với mép trên ổ cối, đường vuơng gĩc hình “T” theo dọc cổ xương đùi. Nếu mép sụn ổ cối phì đại, tiến hành cắt bỏ. Xác định, cắt dây chằng trịn, cắt dây chằng ngang ổ cối, lấy bỏ tổ chức mỡ và làm sạch ổ cối. Phẫu thuật viên kiểm tra ổ cối bằng ngĩn tay, nếu làm được dễ dàng là đạt yêu cầu. Nắn chỉnh đưa chỏm xương đùi vào ổ cối. Cắt xương chậu. Trong tất cả khớp hơng, vị trị vững khớp khi khớp hơng giang 450, gấp 300. Nếu khớp hơng khép và duỗi, khớp hơng khơng vững và chỉ số ổ cối trên 350 sẽ được tiến hành cắt xương chậu. Tiến hành bộc lộ bản trong xương chậu, khơng bộc lộ bản ngồi. Cắt xương chậu: (1) Đường thứ nhất ngay mép trên và vuơng gĩc với gai chậu trước dưới dài 5 mm; (2) Đường thứ hai tạo với đường thứ nhất một gĩc 1350, dài 7 mm; (3) Đường thứ ba nối với đường thứ nhất (theo dấu đường cắt xương của Salter), chếch lên trên 600, dài 15 mm, về tới đường thứ nhất; (4) Đường thứ tư, tiếp nối và vuơng gĩc với đường thứ ba, đi xuống ngoại vi dài 10 mm; (5) Đường thứ năm, vuơng gĩc với đường thứ tư dài 10 mm (Hình 1). Phần 3. Phần chấn thương chung 229 Hình 1. Đường cắt xương chậu Hình 2. Vị trí xương mác đồng loại Tiến hành giãn đường cắt xương. Sử dụng nạo xương nhỏ tạo rãnh nhận xương ghép tại hai mặt cắt xương của xương chậu. Đặt mảnh ghép xương mác đồng loại vào giữa hai mặt cắt. Tháo bỏ dụng cụ giãn xương chậu, mảnh ghép xương mác đồng loại được ép giữa hai mảnh xương chậu. Kiểm tra mảnh ghép ổn định, vững, khơng cĩ khả năng xoay hoặc dịch chuyển vào trong hoặc ra ngồi. Nắn chỉnh nhẹ nhàng đưa đầu xương đùi và ổ cối. Sau khi tạo hình bao khớp bằng chỉ Vicryl 3/0, tiến hành chụp X quang. Kết quả phẫu thuật đạt yêu cầu, tiến hành đĩng vết mổ bằng chỉ Vicryl 3/0. Chăm sĩc sau phẫu thuật Ngay sau mổ, bênh nhân được bột chậu chân tại bàn mổ, gấp hơng 300, giang 450, xoay trong 200 . - Thay bột chậu lưng chân đùi sau 12 tuần. Sau thời gian bĩ bột như trên bệnh nhân được chụp phim X quang đánh giá. Bệnh nhân tiếp tục được mang nẹp bột chậu - lưng - đùi một nửa phía sau 3 tháng, trong thời gian ban đêm. Sau thời gian trên bệnh nhân được mang nẹp giang cho tới khi ổ cối ổn định., liền xương thấy được trên film Xquang. Đánh giá kết quả - Khám định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm - Đánh giá lại lâm sàng: độ vững khớp, dáng đi, chiều dài chân, đau, tầm vận động khớp, chức năng sinh hoạt hàng ngày. - Chụp X-quang đánh giá: Vị trí chỏm khớp, dấu hiệu hoại tử chỏm, liền xương, gĩc AI, đường Shenton. Đánh giá kết quả theo tiêu chuẩn cải biên của Barrett [28]: - Kết quả rất tơt: Ổn định, khớp háng khơng đau, khơng khập khiễng, dấu hiệu Trendelenburg âm tính, vận động hết tầm. - Kết quả tốt: Ổn định, khơng đau khớp háng, khập khiễng nhẹ, hạn chế nhẹ tầm vận động. - Kết quả khá: Ổn định, khớp háng đau, khập khiễng, dấu hiệu Trendelenburg dương tính, và hạn chế phạm vi của vận động, hoặc kết hợp các yếu tố này. - Kết quả kém: khớp háng khơng ổn định hoặc đau đớn, hoặc cả hai; dấu hiệu Trendelenburg dương tính. