Phẫu thuật cấp cứu tim hở tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Một số bệnh lý tim mạch đòi hỏi phải phẫu thuật cấp cứu tim hở có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Tuy

nhiên đây là các can thiệp lớn, nặng nề, nhiều biến chứng, nhất là với các cơ sở mới triển khai phẫu thuật

tim. Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã thực hiện thành công các ca phẫu thuật cấp cứu của các bệnh: thông liên

nhĩ có biến chứng sau can thiệp qua da, u nhày nhĩ trái, viêm nội tâm mạch nhiễm khuẩn van hai lá có cục

sùi lớn và nhồi máu cơ tim có biến chứng rung thất. Nghiên cứu được thực hiện để thông báo lâm sàng các

trường hợp được phẫu thuật tim hở cấp cứu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 10/2019 – tháng 8/2020

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật cấp cứu tim hở tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật cấp cứu tim hở tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Phẫu thuật cấp cứu tim hở tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020102
PHẪU THUẬT CẤP CỨU TIM HỞ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI 
Vũ Ngọc Tú1,2, , Lê Minh Ngọc², Nguyễn Thị Minh Lý1,2
 Vũ Hoàng Phương1,2, Đoàn Quốc Hưng1,2, Nguyễn Lân Hiếu1,2
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Một số bệnh lý tim mạch đòi hỏi phải phẫu thuật cấp cứu tim hở có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Tuy 
nhiên đây là các can thiệp lớn, nặng nề, nhiều biến chứng, nhất là với các cơ sở mới triển khai phẫu thuật 
tim. Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã thực hiện thành công các ca phẫu thuật cấp cứu của các bệnh: thông liên 
nhĩ có biến chứng sau can thiệp qua da, u nhày nhĩ trái, viêm nội tâm mạch nhiễm khuẩn van hai lá có cục 
sùi lớn và nhồi máu cơ tim có biến chứng rung thất. Nghiên cứu được thực hiện để thông báo lâm sàng các 
trường hợp được phẫu thuật tim hở cấp cứu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 10/2019 – tháng 8/2020. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Phẫu thuật tim hở cấp cứu, u nhày nhĩ trái, bắc cầu động mạch vành, thông liên nhĩ, viêm 
nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Phẫu thuật tim hở cấp cứu được áp dụng 
cho các bệnh lý tim mạch như u nhày nhĩ trái, 
viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn có các biến 
chứng nguy hiểm, nhồi máu cơ tim cấp hay các 
biến chứng của can thiệp tim mạch qua da.1-
4 Tuy nhiên đây là những phẫu thuật có nguy 
cơ cao, đặc biệt là ở những đơn vị mới triển 
khai, chưa có nhiều kinh phẫu thuật tim hở.5,6 
Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội hình thành và hoạt động đã từ hơn 10 năm 
nay, với số lượng người bệnh ngày càng tăng. 
Bên cạnh điều trị nội khoa và can thiệp chuyên 
sâu nhiều bệnh lý phức tạp, không ít trường 
hợp đòi hỏi phải chỉ định điều trị phẫu thuật 
cấp cứu (do bản chất bệnh hoặc do quá trình 
điều trị nội khoa, can thiệp có biến chứng). Một 
khi không triển khai được phẫu thuật tim hở, 
người bệnh sẽ phải chuyển đến các Trung tâm 
khác, dẫn đến kéo dài quá trình xử trí cấp cứu, 
làm giảm hiệu quả điều trị, thậm chí dẫn tới tử 
vong. Đứng trước thực tế này, từ tháng 6/2019, 
Đơn vị Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực 
thuộc Trung tâm Tim mạch đã được thành lập 
với nhiệm vụ trọng tâm là phẫu thuật tim hở. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo loạt 
trường hợp đã được phẫu thuật cấp cứu tim 
hở tại đây, từ đó đúc rút kinh nghiệm để phát 
triển chuyên khoa sâu cũng như cung cấp các 
thông tin hữu ích cho các đơn vị đang chuẩn bị 
hay bước đầu phát triển loại phẫu thuật phức 
tạp này.
