Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi-Tiềm năng, thách thức

Xu hướng mang tính quy luật của cơ cấu kinh tế thế giới chỉ ra rằng tỉ trọng nông nghiệp từ chiếm vị thế quan trọng đã dần nhường cho công nghiệp và cuối cùng vai

trò của kinh tế dịch vụ sẽ chiếm vai trò thống soái, trong đó vai trò của du lịch trong ngành

dịch vụ cũng ngày càng rõ nét. Tại Việt Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm

hơn 14%/năm gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế và chiếm tỷ trọng

ngày càng cao trong ngành dịch vụ, du lịch đã đem lại đóng góp lớn cho sự tăng trưởng và

phát triển kinh tế đất nước với hàng ngàn tỷ đồng. Ngoài ra cùng với sự phát triển của du

lịch cũng dễ tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Với những thuận lợi,

những mặt tích cực mà phát triển du lịch đem lại thì du lịch thực sự có khả năng làm thay

đổi bộ mặt kinh tế của nước ta trong đó phát triển du lịch dân tộc thiểu số là một hướng đi

mới trong những năm gần đây, với sự quan tâm của các cấp, các ngành và chính quyền địa

phương cũng như sự nỗ lực của đồng bào các dân tộc hy vọng sẽ đem lại nguồn thu lớn cho

ngân sách nhà nước.

pdf 5 trang phuongnguyen 4200
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi-Tiềm năng, thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi-Tiềm năng, thách thức

Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi-Tiềm năng, thách thức
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 16/11/2017; Ngày phản biện: 29/11/2017; Ngày đuyệt đăng: 5/12/2017
(1) Học viện Dân tộc; e-mail: dinhthithuthao@cema.gov.vn
Số 20 - Tháng 12 năm 2017
Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng du 
lịch đa dạng và phong phú, tiềm năng ấy thể hiện 
ở các thế mạnh di tích, danh thắng, khu du lịch 
quốc gia, các nét văn hóa độc đáo cũng như các 
vùng du lịch trong cả nước. Tính đến tháng 8 
năm 2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng 
cảnh trong đó có hơn 3000 di tích được xếp hạng 
di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp 
hạng cấp tỉnh. Tới năm 2014, có 8 di sản được 
UNESCO công nhận là Di sản thế giới bao gồm: 
Quần thể danh thắng Tràng An, Thành nhà Hồ, 
Hoàng thành Thăng Long, Quần thể di tích Cố 
đô Huế, Vịnh Hạ Long, Phố Cổ Hội An, Thánh 
địa Mỹ Sơn và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ 
Bàng. Tính đến hết năm 2010 Việt Nam được 
UNESCO công nhận 8 khu dự trữ sinh quyển thế 
giới đó là Châu thổ sông Hồng, Cát Bà, Tây Nghệ 
An, Đồng Nai, Cù Lao Chàm, Cần Giờ, Cà Mau 
và biển Kiên Giang, Việt Nam đứng thứ 27 trong 
số 156 quốc gia có biển trên thế giới với 125 bãi 
tắm biển, hầu hết là các bãi tắm đẹp; là 1/12 quốc 
gia có vịnh đẹp nhất thế giới là vịnh Hạ Long và 
vịnh Nha Trang. 
Là ngành kinh tế mũi nhọn có tầm quan trọng 
trong việc phát triển kinh tế đất nước, du lịch đã 
nhận được nhiều quan tâm của Nhà nước ta và 
các bộ ngành thông qua việc ban hành các văn 
bản pháp lý, các chiến lược, chương trình hành 
động quốc gia như nghị quyết số 92/NQ – CP 
ngày 10/12/2014 của chính phủ về một số giải 
pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong 
thời kỳ mới, quyết định 2473 ngày 30/12/2011 
thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, quyết 
định số 321/QĐ – TTg ngày 18/2/2013 phê duyệt 
chương trình hành động quốc gia về du lịch giai 
đoạn 2013 - 2020 của thủ tướng chính phủ, chỉ thị 
số 18/CT – BVHTTDL ngày 06/02/2012 của Bộ 
văn hóa thể thao du lịch về việc tổ chức triển khai 
thực hiện “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, riêng 
chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu 
số được quy định tại Điều 15 Nghị định 05/2011/
NĐ-CP về công tác dân tộc như sau: “Tập trung 
hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch gắn 
với bảo vệ môi trường, sinh thái; hỗ trợ quảng bá, 
đa dạng hóa các loại hình, các sản phẩm du lịch, 
khai thác hợp lý các tiềm năng, danh lam thắng 
cảnh, phát triển du lịch”.
Ngoài ra, nội dung này còn được hướng dẫn 
bởi Mục 3 Chương II Thông tư 12/2014/TT-
BVHTTDL. Việc nghiên cứu phát triển du lịch 
các vùng dân tộc và miền núi gắn liền với việc 
thực hiện chính sách dân tộc ở các vùng dân tộc 
và miền núi, làm tốt công tác này không chỉ thu 
hút lực lượng lao động làm dịch vụ, tăng thêm 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ 
VÀ MIỀN NÚI - TIỀM NĂNG, THÁCH THỨC
Đinh Thị Thu Thảo(1)
Xu hướng mang tính quy luật của cơ cấu kinh tế thế giới chỉ ra rằng tỉ trọng nông nghiệp từ chiếm vị thế quan trọng đã dần nhường cho công nghiệp và cuối cùng vai 
trò của kinh tế dịch vụ sẽ chiếm vai trò thống soái, trong đó vai trò của du lịch trong ngành 
dịch vụ cũng ngày càng rõ nét. Tại Việt Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 
hơn 14%/năm gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế và chiếm tỷ trọng 
ngày càng cao trong ngành dịch vụ, du lịch đã đem lại đóng góp lớn cho sự tăng trưởng và 
phát triển kinh tế đất nước với hàng ngàn tỷ đồng. Ngoài ra cùng với sự phát triển của du 
lịch cũng dễ tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Với những thuận lợi, 
