Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ với nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế

TÓM TẮT

Bài nghiên cứu sẽ xem xét vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đến sự tăng năng suất,

hiệu quả trong nền kinh tế Việt Nam. Dựa trên các phương pháp định tính như thống kê mô tả, so

sánh đối chiếu, bài viết sẽ đi vào phân tích các đóng góp của việc phát triển các ngành CNHT

trong nước đối với việc tăng năng suất, hiệu quả các ngành và cả nền kinh tế của Việt Nam thông

qua việc nâng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính, thu hút và định hướng có hiệu

quả các dòng vốn FDI, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức, thúc đẩy sự liên kết, .Từ đó, kết luận

của bài viết cho thấy rằng, ngành CNHT có vai trò quan trọng với năng suất hiệu quả trong nền

kinh tế.

pdf 16 trang phuongnguyen 5980
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ với nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ với nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế

Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ với nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018 
61 
PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VỚI NÂNG CAO 
NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ CỦA NỀN KINH TẾ 
DEVELOPMENT OF THE SUPPORTING INDUSTRY WITH ENHANCING EFFICIENCY 
AND EFFICIENCY OF THE ECONOMY 
Ngày nhận bài: 23/08/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 11/09/2018 
Vũ Thị Thanh Huyền 
TÓM TẮT 
Bài nghiên cứu sẽ xem xét vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đến sự tăng năng suất, 
hiệu quả trong nền kinh tế Việt Nam. Dựa trên các phương pháp định tính như thống kê mô tả, so 
sánh đối chiếu, bài viết sẽ đi vào phân tích các đóng góp của việc phát triển các ngành CNHT 
trong nước đối với việc tăng năng suất, hiệu quả các ngành và cả nền kinh tế của Việt Nam thông 
qua việc nâng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính, thu hút và định hướng có hiệu 
quả các dòng vốn FDI, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức, thúc đẩy sự liên kết, ...Từ đó, kết luận 
của bài viết cho thấy rằng, ngành CNHT có vai trò quan trọng với năng suất hiệu quả trong nền 
kinh tế. 
Từ khóa: công nghiệp hỗ trợ, năng suất, hiệu quả. 
ABSTRACT 
The paper examines the role of supporting industry (SI) in productivity growth in the Vietnamese 
economy. Based on qualitative methods such as descriptive statistics, comparative analysis, the 
paper will go into the analysis of the contributions of developing SI in the country to increasing 
productivity and efficiency of industries and also the economy of Vietnam through enhancing the 
competitiveness of key industrial products, attracting and effectively orienting FDI inflows, 
innovating technology, renovating the organization, promoting the linkage, etc. From that, the 
conclusions of the paper show that the SI plays an important role in the productivity of the 
economy. 
Keywords: supporting industry, productivity, effective. 
1. Giới thiệu 
Trong những năm gần đây, tăng trưởng 
kinh tế Việt Nam có nhiều biến động phức 
tạp, tốc độ tăng không ổn định. Nền kinh tế 
tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn trong khi 
năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn 
thấp, đã khiến chất lượng tăng trưởng thấp và 
thiếu tính bền vững . Phát triển các ngành 
công nghiệp hỗ trợ được coi là biện pháp 
được ưu tiên trong giai đoạn hiện nay nhằm 
nâng cao sức cạnh tranh cho ngành công 
nghiệp chế biến chế tạo nói riêng và tạo lợi 
thế cạnh tranh cho cả nền kinh tế nói chung. 
Việc đưa ra những phân tích về ảnh hưởng 
của phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đến 
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam 
sẽ là những cơ sở cần thiết cho việc nhận 
thức đúng về tầm quan trọng của ngành 
CNHT và từ đó, đề xuất những biện pháp 
phù hợp để phát triển CNHT đồng thời thúc 
đẩy tăng năng suất, hiệu quả, tăng trưởng của 
nền kinh tế. 