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Cĩ 73 bệnh nhân (79 khớp hơng) đã được phẫu thuật theo phương pháp này 63 trẻ gái (86,3%) và 10 trẻ trai (13,7%); 13 bệnh nhân (17,8%) tuổi từ 12 đến 18 tháng tuổi tại thời điểm phẫu thuật, 60 bệnh nhân (82,2%) tuổi từ 18 đến 36 tháng tuổi, với tuổi trung bình 22,4 tháng tại thời điểm phẫu thuật. Cĩ 6 bệnh nhân (8,2%) cĩ trật khớp hai bên. 67 bệnh nhân (91,8%) bị trật khớp háng một bên. 17 khớp háng bên phải (23,3%) và 56 khớp háng bên trái (76,7 %). TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 230 Theo phân loại của Tưnnis: độ III cĩ 26 khớp háng (32,9%), và độ IV cĩ 53 khớp háng (67,1%). Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật cắt xương chậu và ghép xương mác đồng loại. Cắt ngắn xương đùi thực hiện trong 8 trường hợp (10,1%). Phẫu thuật khơng cố định mảnh ghép và xương chậu bằng đinh Kirshner (100% ) Liền xương giữa mảnh ghép và xương chậu trung bình là 14 tuần (từ 12 tuần - 17 tuần) sau phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật trung bình là 90 phút (80 - 100 phút). Mất máu từ phẫu thuật là chấp nhận được. Sau phẫu thuật, truyền máu khơng cần thiết. Bảng 1: So sánh chỉ số ổ cối trước và sau phẫu thuật Chỉ số ổ cối Chỉ số ổ cối trước phẫu thuật Chỉ số ổ cối sau phẫu thuật Ngay sau mổ 3 tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng Thời điểm cuối Trung bình 42.957 25.562 22.915 21.706 20.546 19.450 19.1571 SD 4.404 2.5452 2.0702 2.280 1.798 1.6033 1.6033 Khoảng 36.17 - 51.56 18.92 - 20.52 18.36 - 28.10 16.64 - 26.35 15.26 - 25.38 16.14 - 23.43 14.08 - 21.83 Cĩ 6 khớp háng (7,6%) chỉ số ổ cối > 500. Trước phẫu thuật chỉ số ổ cối trung bình là 42,4630, dao động từ 35,070 đến 52,090 (SD = 4,582). So chỉ số ổ cối trước phẫu thuật và chỉ số ổ cối ngay sau phẫu thuật với Pvaluate là 0.0000001; chỉ số ổ cối ngay sau phẫu thuật và sau phẫu thuật 3 tháng với Pvaluate là 0.0000001; chỉ số ổ cối sau mổ 3 tháng và chỉ số ổ cối sau phẫu thuật 6 tháng với Pvaluate là 0,0000001; chỉ số ổ cối 6 tháng sau phẫu thuật và chỉ số ổ cối sau phẫu thuật 12 tháng với Pvaluate là 0.0000001; chỉ số ổ cối sau phẫu thuật12 tháng và sau phẫu thuật 24 tháng với Pvaluate là 0.0000001; chỉ số ổ cối sau phẫu thuật 24 tháng và chỉ số ổ cối sau cùng với Pvaluate là 0,102205. Gĩc cổ xương đùi xoay trước: Trung bình 27,7260 (SD = 12,153) Gĩc Thân-cổ xương đùi: Trung bình 149,6490 (SD = 5,815) Ổ cối nghiêng trước: Trung bình: 21,2330 (SD = 5.264) AVN: Độ III: 2, Độ IV: 1. Cĩ 2 của 79 khớp háng (2,5%) trường hợp to chỏm, cổ xương đùi (coxa magna) theo dõi lâu nhất bằng Xquang, 1 cas độ III và 1 cas độ IV . Tại thời điểm mới nhất theo dõi, 73 trong số 79 bệnh nhân (92,4%) cĩ chức năng khớp háng tốt và rất tốt theo phân loại của Barrett. Chức năng khớp háng trung bình và kém ở 5 bệnh nhân vì hạn chế vận động, chủ yếu là liên quan đến xoay trong/ xoay ngồi của khớp háng; chỏm xương đùi biến dạng trong 3 khớp háng. Về kết quả X-quang, 56 khớp háng được phân loại như Severin độ I, 17 khớp háng độ II và 6 khớp háng độ III. Kết quả : Rất tốt 53 (67,1%); Tốt 20 (25,3%); Trung bình 3 (3,8%); Kém 3 (3,8%). Thời gian theo rõi sau mổ: Trung bình 32 tháng (26-42 tháng) Các biến chứng khác Bệnh nhân của chúng tơi khơng cĩ nhiễm trùng vết mổ, tổn thương thần kinh, gãy xương đùi, cứng khớp, và loạn sản tồn dư. IV. BÀN LUẬN Ghép xương được sử dụng trong phẫu thuật chỉnh hình nhi khoa. Một số tác giả đã tiến hành ghép xương đồng loại cho Sai khớp háng bẩm sinh như: Trevor D L J và Fixen J A 1975 [10] tạo hình ổ cối với sử dụng xương ghép là xương sườn; Kessler và cộng sự 2001 ghép xương bánh chè đồng loại cắt xương theo Pemberton; Grudziak và Ward 2001 ghép xương mác cắt thành nhiều phần hình thang trong cắt xương theo Dega; Wade năm 2010, sử dụng xương chậu điều trị trật khớp háng. Trong nghiên cứu này, chúng tơi sử dụng ghép xương mác đơn thuần. Phần 3. Phần chấn thương chung 231 Trong trật khớp háng bẩm sinh cĩ thể ổ cối nghiêng trước, chỏm xương đùi xoay trước. Dunn, Notley 1952 cho rằng kiểm tra thực tế lâm sàng của khớp háng là chính xác hơn. Tác giả nĩi rằng để xác định gĩc xoay trước cần phẫu thuật mở khớp háng. Massie và Howorth 1951, cũng như Durham 1915 khuyến cáo xương đùi với xoay trước lớn hơn 450 nên được sửa chữa bởi cắt xương; Sankar 2011 cho rằng cắt xương đùi nếu xương đùi xoay trước > 500. Trong khi Warndorf. 1912 chỉ làm một cắt xương nếu cĩ gĩc ≥ 600, Berkeley 1984 với xoay trước xương đùi > 600 được xác định tại thời điểm phẫu thuật được coi là một dấu hiệu cho cắt xương xoay trục. Điều này đã được thực hiện trước hoặc sau khi nắn chỉnh. Hibbs 1915 cũng ủng hộ việc cắt xương, thường trước nắn chỉnh. Tuy nhiên, Farrell, Von Lackum, và Smith năm 1926 đã đề nghị cắt xương khơng nên thực hiện cho đến sau khi khớp háng đã nắn chỉnh. Những tác giả khác, Lorenz 1905, Bradford 1923, Soutter 1924 cho rằng một cắt xương là khơng cần thiết và xoay trước của cổ xương đùi thường sẽ tự sửa chữa. Lorenz 1905, cho lại rằng tác động điều chỉnh của xoay trước cĩ thể dẫn đến sai khớp ra sau. Chúng tơi đồng ý với Kumar và cộng sự năm 1999 cho rằng cắt ngắn xương đùi cĩ thể kéo dài thời gian phẫu thuật, tăng mất máu, hoặc tăng tỷ lệ của AVN. Mảnh ghép xương mác cĩ hình chêm phù hợp với hình cắt xương chậu. Xương hình tam giác cĩ chiều rộng của nĩ gĩp phần vào sự ổn định vị trí gếp xương, và tiếp tục tăng cường ổ định của trần ổ cối. Cĩ hai cầu xương và hai rãnh của mảnh trên và dưới của xương chậu, sự ổn định này giúp cho mảnh ghép khơng xoay, hoặc trượt. Ổn định của mảnh ghép đặc biệt này là cơ sở để khơng cần cố định trong cắt xương. Trong nghiên cứu này, trượt mảnh ghép khơng đã khơng xẩy ra. Tất cả các mảnh ghép xương mác đều liền hồn tồn 14 sau tuần phẫu thuật, với thời gian này được coi là đủ để đánh giá ghép xương mác đồng loại cho xương chậu Phương pháp phẫu thuật này đã giúp nắn chỉnh đồng tâm và khớp háng ổn định ở 96,2% . Trung bình điều chỉnh của ổ cối loạn sản là 18,90. Các chỉ số ổ cối đã được duy trì trong giai đoạn hậu phẫu và được duy trì một cách tự nhiên theo thời gian, 6 tháng trung bình là 21,070 và trong giai đoạn theo