những mặt tích cực mà phát triển du lịch đem lại thì du lịch thực sự có khả năng làm thay 
đổi bộ mặt kinh tế của nước ta trong đó phát triển du lịch dân tộc thiểu số là một hướng đi 
mới trong những năm gần đây, với sự quan tâm của các cấp, các ngành và chính quyền địa 
phương cũng như sự nỗ lực của đồng bào các dân tộc hy vọng sẽ đem lại nguồn thu lớn cho 
ngân sách nhà nước.
Từ khóa: Du lịch Việt Nam; du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi; tiềm năng và thách 
thức; sản phẩm du lịch Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
95Số 20 - Tháng 12 năm 2017
nguồn thu nhập cho đất nước nói chung và vùng 
dân tộc và miền núi nói riêng mà còn góp phần 
hiểu biết lẫn nhau, giao lưu giữa các miền văn 
hoá, tăng thêm niềm tin và sức mạnh đoàn kết 
dân tộc, trật tự an ninh xã hội ở các vùng du lịch 
dân tộc miền núi, chống mọi luận điệu xuyên tạc 
về chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng 
và Nhà nước ta, tăng cường thêm nét đậm đà bản 
sắc văn hoá các dân tộc.
Tiềm năng phát triển du lịch vùng dân tộc 
miền núi
Vùng dân tộc và miền núi nước ta có nhiều 
yếu tố thuận lợi cho sự phát triển du lịch, có 
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, chiếm tới 5/7 
vùng du lịch của cả nước bao gồm Vùng trung 
du và miền núi phía Bắc (bao gồm các tỉnh Hòa 
Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, 
Phú Thọ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc 
Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc 
Giang), vùng Bắc Trung Bộ: (gồm các tỉnh Thanh 
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, 
Thừa Thiên - Huế gắn với du lịch hành lang Đông 
Tây và hệ thống biển, đảo Bắc Trung Bộ), Vùng 
Duyên hải Nam Trung Bộ (gồm các tỉnh Quảng 
Nam, TP. Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú 
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận gắn 
với hệ thống biển đảo Nam Trung Bộ), Vùng Tây 
Nguyên (gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk 
Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng), Vùng Tây Nam Bộ 
(gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, 
Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến 
Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu 
Giang và TP. Cần Thơ gắn với du lịch tiểu vùng 
sông Mêkông), nhiều nơi còn hoang sơ, tạo nên 
sự thu hút đặc biệt đối với khách trong và ngoài 
nước như miền Bắc có vườn quốc gia Ba Vì ở Hà 
Nội; Mộc Châu - Sơn La với cảnh đẹp kỳ vĩ; hồ 
Ba Bể ở độ cao 146m so với mặt biển, diện tích 
500 ha ở Bắc Kạn; thác Bản Dốc ở Cao Bằng; cao 
nguyên đá Đồng Văn ở tỉnh Hà Giang; động Tam 
Thanh, Vọng Phu ở Lạng Sơn; có vùng Sa Pa, 
Lào Cai nơi du lịch nổi tiếng ở độ cao mây mù 
tuyết phủ; hồ Núi Cốc ở Thái Nguyên; hồ Thác 
Bà ở Yên Bái; dãy Phan Xi Păng cao 3.400m; có 
nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, có bản Apa Chải, 
xã Xín Thầu, huyện Mường Nhé, Lai Châu giáp 3 
quốc gia Việt Nam, Trung Hoa và Lào.v.v
Miền Trung, Tây Nguyên có Bà Nà (Đà Nẵng) 
được ví như chốn bồng lai tiên cảnh; đảo Lý Sơn 
ở Quảng Ngãi với nhiều trải nghiệm đáng nhớ; ở 
Quảng Nam có khu tháp cổ Mỹ Sơn; động Phong 
Nha, Quảng Bình là di sản văn hoá thế giới; ngược 
lên Tây Nguyên ta có Biển Hồ Gia Lai; ngã ba 
Đông Dương, cửa khẩu B’y Kon Tum; hồ Lắc, 
Đắc Lắk; thành phố cao nguyên Đà Lạt với núi 
Liang Biang nổi tiếng cao 2300m so với mặt biển; 
với thung lũng tình yêu; có khu tháp Chàm cổ kính 
của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận.v.v...
Miền Nam có nhà thờ Đức Bà ở Thành phố 
Hồ Chí Minh, có núi Đá dựng ở Kiên Giang, có 
nhiều hang động lung linh, màu sắc, có xứ thơ 
Hà Tiên cao 100 m giữa cánh đồng, có văn thánh 
miếu ở Vĩnh Long, có núi Sam ở Châu Đốc, có 