2. Tổng quan nghiên cứu 
Nghiên cứu về vai trò của ngành CNHT 
đối với năng suất và hiệu quả của nền kinh tế 
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên 
cứu. Các nghiên cứu đều khẳng định vai trò 
tích cực của phát triển CNHT đến nền kinh tế 
tại mỗi quốc gia. Mô hình kim cương của 
Michael Porter (Michael Porter, 2012) đã xác 
Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương 
Mại 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
62 
định, một trong bốn yếu tố hình thành nên lợi 
thế cạnh tranh quốc gia là Các ngành công 
nghiệp hỗ trợ và liên quan. Theo ông, thông 
qua việc tiếp cận hầu hết các yếu tố đầu vào 
sẵn có từ ngành CNHT, ngành công nghiệp 
sẽ sinh lời một cách hiệu quả, sớm, nhanh 
chóng. Đồng thời, ngành CNHT có khả năng 
tạo ra mối liên kết, tạo ra quá trình đổi mới 
và cải tiến, từ đó góp phần tăng năng suất của 
các ngành CN nói riêng và nền kinh tế nói 
chung. Junichi Mori (Junichi Mori, 2005) thì 
lập luận rằng, CNHT góp phần giúp nền kinh 
tế tăng trưởng trong dài hạn vì nó là điều 
kiện cần thiết để duy trì nguồn vốn FDI cho 
ngành lắp ráp cuối cùng tương đối lâu hơn so 
với một quốc gia không có ngành CNHT 
cạnh tranh, sự phát triển của ngành CNHT sẽ 
tạo nên ảnh hưởng tích cực trong việc thúc 
đẩy đổi mới công nghệ, .... Còn theo Ha-Joon 
Chang, Antonio Andreoni và Ming Leong 
Kuan (Ha-Joon Chang et al., 2013), có một 
sự công nhận rộng rãi rằng công nghiệp chế 
biến chế tạo nói chung và CNHT nói riêng là 
nguồn gốc chính của tăng trưởng năng suất 
theo định hướng công nghệ trong nền kinh tế 
hiện đại, đồng thời, những kết quả trong 
ngành CNHT đã và đang trở nên vô cùng 
quan trọng trong sự tăng trưởng năng suất 
các ngành khác Như vậy, các nghiên cứu 
đã đưa ra một số luận cứ lý thuyết để khẳng 
định vai trò của ngành CNHT đối với năng 
suất và hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên, 
hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào xem xét 
một cách độc lập, phân tích rõ sự ảnh hưởng 
của ngành CNHT đến năng suất, hiệu quả tại 
các quốc gia. 
3. Một số lý thuyết về công nghiệp hỗ trợ 
3.1. Khái niệm: 
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) theo nghĩa 
rộng được hiểu là việc sản xuất ra các sản 
phẩm trung gian cho quá trình sản xuất chính 
như sơ chế các nguyên liệu thô hoặc chế tạo 
một phần những sản phẩm chính tương tự 
theo tiêu chuẩn kỹ thuật và giấy phép của 
chính hãng. Hoặc theo nghĩa hẹp “Công 
nghiệp hỗ trợ gồm một nhóm các hoạt động 
công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian 
(gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản 
xuất ra các linh kiện phụ tùng) cho các ngành 
công nghiệp lắp ráp và chế biến”. (Nguyễn 
Thị Xuân Thúy, 2007) 
Trong phạm vi của bài viết này, tác giả 
tiếp cận CNHT theo nghĩa tương đối hẹp, 
theo đó, Công nghiệp hỗ trợ là các ngành 
công nghiệp sản xuất các linh kiện, phụ tùng, 
bán thành phẩm để cung cấp cho các ngành 
công nghiệp lắp ráp như ngành ô tô, xe máy, 
điện tử,... 
3.2. Các giai đoạn phát triển của CNHT: 
CNHT thường phát triển theo các giai đoạn 
khác nhau, với chất lượng và sức cạnh tranh 
của sản phẩm CNHT sản xuất trong nước 
ngày càng tăng. (Lê Xuân Sang and Nguyễn 
Thị Thu Huyền, 2011). Sơ đồ về các giai đoạn 
phát triển CNHT được thể hiện như sau 
Hình 1. Các giai đoạn phát triển cnht 
Nguồn: (Lê Xuân Sang and Nguyễn Thị Thu 
Huyền, 2011) 
3.3. Về đặc điểm CNHT: 
Theo (Hoàng Văn Châu, 2010), ngành 
CNHT có 5 đặc điểm cơ bản như sau: 
Thứ nhất, tính đa cấp của công nghiệp hỗ 
trợ. Các doanh nghiệp tham gia CNHT nằm ở 
các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018 
63 
xuất ra sản phẩm cuối cùng. Mỗi sản phẩm 
bất kỳ đều trải qua một quá trình sản xuất, 
bắt đầu từ nguyên liệu thô, qua các giai đoạn 
khác nhau cho tới khi giá trị được tích lũy 
vào thành phẩm cuối cùng. Trong chuỗi sản 
xuất này, các nhà cung cấp được phân loại 
theo cấp độ, vị trí họ tham gia vào hệ thống. 
Ngoài ra, tính đa cấp trong sản xuất CNHT 
còn thể hiện ở chỗ, các nhà cung cấp sản 
phẩm CNHT có thể rất khác nhau về quy mô 
vốn, quy mô sản xuất, sở hữu, công nghệ, ... 
Thứ hai, tính hệ thống liên kết theo quy 
trình sản xuất, theo khu vực và phụ thuộc vào 
ngành công nghiệp chính. Do cùng nằm 
trong chuỗi giá trị của sản xuất, các doanh 
nghiệp CNHT có mối quan hệ liên kết chặt 
chẽ với nhau. Từ mối quan hệ này cũng dẫn 
đến yêu cầu cần phát triển CNHT một cách 
có hệ thống và tập trung theo các cụm, khu 
công nghiệp. Các cụm liên kết ngành 
(CLKN) được hình thành từ sự tập trung cao 
độ các DN trong một số ngành, lĩnh vực có 
liên quan chặt chẽ với nhau, do đó, sự lớn 
mạnh của một CLKN thường kéo theo sự gia 
tăng và phát triển bền vững của các DN trong 
ngành CNHT. 