rõi sau 2 năm là 19,450, tại thời điểm theo dõi sau cùng là 19.150. Sau chuyển hướng của cắt xương, mảnh trên của xương chậu trở nên đường ngang, làm cho các chêm xương ổn định hơn. Chúng tơi cho rằng đây là yếu tố chính làm tăng ổn định. Đánh giá qua Xquang đã chứng minh rằng thay đổi gĩc cắt xương theo Salter cho kết quả tương tự với kết quả của chúng tơi. Chỉ số ổ cối được cải thiện trong giới hạn bình thường ngay trong giai đoạn sau mổ và tiếp tục cải thiện về sau. Lin và các cộng sự năm 2000 báo cáo sửa chữa trung bình là 130, Bohm và Brzuske 2002 trung bình 11,90 với kỹ thuật cắt xương Salter. Kết quả của chúng tơi trung bình là 16,80 . Phẫu thuật Salter bộc lộ cả hai bản xương xương chậu làm tăng chảy máu trong phẫu thuật [11]. Kỹ thuật của chúng tơi khơng bộc lộ bản ngồi nên giảm chảy máu trong phẫu thuật, số lượng máu mất là cĩ thể chấp nhận được. Thêm nữa, cơ giang khơng bị tổn thương nên dấu hiệu Trendelenburg khơng gặp trong những bệnh nhân này. Trật khớp và bán trật khớp tái phát. Trong trật khớp bẩm sinh (DDH) xảy ra ở khoảng 3% phẫu thuật cho đường mổ trước và 5% đến 14% cho đường mổ trong [7]. Trong bất kỳ loại trật khớp bẩm sinh, nguyên nhân gây ra thất bại của điều trị cĩ thể được thấy một trong những nguyên nhân: Thời gian: 1) Tại thời điểm nắn chỉnh; 2) thời gian bất động, và 3) sau khi cố định. Một trật khớp tái phát lại xảy ra sau khi nắn chỉnh mở thành cơng và sau khi tháo bỏ bất động bột (3 tháng). Ba trường hợp bán sai khớp xảy ra sau khi nắn chỉnh mở thành cơng, một trong thời gian cố định, hai trong ba tháng đầu sau mổ, và một sau ba tháng. Thời gian trung bình để nhận thấy thất bại là bốn tháng. Tuy nhiên, một trong những trật khớp lại bên phải, những bệnh nhân phẫu thuật khớp háng hai bên, khơng duy trì cố định, cĩ thể là do mơ mềm trong ổ cối khơng được lấy hết gây cản trở việc nắn chỉnh. Phát hiện của chúng tơi trong những trường hợp một bên tương tự với một số tác giả khác (Hsiech S M, Huang S C 1998). Chúng tơi cho rằng thất bại do khơng lấy hết mơ mềm trong ổ cối là nguyên nhân cho trật khớp lại trong trường hợp bị một bên [12]. Thất bại tạo hình bao khớp. Trong ba bệnh nhân, cĩ bao khớp lỏng lẻo và mỏng ở phần trước cĩ thể tạo hình bao khớp thất bại. Thành cơng của việc sửa chữa bao khớp là rất quan trọng trong vài tuần đầu tiên sau khi phẫu thuật mở, căng và chặt quá mức cĩ thể cĩ tác dụng ngược lại. Phẫu thuật làm chặt bao khớp cĩ thể dẫn đến bán trật ra sau của chỏm xương đùi, đặc biệt trong phẫu thuật theo Salter. Biến chứng và hoại tử vơ mạch chỏm xương đùi (AVN) Trong năm 1960, điều trị trật khớp háng bẩm sinh được cải thiện rõ rệt. Trước thời gian này tỷ lệ hoại tử vơ mạch liên quan đến chỏm xương đùi là 70% sau nắn chỉnh kín TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2012 232 (Rafael E 1960). Hoại tử vơ mạch được hiểu như là phần lớn do điều trị và do mơ mềm căng [11]. Kết quả là tỷ lệ hoại tử vơ mạch đã được báo cáo là nhỏ nhất là 5% sau khi điều trị nắn chỉnh kín và 0% sau khi nắn chỉnh mở (Rafael E 1960). KẾT LUẬN