vườn cò Vàm Hồ ở Bến Tre, có 450 chùa Khmer 
cổ kính...đó là những điểm đến của khách du lịch 
danh thắng các vùng dân tộc Việt Nam.
Đồng thời các vùng miền ở trên gắn liền với 
các chiến công của dân và quân từ cách mạng 
tháng 8-1945 đến nay sẽ là những di sản đồ sộ để 
tuyên truyền cho các tour du lịch, để đáp ứng trí 
tò mò, tìm hiểu, khám phá của du khách.
Đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi 
rất thân thiện, gây được ấn tượng và thiện cảm 
với du khách, mỗi dân tộc đều có những nét đặc 
trưng về văn hóa, phong tục tập quán và lối sống 
riêng. Dựa vào lợi thế trên ngành du lịch và các 
địa phương đã nỗ lực xây dựng được một số điểm 
du lịch độc đáo, như du lịch cộng đồng Sa Pa, du 
lịch Bản Lác ở Mai Châu... Điển hình như Bản 
Lác, Bản Pom Coóng ở Mai Châu Hòa Bình đã 
có hơn hai mươi ngôi nhà sàn chuyên phục vụ 
khách du lịch, với giá từ 500.000 đến 800.000/
sàn là một con số đáng khích lệ cho du lịch dân 
tộc miền núi.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta còn 
có nhiều món quà lưu niệm, đồ thủ công được 
khách nước ngoài yêu thích từ túi, khăn, quần, áo, 
mũ, váy, móc chìa khóa thổ cẩm cho đến các món 
ăn, uống đặc sản như thắng cố, muối kiến vàng, 
cơm lam, rượu cần, rượu táo mèo, các loại thực 
phẩm khô có thể mua làm quà như thịt bò khô 
gác bếp, khô nai, thịt trâu khô Trong đó thổ 
cẩm Việt Nam là hình ảnh ấn tượng quen thuộc 
của nhiều du khách quốc tế khi đến Việt Nam. 
Ở đâu, trong bất kỳ cửa hàng ở khu du lịch nào, 
người ta cũng thấy những gian hàng bày bán đủ 
các mặt hàng thổ cẩm. Họa tiết trên đồ thổ cẩm 
rất bắt mắt và sặc sỡ với nhiều khối hình học tạo 
nên sự đối xứng và vòng lặp trên tác phẩm. Được 
thêu bằng tay, chất chứa cả tâm hồn và tình yêu 
quê hướng đất nước, hình ảnh cỏ cây hoa lá, cảnh 
sinh hoạt của người dân Việt Nam khiến nhiều 
du khách yêu thích, mua về làm quà. Nhờ đó, sản 
phẩm dệt thổ cẩm không chỉ phổ biến với bà con 
các dân tộc trên vùng núi cao mà còn trở thành 
một mặt hàng “đắt khách” ở hầu hết các khu du 
lịch Việt Nam.
Ngoài ra, vùng dân tộc thiểu số và miền núi 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
96 Số 20 - Tháng 12 năm 2017
nước ta cũng là nơi còn lưu giữ các trò chơi, lễ 
hội truyền thống lâu đời, các lời ca điệu múa độc 
đáo rất riêng của từng dân tộc như múa Xòe, múa 
Chiêng của người Thái, múa Khèn, múa Sênh 
tiền của người Mông, múa Tăng bu, múa Gậy của 
đồng bào Khơ mú, múa Sạp của dân tộc Mường, 
múa Trống, múa Xúc tép của dân tộc Cao Lan, 
múa Chèo thuyền, múa Hoa sen của đồng bào 
Khmer Nam Bộvà đặc biệt là không gian văn 
hóa cồng chiêng Tây Nguyên – kiệt tác truyền 
khẩu và phi vật thể nhân loại, di sản văn hóa phi 
vật thể thứ hai của Việt Nam được công nhận. Lễ 
hội cổ truyền ở vùng dân tộc và miền núi nước ta 
rất đa dạng, phong phú và trải rộng khắp đất nước 
như ném còn của dân tộc Thái, Mường, Tày, lễ 
hội mừng lúa mới của các dân tộc thiểu số ở Tây 
Nguyên, lễ hội lồng tồng của người Tày, lễ hội 
đâm trâu của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây 
nguyên và ở phía Bắc của vùng Đông Nam bộ, hội 
đua voi ở Buôn Đôn, lễ hội Ka tê ở Ninh Thuận 
và Bình Thuận, lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội 
Ok Om Bok (hay còn gọi là lễ hội cúng trăng) của 
đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ sinh sống ở các 
tỉnh: Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, 
Hậu Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long Tại mỗi vùng 
miền, lễ hội tuy mang một nét tiêu biểu và giá 
trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một đối 
tượng tâm linh cần được suy tôn, như: Những vị 
anh hùng chống ngoại xâm, những người có công 
trong việc dạy dỗ hay truyền nghề hoặc những 