Thứ ba, tính đa dạng về công nghệ và 
trình độ sản xuất. Sự đa dạng về công nghệ 
trong sản xuất CNHT xuất phát từ việc có 
nhiều loại linh kiện, phụ tùng được cung ứng 
trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối 
cùng; có những sản phẩm linh kiện đòi hỏi 
sản xuất với trình độ công nghệ cao như 
những bộ phận điều khiển, điện tử, ...; ngược 
lại, có những chi tiết không đòi hỏi kỹ thuật 
quá khó như các linh kiện cao su, nhựa, ... 
Thứ tư, thu hút một số lượng lớn doanh 
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
Do đặc tính đa cấp, đa dạng về công nghệ; do 
sự tham gia vào nhiều công đoạn của sản 
xuất nên ngành CNHT thu hút một số lượng 
lớn các doanh nghiệp, với các quy mô, trình 
độ đa dạng, trong đó, số lượng doanh nghiệp 
ở cấp thấp rất lớn. Đa phần các doanh nghiệp 
ở cấp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
3.4. Vai trò của ngành CNHT đến năng 
suất, hiệu quả kinh tế 
Một là, các lĩnh vực sản xuất CNHT là 
nguồn cung cấp chính cho nhu cầu của các 
hoạt động năng suất cao trong các ngành 
công nghiệp khác bởi vì nó có khả năng sản 
xuất đầu vào sản xuất (ví dụ như máy móc, 
hóa chất, sản xuất các linh phụ kiện và công 
cụ, ). Do đó, những kết quả trong ngành 
CNHT đã và đang trở nên vô cùng quan 
trọng trong sự tăng trưởng năng suất của các 
ngành khác. (Ha-Joon Chang, Antonio 
Andreoni and Ming Leong Kuan, 2013). 
Thông qua việc đáp ứng kịp thời hầu hết các 
yếu tố đầu vào sẵn có từ ngành CNHT, các 
ngành công nghiệp sẽ sinh lời một cách hiệu 
quả, nhanh chóng và đôi khi được ưu đãi 
(Michael Porter, 2012). 
Hai là, CNHT phát triển thúc đẩy sự đổi 
mới tổ chức, nâng cao năng suất lao động. 
Năng suất tăng trưởng trong hai thế kỷ qua 
đã được thúc đẩy không chỉ bằng cách thay 
đổi công nghệ mà còn thay đổi tổ chức, hầu 
hết có nguồn gốc từ khu vực sản xuất công 
nghiệp nói chung và CNHT nói riêng (Ha-
Joon Chang, Antonio Andreoni and Ming 
Leong Kuan, 2013). Để có thể tham gia vào 
chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị của các tập đoàn 
đa quốc gia và xuyên quốc gia, các DN sản 
xuất CNHT cần phải tiến hành đổi mới tổ 
chức, cơ cấu lại các bộ phận trong DN và 
đảm bảo các quy trình sản xuất, các tiêu 
chuẩn chất lượng theo quy định của quốc tế, 
 Ngành CNHT cũng tạo ra lợi thế nhờ việc 
phối hợp liên tục trong sử dụng máy móc và 
các yếu tố đầu vào khác (Michael Porter, 
2012). Các hoạt động này sẽ làm giảm chi 
phí sản xuất, giảm giá thành, nâng cao chất 
lượng sản phẩm cho các doanh nghiệp, đồng 
thời, giúp cho hoạt động sản xuất của DN 
diễn ra ổn định hơn, từ đó, sẽ thúc đẩy năng 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
64 
suất và hiệu quả của DN nói riêng và nền 
kinh tế nói chung. 
CNHT tạo ra quá trình đổi mới và cải tiến 
thông qua mối quan hệ công việc gần gũi 
giữa các nhà cung cấp hàng phụ trợ và nhà 
sản xuất (Michael Porter, 2012). Người cung 
cấp giúp các công ty nắm được các phương 
pháp mới và có cơ hội áp dụng công nghệ 
mới. Các công ty được phép truy cập nhanh 
chóng thông tin, những ý tưởng và kiến thức 
mới và những sáng chế của nhà cung cấp. Họ 
có sức ảnh hưởng đến nỗ lực kỹ thuật của 
nhà cung cấp cũng như trở thành người kiểm 
tra cho việc phát triển các sản phẩm. Việc 
trao đổi công tác R&D và cùng tham gia giải 
quyết các vấn đề đưa đến các giải pháp 
nhanh và hiệu quả hơn. Các nhà cung cấp 
cũng có xu hướng là một kênh truyền thông 
tin và sáng chế từ công ty sang công ty. 