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
Ca bệnh 1
Bệnh nhân nữ 34 tuổi, vào viện ngày 
8/1/2020 vì khó thở nhẹ, chẩn đoán thông liên 
nhĩ kích thước lớn, giãn thất phải, tăng áp động 
mạch phổi, chỉ định bít thông liên nhĩ bằng 
dụng cụ qua đường can thiệp qua da. Trong 
quá trình thực hiện can thiệp, có tình trạng trôi 
dụng cụ bít nên bệnh nhân được chuyển phẫu 
thuật cấp cứu ngay trong đêm để lấy dụng cụ, 
Tác giả liên hệ: Vũ Ngọc Tú,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 20/11/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 103
vá thông liên nhĩ. Sau mổ bệnh nhân diễn biến 
ổn định, ra viện.
Ca bệnh 2
Bệnh nhân nam, 27 tuổi, vào viện ngày 
20/3/2020 vì sốt, đau thắt lưng kéo dài, khó 
thở nhẹ. Trước đó bệnh nhân được chẩn đoán 
viêm đường tiết niệu, sử dụng kháng sinh kéo 
dài. Tại viện, bệnh nhân tiếp tục có tình trạng 
nhiễm trùng, không xác định được căn nguyên 
vi khuẩn (cấy máu âm tính nhiều lần). Kết quả 
siêu âm tim: van hai lá hở nặng, cục sùi lớn 
lá sau kích thước 25x8mm di động mạnh vào 
trong lòng thất trái, chức năng tim tốt (Hình 1A). 
Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cấp cứu: 
lấy bỏ cục sùi, cắt bỏ phần lá sau tổn thương 
do viêm nội tâm mạc, tạo hình van hai lá, đặt 
vòng van nhân tạo (Hình 1B). Siêu âm thực 
quản kiểm tra trong mổ kết quả tốt. Sau mổ, 
bệnh nhân tiếp tục được sử dụng kháng sinh 
theo phác đồ, diễn biến ổn định, ra viện.
Hình 1. Khối sùi van hai lá lớn di động mạnh trong lòng thất trái trên siêu âm (A) 
và trong mổ (B)
Ca bệnh 3
Bệnh nhân nữ, 68 tuổi, vào viện ngày 
3/5/2020 trong tình trạng suy tim phải nặng 
(khó thở, phù toàn thân, gan to), siêu âm tim 
và chụp cắt lớp lồng ngực có khối u lớn bít kín 
toàn bộ nhĩ trái, tăng áp lực động mạch phổi rất 
nặng, phù phổi cấp, tràn dịch đa màng (Hình 
4A). Bệnh nhân được chỉ định mổ cấp cứu, 
phẫu thuật cắt bỏ khối u nhĩ trái. Sau mổ diễn 
biến thuận lợi, hết phù, không còn suy tim, xét 
nghiệm giải phẫu bệnh xác định u nhày lành 
tính.
Ca bệnh 4
Bệnh nhân nữ, 74 tuổi, tiền sử tăng huyết 
áp, nhiều lần tai biến mạch não cũ, nhập viện 
ngày 5/7/2020 sau khi đã được cấp cứu ngừng 
tuần hoàn tại bệnh viện tuyến trước, chụp cắt 
lớp không có tổn thương não. Sau nhập viện, 
bệnh nhân tiếp tục phải sốc điện cấp cứu do 
có cơn rung thất. Điện tim đồ và xét nghiệm 
hướng có tình trạng nhồi máu cơ tim cấp. Kết 
quả chụp mạch vành: tắc hoàn toàn hệ vành 
trái, hẹp nặng hệ mạch vành phải, cấp máu cho 
động mạch mũ qua tuần hoàn bàng hệ, không 
thể thực hiện can thiệp đặt stent (Hình 2). Bệnh 
nhân được chỉ định mổ cấp cứu, phẫu thuật 
bắc 2 cầu động mạch chủ - động mạch vành 
cho động mạch liên thất trước và động mạch 
liên thất sau. Sau mổ huyết động ổn định, siêu 
âm tim qua thực quản cho thấy tim co bóp tốt. 