người có nhiều công lao đóng góp cho việc chống 
thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ 
thế Chính vì thế, lễ hội truyền thống là dịp để 
con người giao lưu cộng cảm, trao truyền những 
đạo lý, tình cảm, mỹ tục và những khát vọng cao 
đẹp. Đồng thời, những lễ hội truyền thống cũng 
là dịp mang lại cho con người sự thanh thản nơi 
tâm linh, gạt bỏ hay quên đi những lo toan thường 
nhật để về với cội nguồn, về với thiên nhiên.
Những thuận lợi này có một sức hấp dẫn rất 
lớn, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước 
đến thăm quan, du lịch cũng như mua sắm các 
hàng hóa lưu niệm vùng dân tộc và miền núi. 
Ngày nay với xu thế toàn cầu hóa, du lịch dân 
tộc và miền núi ngày càng phát triển đa dạng và 
phong phú như du lịch tâm linh, du lịch gia đình, 
du lịch sinh thái, v.v đã mở ra diện mạo vùng 
đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển, 
đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số không 
ngừng được nâng lên cả về mặt vật chất và tinh 
thần, đồng thời phát triển du lịch vùng dân tộc 
và miền núi cũng tạo ra được nhiều công ăn việc 
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, từng bước 
hạn chế những tệ nạn xã hội như nạn nghiện hút, 
buôn bán thuốc phiện, buôn lậu, buôn bán phụ nữ 
qua biên giới 
Bên cạnh những thuận lợi ở trên, vùng dân tộc 
và miền núi nước ta vẫn còn nhiều thách thức tác 
động trực tiếp đến phát triển du lịch đó là: 
1. Rào cản về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục 
tập quán.
2. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: Địa hình 
chia cắt, rừng núi hiểm trở, nhiệt độ trong ngày 
và giữa các mùa có biên độ thay đổi lớn và đột 
ngột, gây nhiều khó khăn cho sức khoẻ con người 
và mùa khô thì hanh heo, khô cạn, thiếu nước.
3. Kết cấu hạ tầng còn thấp kém. Các sản 
phẩm phục vụ khách du lịch chưa đa dạng phong 
phú, phần lớn vẫn là các sản phẩm quen thuộc, 
mang tính truyền thống, chưa có sự đột phá, sáng 
tạo, tạo sự mới lạ đối với khách du lịch, cũng như 
chủ yếu mang tính tự phát của các hộ gia đình 
và các doanh nghiệp, chưa có sự đầu tư của cơ 
quan chức năng và các chính quyền địa phương. 
Chất lượng sản phẩm du lịch phục vụ du khách 
chưa có sức cạnh tranh với các quốc gia khác, 
Việt Nam chưa khai thác được thế mạnh các sản 
phẩm địa phương, liên vùng, liên quốc gia để xây 
dựng những tour du lịch hấp dẫn du khách. 
4. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công 
tác du lịch như hướng dẫn viên chưa được đào 
tạo bài bản, ít kinh nghiệm thực tế và mang tính 
chuyên nghiệp chưa cao, khả năng am hiếu về 
phong tục, tập quán, văn hóa của chính dân tộc 
mình và các dân tộc khác để hướng dẫn, phục vụ 
khách du lịch còn nhiều hạn chế và bất cập, khả 
năng giao tiếp với khách du lịch bằng ngoại ngữ 
nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phục 
vụ khách du lịch.
5. Tư duy và tầm nhìn du lịch hạn hẹp: sự liên 
kết trong du lịch còn lỏng lẻo, thiếu bền vững, 
chủ nghĩa cát cứ, cục bộ địa phương đã triệt tiêu 
thế mạnh của du lịch vùng dân tộc và miền núi 
Việt Nam.
6. Các loại hình du lịch còn đơn điệu, còn có 
tình trạng chèo kéo, ép giá mua hàng hóa đối với 
khách du lịch v.vMặc dù những biểu hiện này 
chỉ là cá biệt, nhưng đã gây phản cảm đối với 
khách du lịch trong nước và nước ngoài.
7. Nhiều người, trong đó có cả những người 
trong cơ quan tham mưu chiến lược vẫn cho rằng 
vùng dân tộc - miền núi không phải là vùng động 
lực phát triển. Vì vậy, chủ yếu vẫn là xoá đói, 
giảm nghèo, giúp đồng bào điều kiện sống, chăm 
sóc sức khoẻ, mở mang trường học, cứu giúp khi 
thiên tai, bão lũ, chưa coi trọng phát triển du lịch 
là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp một phần 