Thông qua quá trình này, tốc độ phát minh 
trong toàn bộ ngành công nghiệp trong nước 
được đẩy nhanh, nâng cao năng suất và hiệu 
quả của toàn ngành. 
Ba là, phát triển CNHT giúp cho một nền 
kinh tế có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả 
nguồn vốn FDI. Sự tập trung của CN linh 
phụ kiện sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà lắp 
ráp nước ngoài đầu tư vào, do đó, sẽ tạo điều 
kiện để tăng cường vốn – một trong những 
yếu tố đầu vào cơ bản cho sản xuất trong nền 
kinh tế. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của FDI đối 
với nước chủ nhà có thể theo hai hướng tác 
động trái ngược nhau. Một mặt, sự gia nhập 
thị trường của các công ty đa quốc gia có thể 
gây ra tiêu cực cho đối thủ cạnh tranh trong 
nước trong cùng lĩnh vực bởi vì sau khi tập 
đoàn đa quốc gia (MNCs) gia nhập thị 
trường, mức sản lượng của các doanh nghiệp 
trong nước trong cùng một ngành có thể bị 
thu hẹp do năng suất của họ thấp hơn các 
MNCs. Mặt khác, FDI có thể cải thiện năng 
suất của các nhà cung cấp trong nước thông 
qua các liên kết ngược. Sản lượng và năng 
suất của các ngành CNHT trong nước có thể 
tăng lên do sự bổ sung nhu cầu công nghệ và 
chuyển giao công nghệ từ MNCs. Vì vậy, 
một đất nước sẽ có nhiều cơ hội để khai thác 
các tác động tích cực từ FDI nếu nó có các 
ngành công nghiệp hỗ trợ cạnh tranh mà có 
thể mở rộng các giao dịch kinh doanh với các 
nhà lắp ráp đa quốc gia (Junichi Mori, 2005). 
Các tác động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng 
năng suất, hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. 
Bốn là, CNHT giúp tiếp thu chuyển giao 
công nghệ, kỹ thuật tiến bộ, từ đó, thúc đẩy 
tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Một 
trong các đặc điểm của sản xuất CNHT là 
phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển khoa học 
công nghệ, đặc biệt là các lĩnh vực sản xuất 
linh kiện, phụ tùng, do đó, ngành CNHT phát 
triển sẽ thúc đẩy quá trình chuyển giao và 
khả năng ứng dụng nhanh chóng của công 
nghệ, kỹ thuật hiện đại vào hoạt động sản 
xuất . Ngoài ra, các kinh nghiệm về quản lý 
sản xuất, đào tạo về nhân lực, ... cũng có thể 
được truyền đạt thông qua sự hợp tác sản 
xuất, kinh doanh với các tập đoàn kinh tế lớn, 
các nhà đầu tư nước ngoài (Viện Nghiên cứu 
quản lý kinh tế Trung Ương, 2009). Đây 
chính là những nhân tố góp phần tăng Tổng 
năng suất các nhân tố (TFP) của nền kinh tế. 
Năm là, CNHT thúc đẩy tính liên kết giữa 
các ngành sản xuất CN trong nền kinh tế, từ 
đó thúc đẩy năng suất, hiệu quả cho nền kinh 
tế. Ngành CNHT có khả năng tạo ra mối liên 
kết giữa các công ty trong chuỗi giá trị và các 
nhà cung cấp của họ (Michael Porter, 2012). 
Do cùng nằm trong chuỗi giá trị, chuỗi cung 
ứng của sản xuất, các doanh nghiệp CNHT 
có mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau và 
có mối liên kết chặt chẽ với các nhà sản xuất, 
lắp ráp cuối cùng. Như vậy, thông qua mối 
liên hệ chặt chẽ giữa các DN trong chuỗi 
cung ứng, các chi phí trong hoạt động sản 
xuất chung sẽ được tối thiểu hóa, từ đó, thúc 
đẩy sự tăng năng suất và hiệu quả trong toàn 
chuỗi sản xuất trong nền kinh tế. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018 
65 
Tóm lại, phát triển CNHT có ý nghĩa vô 
cùng quan trọng đối với tăng năng suất, hiệu 
quả của các ngành công nghiệp nói riêng và 
cả nền kinh tế nói chung. Đóng góp của 
CNHT đến năng suất và hiệu quả trong nền 
kinh tế được thể hiện thông qua nhiều kênh 
khác nhau. Một số kênh tác động chủ yếu của 
CNHT đến năng suất và hiệu quả là: (1) tác 
động trực tiếp đến năng suất, hiệu quả của 
các ngành công nghiệp sản xuất thông qua 
vai trò cung ứng các đầu vào cho sản xuất 
trong nền kinh tế; (2) đổi mới tổ chức; (3) thu 
hút và định hướng sử dụng hiệu quả nguồn 
vốn FDI; (4) đổi mới công nghệ và (5) thúc 
đẩy sự liên kết giữa các DN ... 