Ngày thứ 3 sau mổ tri giác giảm nhanh, có dấu 
hiệu thần kinh khu trú. Chụp cắt lớp kiểm tra 
có hình ảnh nhồi máu lớn toàn bộ hai bán cầu, 
phù não, chèn ép toàn bộ nhu mô não. Tri giác 
tiếp tục xấu đi, gia đình xin không tiếp tục điều 
trị vào ngày thứ 5 sau mổ.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020104
Hình 2. A – Tắc hoàn toàn hệ vành trái; B – Hẹp khít hệ vành phải (1), tái thông 
động mạch liên thất trước
III. BÀN LUẬN
Phẫu thuật cấp cứu tim hở sau bít thông 
liên nhĩ bằng dụng cụ can thiệp qua da có 
biến chứng (cho ca bệnh 1)
Cùng với sự phát triển của các kĩ thuật can 
thiệp, rất nhiều bệnh tim bẩm sinh được sửa 
chữa thành công mà không cần phải phẫu thuật. 
Hiện nay, thông liên nhĩ lỗ thứ phát là một trong 
những bất thường tim bẩm sinh được thực hiện 
can thiệp bít bằng dụng cụ qua da thường qui 
tại các trung tâm tim mạch lớn tại Việt Nam.7,8 
Đây là phương pháp ít xâm lấn nhất, nhẹ nhàng 
nhất và thẩm mĩ nhất để bít kín lỗ thông liên nhĩ, 
nếu so sánh với các phương pháp phẫu thuật 
mổ tim hở qua đường xương ức hay qua đường 
mở ngực có nội soi hỗ trợ. Tuy nhiên bên cạnh 
những ưu điểm trên, can thiệp bít thông liên 
nhĩ bằng dụng cụ qua da cũng có những biến 
chứng nhất định như: rối loạn nhịp, thuyên tắc 
khí, thông tồn lưu, tràn máu màng tim, trôi dụng 
cụ bít Trong các biến chứng này, trôi dụng cụ 
bít đòi hỏi phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu. 
Theo nghiên cứu của tác giả Trương Quang 
Bình, tỉ lệ trôi dụng cụ bít là 3,5%.⁹ Do đó, trong 
một đơn vị can thiệp, luôn phải có sự sẵn sàng 
của chuyên khoa phẫu thuật và sự phối hợp tốt 
đa chuyên khoa là cơ sở để phát triển các kĩ 
thuật tim mạch chuyên sâu. Tuy nhiên, đối với 
những cơ sở mới triển khai phẫu thuật tim hở, 
rất khó có thể cùng lúc thành lập, chuyên sâu 
và luôn luôn sẵn sàng đủ nhân lực thường trực 
cấp cứu tại bệnh viện cho các chuyên khoa hồi 
sức, máy tim phổi nhân tạo, ngoại tim mạch . 
Ngoài ra do phẫu thuật tim chưa nhiều nên có 
thể thiếu nhiều dụng cụ, vật tư, chưa đủ đáp 
ứng khi phải triển khai mổ bất thường. Vì vậy, 
trong những tình huống cấp cứu, chúng tôi phải 
huy động hỗ trợ thêm từ các nguồn ngoài bệnh 
viện, cả về nhẫn lực lẫn trang thiết bị, dụng cụ.
Phẫu thuật cấp cứu viêm nội tâm mạc 
nhiễm khuẩn có cục sùi lớn (cho ca bệnh 2)
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn là bệnh lý 
nặng có tỉ lệ tử vong cao, ngay cả khi được 
phẫu thuật kết hợp điều trị kháng sinh phù hợp, 
với tỉ lệ tử vong 15 đến 20%. Sử dụng kháng 
sinh thích hợp theo kháng sinh đồ là nền tảng 
cho điều trị bệnh lý này. Phẫu thuật bệnh lý van 
tim do Osler tốt nhất được thực hiện khi đã kiểm 
soát được tình trạng nhiễm khuẩn, bao gồm cả 
vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên ngay cả khi chưa 
xác định được căn nguyên vi khuẩn và kháng 
sinh đồ, phẫu thuật sớm vẫn phải đặt ra trong 
một số tình huống như: hở van tim gây suy tim 
nặng, cục sùi lớn trên 10mm.10 Với những 
trường hợp sùi lớn, phẫu thuật được thực hiện 
sớm để tránh nguy cơ tắc mạch hệ thống, cũng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 105
như tăng khả năng xác định vi khuẩn nguồn 
bệnh khi nuôi cấy trực tiếp thương tổn.