rất quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội, tạo 
nhiều công ăn việc làm cho đồng bào các dân tộc 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
97Số 20 - Tháng 12 năm 2017
thiểu số đang sinh sống ở vùng dân tộc và miền 
núi, góp một phần rất quan trọng xóa đói, giảm 
nghèo. Do dân cư sống rải rác, suất đầu tư lớn, 
hiệu quả kinh tế thấp, nên chủ yếu trong chính 
sách vẫn chỉ là hỗ trợ chứ chưa phải là đầu tư 
phát triển.
8. Không gian danh thắng và di sản văn hóa 
bị xâm hại: việc khai thác nguồn tài nguyên vì 
mục đích kinh tế đã phá vỡ cảnh quan, dẫn đến 
môi trường ô nhiễm, làm mất không gian thiêng 
của di tích.
9. Việc quảng bá du lịch ở vùng dân tộc thiểu 
số và miền núi thông qua các hình thức khác 
nhau như trên báo, chí, phát thanh, truyền hình, 
các ấn phẩm về du lịch chưa được đẩy mạnh và 
đổi mới toàn diện, do vậy tác dụng quảng bá, thu 
hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc 
tế chưa cao.
Từ những thách thức trên, để phát triển du lịch 
vùng dân tộc thiểu số và miền núi, có thể thực 
hiện một số giải pháp như sau: 
1. Nhóm giải pháp quy hoạch phát triền du 
lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Các địa phương cần tiếp tục tiến hành quy 
hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với đặc thù 
của địa phương mình như lợi thế so sánh về nhân 
lực, vật lực, các danh lam thắng cảnh, các địa 
điểm du lịch tâm linh, các nơi nghỉ dưỡng, leo 
núi, tắm nước khoáng và tắm thuốc dân tộc, các 
ngành nghề truyền thống, v.v
2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách:
- Tiếp tục rà soát các cơ chế chính sách về phát 
triển du lịch vùng dân tộc và miền núi loại bỏ các 
cơ chế chính sách không còn phù hợp, điều chỉnh, 
bổ sung kịp thời các chính sách đã có.
- Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách 
mới cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng, 
liên vùng và từng địa phương.
3. Nhóm giải pháp về xây dựng và phát triển 
cơ sớ hạ tầng vùng dân tộc thiểu số và miền núi 
để phục vụ phát triền du lịch
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa huy động mọi 
thành phần kinh tế, nguồn lực đầu tư cho cơ sở 
vật chất kỹ thuật du lịch như đường, sá, cầu, 
cống, điện nước, khu du lịch tâm linh, hệ thống 
cáp treo, leo núi v.vTăng cường đầu tư xây 
dựng cơ sở hạ tầng, tạo thuận lợi cho du khách 
tiếp cận khu, điểm du lịch. Cần quy hoạch sắp 
xếp và xây dựng các cơ sở dịch vụ: nhà nghỉ, y 
tế, ăn uống, vui chơi giải trí Có biện pháp quản 
lý chặt chẽ các loại dịch vụ, phí dịch vụ phục vụ 
du khách. Nâng cao ý thức phục vụ trong kinh 
doanh, tránh làm mất giá trị văn hóa truyền thống 
của người Việt.
Nguồn kinh phí thu được từ hoạt động du lịch 
phải được cân đối sử dụng phục vụ trở lại đầu tư tu 
bổ các cơ sở du lịch. Xây dựng hoàn chỉnh và hình 
thành đồng bộ về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, 
dịch vụ, lưu trú, sản phẩm và nguồn nhân lực đủ 
khả năng đón khách trong nước và quốc tế. 
4. Nhóm giải pháp đa dạng hóa các loại hình 
du lịch trong đó chú ý đến du lịch tâm linh, leo núi
Hiện nay ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi 
có rất nhiều chùa chiền, nơi thờ tự, để ghi danh 
công đức của những người có công xây dựng và 
bảo vệ đất nước. Trải qua năm tháng thăng trầm 
của lịch sử, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt do 
đó phần lớn đã bị mai một. Để thu hút khách du 
lịch, các địa phương cần huy động một nguồn 
kinh phí theo phương châm xã hội hóa để bảo tồn 
các di tích lịch sử này đồng thời cùng với việc 
phát triển du lịch tâm linh, các địa phương cần 
phát triển du lịch leo núi, bơi thuyền, xây dựng 
các hệ thống cáp treo để thu hút khách du lịch vì 
những địa điểm này có địa hình hiểm trở không 