4. Nguồn số liệu và phương pháp tiến 
hành phân tích 
Nguồn số liệu: để xem xét, đánh giá tình 
hình phát triển ngành CNHT Việt Nam, cũng 
như đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của 
phát triển CNHT đối với năng suất và hiệu 
quả trong nền kinh tế, bài viết chủ yếu sử 
dụng nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ Tổng 
cục Thống kê, Trung tâm phát triển Doanh 
nghiệp CNHT (SIDEC), các số liệu về XNK 
từ nguồn UNComtrade, các s ... hần 5.1, từ khoảng năm 
2015 trở lại đây, vấn đề đổi mới công nghệ 
tại các DN CNHT đã bắt đầu được quan tâm, 
chú trọng nhiều hơn. Về phía Nhà nước, 
Nghị định 111 ra đời đã quy định cụ thể hơn 
các chính sách hỗ trợ và ưu đãi cho ngành 
CNHT, trong đó có chính sách khuyến khích 
đổi mới về công nghệ. Về phía DN, một số 
đã chủ động đổi mới công nghệ để đáp ứng 
yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp FDI, 
các tập đoàn đa quốc gia.(Trung tâm phát 
triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện 
nghiên cứu chiến lược chính sách Công 
nghiệp, 2016) 
Tuy nhiên, do đặc điểm của các DN 
CNHT tại Việt Nam là có quy mô nhỏ và 
vừa, thiếu vốn, lao động trình độ cao, cộng 
với sự thiếu sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, quá 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018 
73 
trình đổi mới và phát triển công nghệ tại các 
DN sản xuất CNHT gặp nhiều khó khăn. 
Nhìn chung, trình độ khoa học công nghệ tại 
các DN CNHT còn nhiều hạn chế, quá trình 
đổi mới công nghệ diễn ra chậm. Từ đó, dẫn 
đến ngành CNHT hiện vẫn chưa có đóng góp 
đáng kể cho sự đổi mới và nâng cao trình độ 
công nghệ cho toàn ngành sản xuất công 
nghiệp, cũng như cho toàn nền kinh tế. Các 
ngành CN CBCT của Việt Nam hiện nay vẫn 
chủ yếu trong tình trạng lắp ráp, giá trị gia 
tăng thấp là do sự kém phát triển của ngành 
CNHT. Trong bối cảnh này, để thúc đẩy tăng 
trưởng và nâng cao năng suất, hiệu quả kinh 
tế, rất cần có sự hỗ trợ từ phía chính phủ để 
đổi mới công nghệ trong ngành CNHT. 
Về đổi mới tổ chức, đã bắt đầu có những 
ảnh hưởng tích cực, đặc biệt với những DN 
CNHT đã được tham gia vào các chuỗi cung 
ứng với các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn 
đa quốc gia, xuyên quốc gia,  Chẳng hạn, 
với một số DN cung ứng cho Samsung như 
Công ty CP sản xuất điện tử Thành Long, 
Công ty CP Hanel xốp nhựa, Công ty TNHH 
cơ khí HTMP Việt Nam, là ba trong số 
215 DN Việt tham gia chuỗi cung ứng của 
Samsung. Để có thể trở thành nhà cung cấp 
cho Samsung, các DN này đã phải tiến hành 
rất nhiều các đổi mới, cải tiến về mặt tổ chức 
sản xuất, nâng cao hiệu quả và năng suất; 
đồng thời, các DN cũng nhận được sự tư vấn 
cải tiến DN do chính các chuyên gia của 
Samsung từ Hàn Quốc thực hiện. Thông qua 
những hoạt động như vậy, năng suất và hiệu 
quả hoạt động của các DN CNHT chắc chắn 
sẽ được cải thiện, và ảnh hưởng tích cực đến 
quá trình tăng năng suất, hiệu quả trong sản 
xuất của nền kinh tế. 
Tuy nhiên, phần lớn các DN CNHT thuần 
Việt đều gặp khó khăn trong quá trình đổi 
mới tổ chức, tổ chức, sắp xếp lại sản xuất do 
những khó khăn trong chất lượng nguồn nhân 
lực, thiếu vốn,  Sự thiếu hụt về cả số lượng 
và chất lượng nhân lực cũng là nguyên nhân 
khiến các DN CNHT chậm đổi mới công 
nghệ và tiếp cận với các DN trong chuỗi 
cung ứng. 
Tóm lại, có thể thấy rằng, trong thời gian 
qua, do thực trạng chung kém phát triển, 
ngành CNHT Việt Nam chưa có những đóng 
góp đáng kể đối với tăng năng suất và hiệu 
quả chung trong nền kinh tế. Tuy nhiên, 
ngành CNHT cũng đã có những vai trò nhất 
định trong việc gia tăng thu hút FDI vào lĩnh 
vực CN CBCT, thúc đẩy sự đổi mới công 
nghệ và đổi mới tổ chức. Thêm vào đó, quá 
trình liên kết giữa các DN đã bắt đầu trong 
quá trình hình thành, mặc dù chưa thực sự 
hiệu quả, nhưng đã có những ảnh hưởng nhất 
định đến sự phát triển ngành CNHT, và lâu 
dài sẽ có ảnh hưởng tốt đến quá trình tăng 
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Như vậy, 
để thúc đẩy sự tăng năng suất, hiệu quả trong 
sản xuất công nghiệp nói riêng và cả nền 
kinh tế nói chung, giải pháp phát triển các 
ngành CNHT vẫn là rất quan trọng và cần 
thiết cho Việt Nam trong những năm tiếp 
theo. 