Vì nhiều lý do khác nhau, nhất là khi người 
bệnh đã được sử dụng nhiều thuốc kháng sinh 
từ trước (khi được chẩn đoán những bệnh 
nhiễm trùng khác) dẫn tới việc cấy vi khuẩn, 
thực hiện kháng sinh đồ mà không xác định 
được vi khuẩn gây bệnh, ngay cả khi lấy được 
cục sùi van tim trong phẫu thuật để nuôi cấy. 
Theo nghiên cứu của Đoàn Văn Phụng, phẫu 
thuật cho 29 trường hợp thì chỉ có 13,8% cấy 
máu dương tính.³
 Hình 3. A – Cắt bỏ vùng lá sau tổn thương sùi, đứt dây chằng; B – Hình ảnh van hai lá 
có vòng van trên siêu âm tim 3D qua thực quản trong mổ
Phẫu thuật thương tổn hở van hai lá trong 
viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn cũng như với 
các căn nguyên khác, ưu tiên sửa chữa tạo 
hình van nếu tổn thương, cấu trúc van và kĩ 
thuật cho phép 10,11 Phẫu thuật sửa chữa 
thành công không chỉ cho phép bảo tồn chức 
năng tâm thất tốt hơn, mà còn để lại ít dị vật 
trong buồng tim hơn so với thay van nhân tạo, 
do đó cũng giảm bớt nguy cơ tái phát viêm nội 
tâm mạc. Bệnh nhân của chúng tôi được phục 
hồi lại lá sau van hai lá sau khi đã cắt bỏ tứ giác 
phần lá sau thương tổn và đặt vòng van (Hình 
3A). Kết quả sửa van được khẳng định tốt bằng 
siêu âm tim qua thực quản ngay trong mổ (Hình 
3B). Đây cũng là căn cứ hết sức quan trọng để 
khẳng định hiệu quả của sửa van hai lá cũng 
như có phải thực hiện thay van nhân tạo hay 
không.
Phẫu thuật cấp cứu u nhày trong tim có 
biến chứng nặng (cho ca bệnh 3)
 Hình 4. A - Khối u nhày lớn bít kín buồng nhĩ trái, tràn dịch khoang màng phổi 2 bên 
trên siêu âm tim; B - khối u trong mổ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020106
U nhày của tim thường là các khối u lành 
tính, đa phần nằm trong buồng nhĩ trái (92,5% 
theo tác giả Kyo SL).12 Đây là những khối có 
cuống, di động mạnh theo sự co bóp của các 
buồng tim. Khi khối u nhỏ, người bệnh không 
có triệu chứng. Triệu chứng xuất hiện khi khối 
u to, chèn lỗ nhĩ thất gây hẹp, hở van hai lá. 
Ngoài ra, vì u di động mạch và dưới tác động 
của dòng máu, một phần khối u có thể rời ra 
và di chuyển vào mạch máu hệ thống gây các 
biến chứng vô cùng nguy hiểm, đó là nhồi máu 
não, tạng ổ bụng hay thiếu máu chi cấp tính. 
Do đó, u nhày trong tim cần được chỉ định mổ 
sớm như một cấp cứu trì hoãn để tránh các 
biến chứng này. Tại Việt Nam, một số trung tâm 
cũng đã thông báo những trường hợp bệnh 
nhân u nhày trong tim được mổ cấp cứu với kết 
quả tốt.1,2 Với những nghiên cứu với số lượng 
bệnh nhân lớn, tỉ lệ mổ cấp cứu cho loại bệnh 
lý này chiếm tới gần 30%.12
Trường hợp bệnh nhân của chúng tôi phẫu 
thuật càng phải đặt ra sớm vì ngoài bít lỗ van 
hai lá, khối u còn chèn kín các tĩnh mạch phổi, 
gây tăng áp lực động mạch phổi rất nặng, phù 
phổi cấp và tràn dịch màng phổi hai bên (Hình 
4B). Đây là những hậu quả nặng do đến muộn, 
rất ít gặp với bệnh u nhày trong tim. Lý do chính 
là vì người bệnh không đi khám, mặc dù triệu 
chứng rõ ràng. Ngoài ra còn một nguyên nhân 
khách quan khác ít nhiều cũng ảnh hưởng tới 