Trật khớp háng bẩm sinh là một bệnh lý khĩ khăn của ngành chấn thương chỉnh hình. Tạo hình ổ cối sử dụng mảnh xương ghép là xương mác đồng loại cĩ nhiều ưu điểm, đảm bảo kết quả phẫu thuật, an tồn. Tất cả các trường hợp ghép mác liền xương hồn tồn 17 tuần sau phẫu thuật, thời gian trung bình là 14 tuần. Chỉ số ổ cối đã được cải thiện trước phẫu thuật trung bình là 42,50, ngay sau phãu thuật trung bình là 18,90, đồng tâm ổ cối đạt 96,2% Kết quả cuối cùng: Rất tốt 53 (67,1%); Tốt 20 (25,3%); Trung bình 3 (3,8%); Kém 3 (3,8%). Tài liệu tham khảo 1. Salter R B (1961). Innominate Osteotomy in the Treatment of Congenital Dislocation and Subluxation of the Hip. The Journal of Bone AND Joint Surg; 43 (3): 518-539. 2. Gulman B, Tuncay I C, Dabak N and Karaismailoglu N (1994). Salter’s Innominate Osteotomy in the Treatment of Congenital Hip Dislocation: A Long-Term Review. Journal of Pediatric Orthopaedics; 14 (5): 662-666. 3. Morin C, Rabay and G. Morel (1998). Retrospective Review at Skeletal Maturity of the Factors Affecting the Efficacy of Salter’s Innominate Osteotomy in Congenital Dislocated, Subluxed, and Dysplastic Hips. Journal of Pediatric Orthopaedics; 18 (2): 246- 253. 4. McCluskey W P, Bassett G S, Mora-Garcia D and MacEwen G D (1998). Treatment of Failed Open Reduction for Congenital Dislocation of the Hip. Journal of Pediatric Orthopaedics; 9 (6): 633-639. 5. Hsiech S M and Huang S C (1998). Treatment of Developmental Dysplasia of the Hip after Failed Open Reduction. Journal of the Formosan Medical Association; 97 (11): 763-769. 6. Tavares JO and Molinero K (2006). Elevation of Medial Tibial Condyle for Severe Tibia Vara. Journal of Pediatric Orthopaedics B; 15 (5): 362-369. 7. Tưnnis D (1987). Review of the Literature on Open Reduction of the Hip in Congenital Dysplasia and Dislocation of the Hip in Children and Adults. Springer, Berlin Heidelberg New York. 332-342. 8. Kalamchi A and MacEwen G D (1980). Vascular Necrosis Following Treatment of Congenital Dislocation of the Hip. The Journal of Bone and Joint Surgery; 62 (6): 876-888. 9. Barrett W P, Staheli L T and Chew D E (1986). The Effectiveness of the Salter Innominate Osteotomy in the Treatment of Congenital Dislocation of the Hip. The Journal of Bone & Joint Surgery; 68 (1): 79-87. 10. Trevor D L J and Fixen J A (1975). Acetabuloplasty in the Treatment of Congenital Dislocation of the Hip. The Journal of Bone and Joint; 57-B (2): 167-174. 11. Salter R B, Kostuik J and Dallas S (1969). Avascular Necrosis of the Femoral Head as a Complication of Treatment for Congenital Dislocation of the Hip in Young Children: A Clinical and Experimental Investigation. Canadian Journal of Surgery; 12 (1): 44-61. 12. Nguyen Ngoc Hung (2013). Congenital Dislocation of the Hip in Children between the Ages of One and Three: Open Reduction and Modified Salter Innominate Osteotomy Combined with Fibular Allograft. Open Journal of Orthopedics; 3: 137-152
File đính kèm:
phau_thuat_cat_xuong_chau_va_ghep_xuong_mac_dong_loai_dieu_t.pdf