6. Một số gợi ý giải pháp và kiến nghị phát 
triển ngành CNHT để nâng cao năng suất, 
hiệu quả trong nền kinh tế giai đoạn hiện 
nay 
Dựa trên những phân tích, đánh giá thực 
trạng phát triển ngành CNHT Việt Nam gắn 
với nâng cao năng suất, hiệu quả của nền 
kinh tế, có thể nhận định chung rằng sự kém 
phát triển của các ngành CNHT khiến cho 
ngành chưa có những tác động tích cực đáng 
kể đến tăng năng suất, hiệu quả của nền 
kinh tế. Đặc biệt, các vấn đề liên quan đến 
thu hút đầu tư còn hạn chế, chất lượng 
nguồn nhân lực phục vụ cho ngành CNHT 
hiện vẫn vô cùng yếu, ứng dụng tiến bộ 
công nghệ diễn ra chậm và tính liên kết yếu, 
là những tồn tại lớn trong quá trình phát 
triển CNHT. Do đó, để thúc đẩy phát triển 
CNHT, từ đó thúc đẩy năng suất và hiệu quả 
trong nội bộ ngành nói riêng và cả nền kinh 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
74 
tế nói chung, cần tập trung vào một số giải 
pháp và kiến nghị như sau: 
6.1. Một số giải pháp 
Thứ nhất, thu hút và định hướng dòng vốn 
đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài 
vào ngành CNHT. Như đã phân tích trong 
phần thực trạng, hiện nay, các DN CNHT 
Việt Nam chủ yếu là đối tượng DN nhỏ và 
vừa, thiếu vốn; thêm vào đó, mặc dù lượng 
vốn FDI được thu hút vào ngành CN CBCT 
là tương đối lớn, nhưng lại không định hướng 
cụ thể vào ngành CNHT, dẫn đến hiệu quả sử 
dụng FDI thấp, chưa có đóng góp đáng kể 
vào tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. 
Do đó, trong thời gian tới, cần có các biện 
pháp thu hút FDI theo hướng trọng tâm hơn 
vào ngành CNHT. 
Để thu hút các dự án FDI vào sản xuất 
công nghiệp hỗ trợ, cần có các ưu đãi thích 
hợp đủ sức hấp dẫn. Đối với các doanh 
nghiệp FDI có qui mô vừa trở lên,thường có 
nguồn lực tương đối mạnh, vì vậy, một trong 
những ưu đãi mà họ quan tâm nhất khi đầu tư 
vào Việt Nam là ưu đãi thuế thu nhập doanh 
nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp 
CNHT vừa và nhỏ của Nhật Bản có trình độ 
công nghệ và sản xuất rất cao cũng là đối 
tượng cần phải hướng tới để thu hút. Các 
doanh nghiệp này có qui mô vừa và nhỏ, họ 
cần có sự hỗ trợ và sẵn sàng về mặt hạ tầng 
như mặt bằng, hệ thống nhà xưởng, thủ tục 
hành chính...trong các cụm công nghiệp hỗ 
trợ. Về phía DN CNHT Việt Nam, để có thể 
thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn 
FDI thì doanh nghiệp cần chủ động trong tìm 
kiếm đối tác, nhà đầu tư thông qua nhiều 
kênh khác nhau như khách hàng, đối tác 
truyền thống, các hội chợ, hội thảo xúc tiến 
thương mại, ... Doanh nghiệp cũng cần cho 
thấy nỗ lực không ngừng cài tiến và sự sẵn 
sàng thay đổi để đáp ứng nhu cầu của nhà 
đầu tư, khách hàng, ... – đây là một trong 
những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư đưa ra 
quyết định đầu tư. 
Thứ hai, Các DN CNHT cần chủ động, 
tích cực trong đổi mới công nghệ, đổi mới tổ 
chức sản xuất. Để có thể tham gia vào các 
chuỗi cung ứng của các tập đoàn điện tử đa 
quốc gia như Samsung, Canon, ..., DN cần 
chủ động nghiên cứu các xu hướng công 
nghệ trên thế giới nói chung, và các tập đoàn 
điện tử lớn nói riêng. Để làm được điều này 
rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc 
tạo ra môi trường chia sẻ thông tin minh 
bạch, cập nhật; đồng thời, phía DN cũng cần 
gia tăng sự liên kết với khách hàng, nhà cung 
cấp của mình để nắm bắt được các ý tưởng, 
xu hướng công nghệ mới. Mặt khác, DN 
cũng cần mạnh dạn đầu tư công nghệ mới, 
công nghệ tiên tiến, kết hợp với quá trình đổi 
mới quy trình sản xuất để tăng năng suất, 
chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm chi phí, 
giảm giá bán sản phẩm, đáp ứng được các 
yêu cầu về chất lượng, giá cả và thời gian 
giao hàng cho các khách hàng của DN. 