sự chậm trễ này là trùng với thời điểm Việt Nam 
phải thực hiện cách ly xã hội toàn diện do bùng 
phát dịch Covid 19. Phẫu thuật là biện pháp 
điều trị quyết định cho bệnh u nhày trong tim, 
với tỉ lệ biến chứng thấp, dưới 5%.12
Phẫu thuật cấp cứu nhồi máu cơ tim cấp 
– biến chứng rung thất – tổn thương não sau 
cấp cứu ngừng tuần hoàn (cho ca bệnh 4)
Nhồi máu cơ tim cấp gây rối loạn nhịp, rung 
thất là một trong những chỉ định can thiệp, 
phẫu thuật động mạch vành tối cấp cứu.13 Do 
đó, bệnh nhân này đã được thực hiện những 
thủ thuật, can thiệp và phẫu thuật cấp cứu hết 
sức kịp thời. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp nhất 
ở bệnh nhân này là tình trạng tổn thương thần 
kinh với tiền sử tai biến mạch não, lại phải cấp 
cứu ngừng tuần hoàn, rung thất nhiều lần, hoàn 
toàn có thể dẫn tới thiếu máu não nặng nề. Tại 
thời điểm nhập viện, sau cấp cứu chống rung 
thất, bệnh nhân còn tỉnh chậm, không có dấu 
hiệu thần kinh khu trú, phim chụp cắt lớp trước 
đó không thấy có tổn thương não. Chúng tôi 
không cho chụp lại trước khi phẫu thuật vì tình 
trạng tri giác của bệnh nhân không xấu đi, không 
có dấu hiệu thần kinh khu trú, trong huyết động 
của bệnh nhân không ổn định, dọa rung thất, 
có thể phải cấp cứu ngừng tuần hoàn nếu đi 
chụp. Ngoài ra, để hạn chế đến mức thấp nhất 
tổn thương não tiến triển nặng hơn, trong quá 
trình phẫu thuật, chúng tôi luôn duy trì huyết áp 
và áp lực chạy máy tim phổi nhân tạo ở mức 
cao hơn bình thường. Diễn biến của bệnh nhân 
trong 2 ngày đầu ổn định, tới ngày thứ 3 mới có 
các dấu hiệu tổn thương não tiến triển (Hình 5). 
Hình 5. Nhồi máu não diện rộng trên phim 
chụp CT sau mổ
Sau đó tiến triển phù não rất nhanh và không 
thể tiến hành phẫu thuật giải tỏa não. Vì vậy, 
mặc dù không có chống chỉ định phẫu thuật 
phục hồi lưu thông mạch vành, tổn thương não 
sau khi cấp cứu ngừng tuần hoàn ở bệnh nhân 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 107
nhồi máu cơ tim cấp luôn phải đặt ra các vấn 
đề phức tạp về chẩn đoán và xử trí kể cả trước, 
trong và sau mổ.
IV. KẾT LUẬN
Phẫu thuật tim hở được triển khai tại Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 10 năm 2019. 
Bên cạnh các phẫu thuật thường qui, chúng tôi 
đã thực hiện nhiều ca mổ cấp cứu nặng với kết 
quả tốt. Tuy nhiên, phẫu thuật tim hở trong cấp 
cứu luôn tiềm ẩn nguy cơ cao, đòi hỏi quá trình 
chẩn đoán, phẫu thuật và điều trị sau mổ vừa 
khẩn trương nhưng vẫn phải đảm bảo chính 
xác cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Anh Tiến, Đặng Quang Huy, Ngô Thành 
Hưng, Lê Ngọc Thành. Phẫu thuật cấp cứu lấy 
u nhày thất trái: Nhân một trường hợp mổ thành 
công tại Trung tâm tim mạch - Bệnh viện E. Tạp 
chí Phẫu thuật tim mạch và lồng ngực Việt Nam. 
2014; 8: 53 - 56. 
2. Đặng Quang Huy, Trần Đắc Đại, Nguyễn 
Toàn Thắng, Nguyễn Thị Hảo, Thành LN. Cắt u 
nhày nhĩ trái khổng lồ bằng phương pháp nội 
soi toàn bộ không robot hỗ trợ. Tạp chí Phẫu 
thuật tim mạch và lồng ngực Việt Nam. 2017; 
17: 58 - 60. 
3. Đoàn Văn Phụng, Phạm Thọ Tuấn Anh. 
Vai trò của điều trị ngoại khoa trong viêm nội tâm 
mạc nhiễm khuẩn trên van tim tự nhiên. Tạp chí 
Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 2013; 17: 227 - 
231. 
4. Nguyễn Thái Minh, Nguyễn Hoàng Hà, Hà 
Mai Hương, Hoàng Văn, Đoàn Quốc Hưng. Kết 
quả sớm bắc cầu chủ vành cấp cứu tại Bệnh 
viện Tim Hà Nội. Tạp chí Phẫu thuật tim mạch và 
lồng ngực Việt Nam. 2020; 30: 116 - 125. 
5. Nguyễn Hữu Ước, Vũ Ngọc Tú. Kinh 
nghiệm tổ chức phẫu thuật cấp cứu sử dụng 
máy tim phổi nhân tạo tại Bệnh viện Việt Đức. 
Tạp chí Y học Việt Nam. 2012.
6. Lê Ngọc Thành. Tổng quan tình hình hoạt 
động của Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện E sau 
17 tháng. Tạp chí Phẫu thuật tim mạch và lồng 
ngực Việt Nam. 2012; 1: 16 - 21. 
7. Trần Tiến Anh, Nguyễn Lân Hiếu. Nghiên 
cứu đặc điểm thông liên nhĩ lỗ thứ hai có phình 
vách liên nhĩ và kết quả sớm can thiệp bít lỗ 
thông bằng dụng cụ qua da. Tạp chí Tim mạch 
học Việt Nam. 2018; 84 - 85: 261 - 262. 
8. Nguyễn Thị Mai Ngọc, Kim Ngọc Thanh, 
Nguyễn Thị Duyên, et al. Can thiệp tim bẩm sinh 
tại Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch 
Mai. Kết quả sau 2 năm nhìn lại 2015-2016. Tạp 
chí Tim mạch học Việt Nam. 2018; 84 - 85: 145 
- 152. 
9. Trương Quang Bình, Đỗ Nguyên Tín, 
Võ Mỹ Phượng, Vũ VH. Biến chứng sớm của 
phương pháp đóng thông liên nhĩ lỗ thứ phát 
bằng dụng cụ qua thông tim can thiệp. Tạp chí 
Tim mạch học Việt Nam. 2015; 70: 69 - 74. 
10. Nishimura RA, Otto CM, Bonow RO, 
Carabello BA. 2014 AHA/ACC Guideline for the 
Management of Patients With Valvular Heart 
Disease. J Am Coll Cardiol. 2014; 63(22): e57 
- e185. 
11. Nguyễn Hoàng Hà, Vũ Anh Dũng, Trần 
Văn Đồng, Nguyễn Quốc Anh, Đặng Hanh Đệ. 
Nhân một trường hợp sửa cả van hai lá và van 
động mạch chủ do viêm nội tâm mạc nhiễm 
khuẩn. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam. 2006; 
43: 61 - 65. 
12. Kyo Seon Lee, Gwan Sic Kim, Yochun 
Jung, et al. Surgical resection of cardiac 
myxoma—a 30-year single institutional 
experience. J Cardiothorac Surg. 2017; 12: 1 - 6. 
13. Roffi M, Patrono C, Collet JP, Mueller C. 
2015 ESC guidelines for the management of 
acute coronary syndromes in patients presenting 
without persistent ST-segment elevation. 
European Heart Journal. 2015; 37(3): 267 - 315.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020108
Summary
URGENT OPEN HEART SURGERY IN HANOI MEDICAL 
UNIVERSITY HOSPITAL
Cardiovascular diseases (acute myocardiac infarction, cardiac myxoma, infective endocarditis) 
require urgent open heart surgery. However, they are severe and difficult intervention in a new 
cardiac surgery center. Hanoi medical university hosptial has sucessfully performed these 
operations of interatrial communication, left atrial myxoma, infective endocarditis with mobile 
vegetation greater than 10 mm and acute myocardial infarction. Report of case series of urgent 
open heart surgery in Hanoi medical university in period of October 2019 to August 2020.
Key words: Urgent open heart surgery, left atrial myxoma, coronary aortic bypass graft, 
atrial septal defect, infective endocarditis.

File đính kèm:

  • pdfphau_thuat_cap_cuu_tim_ho_tai_benh_vien_dai_hoc_y_ha_noi.pdf