Thứ ba, thúc đẩy sự liên kết giữa doanh 
nghiệp CNHT với các doanh nghiệp lắp ráp; 
các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn đa quốc 
gia để tận dụng các cơ hội nhận được các hỗ 
trợ của các tập đoàn lớn trong đổi mới công 
nghệ, đổi mới tổ chức, từ đó thúc đẩy tăng 
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Sự liên 
kết này nên tập trung vào xác định rõ các yêu 
cầu, nhu cầu với các sản phẩm CNHT; các hỗ 
trợ về công nghệ, nhân lực trong nghiên cứu, 
phát triển sản phẩm; xây dựng các hợp đồng 
dài hạn giữa các bên doanh nghiệp để đảm 
bảo chất lượng cho sản phẩm, cũng như đảm 
bảo đầu ra cho các doanh nghiệp sản xuất 
CNHT. Thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh 
nghiệp CNHT nhằm tạo ra một chuỗi cung 
ứng sản xuất ngay trong nội bộ ngành 
CNHT, tăng tính chuyên môn hóa cho từng 
doanh nghiệp và cho cả ngành CNHT, góp 
phần giảm chi phí sản xuất trên 1 đơn vị sản 
phẩm, thúc đẩy tính kinh tế nhờ quy mô để 
nâng cao năng suất, hiệu quả. Đồng thời, cần 
gia tăng tính liên kết giữa các Hiệp hội và 
trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với nhau, với 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018 
75 
các cơ quan quản lý Nhà nước, viện nghiên 
cứu, để xác định các chính sách, biện pháp 
phù hợp nhất nhằm hỗ trợ phát triển cho 
ngành CNHT trong nước, cũng như tránh các 
biện pháp chồng chéo, trùng lặp giữa các tổ 
chức này, gây lãng phí và kém hiệu quả cho 
xã hội.  
Thứ tư, chú trọng phát triển nguồn nhân 
lực cho ngành CNHT để tạo cơ sở cho sự đổi 
mới tổ chức và nâng cao trình độ công nghệ 
sản xuất. Như đã phân tích trong phần 5.1 và 
5.2, hiện ngành CNHT đang thiếu hụt 
nghiêm trọng về nguồn nhân lực, đặc biệt là 
nguồn nhân lực chất lượng cao, dẫn đến khó 
khăn trong tiếp cận công nghệ, đổi mới tổ 
chức, thúc đẩy tăng năng suất, hiệu quả của 
nền kinh tế. Vì vậy, phát triển nguồn nhân 
lực cho ngành CNHT không chỉ thúc đẩy sự 
phát triển của ngành, mà còn là yếu tố để 
nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. 
Một mặt, cần có chính sách thu hút đội ngũ 
chuyên gia từ các nước có ngành CNHT phát 
triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc  hỗ 
trợ Việt Nam trong xây dựng ngành CNHT; 
mặt khác, cần tập trung hơn nữa trong đào 
tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp 
trong nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho 
phát triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng 
cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia 
chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu. Việc đào 
tạo, nâng cao chất lượng nhân lực ngành 
Công nghiệp có thể được thực hiện thông qua 
hợp tác, liên kết với các tập đoàn lớn, đa 
quốc gia như Samsung; cần nâng cao hơn 
nữa tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh 
nghiệp sản xuất, giữa doanh nghiệp sản xuất 
CNHT trong nước và các doanh nghiệp, tập 
đoàn đa quốc gia, đặc biệt là Nhật Bản. 
6.2. Một số kiến nghị với cơ quan QLNN 
Thứ nhất, Chính sách thu hút đầu tư: hoàn 
thiện các chính sách nhằm thu hút dòng vốn 
đầu tư trực tiếp nước ngoài cho sản xuất 
ngành CNHT trong nước, trong đó, tiếp tục 
chú trọng các chính sách ưu đãi về thuế thu 
nhập, cải thiện môi trường kinh doanh mà 
trước hết là đơn giản hóa thủ tục hành chính 
để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp FDI khi 
xin các cấp phép đầu tư, mở rộng hoạt động 
sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất 
CNHT. Thêm vào đó, Nhà nước tiếp tục 
hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng (đường xá, 
điện, nước, ...), chú trọng cung cấp các dịch 
vụ công cộng có chất lượng (y tế, giáo dục, 
...) đặc biệt tại các khu công nghiệp, khu chế 
xuất, khu kinh tế, ... để tạo ra môi trường 
sống thuận lợi cho các nhà đầu tư, các 
chuyên gia muốn sinh sống, làm việc lâu dài 
tại Việt Nam. 
Thứ hai, chính sách hỗ trợ phát triển công 
nghệ: khẩn trương xây dựng và ban hành các 
Thông tư hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ 
tục để tiếp nhận các hỗ trợ về công nghệ, đặc 
biệt là tăng cường khả năng tiếp cận các 
nguồn vốn hỗ trợ từ Quỹ phát triển công 
nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc 
gia, cũng như 1 số nguồn vốn hỗ trợ khác 
dành cho DNNVV để đầu tư đổi mới và phát 
triển công nghệ, ứng dụng nhanh các công 
nghệ mới, hiện đại cho sản xuất sản phẩm. 
Thêm vào đó, các chính sách hỗ trợ về công 
nghệ có thể thực thi thông qua hệ thống Hiệp 
hội doanh nghiệp, các Trung tâm hỗ trợ 
doanh nghiệp vừa và nhỏ,  để tiếp nhận 
các chuyên gia đến từ các nước có ngành 
CNHT phát triển như Hàn Quốc, Nhật 
Bản, nhằm cung cấp các dịch vụ hướng 
dẫn về công nghệ, hướng dẫn về tiếp cận 
công nghệ mới, cũng như đào tạo, nâng cao 
trình độ về công nghệ cho đội ngũ lãnh đạo 
doanh nghiệp. 
Thứ ba, chính sách hỗ trợ về nhân lực: Để 
dần nâng cao chất lượng nhân lực cho sản 
xuất công nghiệp nói chung, và ngành CNHT 
nói riêng, một mặt, cần có chính sách thu hút 
đội ngũ chuyên gia từ các nước công nghiệp 
phát triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc 
hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng ngành 
CNHT, đào tạo nhân lực và hướng dẫn tiếp 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
76 
cận công nghệ hiện đại; mặt khác, chúng ta 
cũng cần có những cơ chế, chính sách tác 
động để nâng cao hiệu quả trong đào tạo, 
phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong 
nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát 
triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho 
các nhà lắp ráp trong nước và tham gia chuỗi 
sản xuất toàn cầu. Việc đào tạo, nâng cao 
chất lượng nhân lực ngành Công nghiệp có 
thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên 
kết giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp sản xuất 
CNHT với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như 
Samsung; cần nâng cao hơn nữa tính liên kết 
giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản xuất, 
giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong 
nước và các doanh nghiệp lắp ráp, các tập 
đoàn đa quốc gia, ... 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Chang, Ha-Joon; Antonio Andreoni and Ming Leong Kuan. 2013. "International Industrial 
Policy Experiences and the Lessons for the Uk," UK: Foresight, Government Office for 
Science, 10-20. 
Châu, Hoàng Văn ed. 2010. Chính Sách Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Ở Việt Nam Đến 
Năm 2020. Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. 
Mori, Junichi. 2005. "Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: 
Increasing Positive Vertical Externalities through Collaborative Training," Master of 
Arts in Law and Diplomacy Thesis. The Fletcher School, Tufts University., 7-16. 
Porter, Michael. 2012. Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia (Sách Dịch). Hồ Chí Minh, Việt 
Nam: Nhà xuất bản Trẻ. 
Sang, Lê Xuân and Nguyễn Thị Thu Huyền. 2011. "Chính Sách Thúc Đẩy Phát Triển Công 
Nghiệp Hỗ Trợ: Lý Luận, Thực Tiễn Và Định Hướng Cho Việt Nam," Chính sách tài 
chính hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: 1-16. 
Thúy, Nguyễn Thị Xuân. 2007. "Chương 2: Công Nghiệp Hỗ Trợ: Tổng Quan Về Khái 
Niệm Và Sự Phát Triển," K. Ohno, Xây Dựng Công Nghiệp Hỗ Trợ Tại Việt Nam. Việt 
Nam: Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội, 29-52. 
Tổng cục Thống kê. 2016. "Năng Suất Lao Động Của Việt Nam: Thực Trạng Và Giải 
Pháp," Hà Nội, Việt Nam: 4-19. 
____. 2017. "Niêm Giám Thống Kê 2016," Hà Nội, Việt Nam: Nhà xuất bản Thống kê, 269-
418. 
Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính 
sách Công nghiệp. 2015. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo 
Việt Nam," Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động, 174-79. 
____. 2016. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo Việt Nam 2016-
2017," Hà Nội: NXB Công Thương, 213 - 22. 
____. 2017. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo Việt Nam 2017-
2018," Hà Nội: Nhà xuất bản Công thương, 219 - 30. 
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương. 2009. "Phát Triển Các Ngành Công Nghiệp 
Phụ Trợ Thực Trạng Và Một Số Khuyến Nghị," Hà Nội: Viện Nghiên cứu quản lý kinh 
tế Trung Ương 2-23. 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nganh_cong_nghiep_ho_tro_voi_nang_cao_nang_suat_v.pdf