xây dựng được cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu 
cống v.v
5. Nhóm giải pháp về đa dạng hóa các sản 
phẩm du lịch truyền thống: 
Hiện nay để có nguồn thu từ khách du lịch 
trong và ngoài nước, vùng dân tộc thiểu số cần 
phải nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm du 
lịch truyền thống theo hướng phong phú, đa dạng 
về số lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm 
du lịch, giá cả các sản phẩm du lịch hợp lý, có 
độ thẩm mỹ cao như: các sản phẩm giới thiệu về 
phong cảnh, lịch sử cội nguồn của các sản phẩm 
đó và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, các 
sản phẩm của làng nghề truyền thống như thêu 
thùa, dệt, may v.v
6. Nhóm giải pháp về bảo tồn và phát huy bản 
sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số ở từng vùng, 
liên vùng và từng địa phương.
Tiếp tục duy trì, bảo tồn và phát huy bản sắc 
văn hóa của các dân tộc thiểu số ở từng vùng, liên 
vùng và từng địa phương như các lễ hội truyền 
thống, cưới xin, lễ mừng cơm mới  đồng thời 
tiếp tục sưu tầm các tác phẩm có tính nghệ thuật 
cao để quảng bá với khách du lịch trong và ngoài 
nước về bản sắc văn hóa đa dạng phong phú của 
dân tộc mình. Chú trọng giáo dục nếp sống văn 
hóa bảo vệ không gian và môi trường du lịch. Bảo 
tồn giá trị di sản văn hóa trong khai thác và phát 
triển du lịch. không vì mục đích kinh tế mà phá 
vỡ di sản, xâm lấn danh thắng, hủy hoại không 
gian tâm linh của các công trình tín ngưỡng, di 
tích văn hóa.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
98 Số 20 - Tháng 12 năm 2017
7. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán 
bộ lãnh đạo quản lý, hướng dẫn viên du lịch
Nhóm giải pháp này giữ một vị trí rất quan 
trọng có tính quyết định để nâng cao chất lượng 
phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước. Việc 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý, 
hướng dẫn viên du lịch cần bảo đảm đủ về số 
lượng và không ngừng nâng cao về chất lượng để 
đáp ứng kịp thời phát triển du lịch vùng dân tộc 
và miền núi nói riêng và xu thể toàn cầu hóa và 
Hội nhập kinh tế Quốc tế nói chung.
8. Nhóm giải pháp về tiến hành thí điểm xã 
hội hóa làm công tác du lịch.
Việc tiến hành thí điểm xã hội hóa làm công tác 
du lịch cần có sự hướng dẫn, phối hợp và quản lý 
chặt chẽ của các cơ quan chức năng liên quan để 
công tác xã hội hóa làm công tác du lịch đi đúng 
hướng tránh tình trạng tự phát, vô tổ chức làm tốt 
công tác này sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, 
góp phần quan trọng vào xóa đói, giảm nghèo, 
không ngừng nâng cao mức sống của đồng bào 
các dân tộc thiểu số .
9. Chính quyền địa phương và cơ quan chuyên 
môn quản lý hoạt động du lịch các cấp, cơ sở kinh 
doanh dịch vụ thực hiện đồng bộ giải pháp bảo 
đảm an ninh, trật tự nhằm bảo vệ an toàn cho 
khách du lịch. Tăng cường kiểm tra, phát hiện, 
ngăn chặn và xử lý các đối tượng đeo bám, gây 
mất an toàn cho khách du lịch. Ngoài ra, tăng 
cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các tổ chức, 
cá nhân có hành vi vi phạm, tiếp thu giải quyết 
những kiến nghị của khách du lịch. Tuyên truyền 
vận động nhân dân tham gia phong trào cải thiện 
môi trường tại các điểm du lịch. 
10. Tăng cường tuyên truyền quảng bá du 
lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng, 
các tờ rơi, áp phích, các ấn phẩm du lich để thu 
hút ngày càng nhiều hơn khách du lịch trong và 
ngoài nước đến thăm quan, du lịch tại các vùng 
dân tộc và miền núi. Đổi mới công tác xúc tiến, 
quảng bá du lịch trên tinh thần huy động mạnh 
mẽ sự tham gia của các hiệp hội và doanh nghiệp 
du lịch. Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành 
liên quan trong việc xúc tiến du lịch gắn với việc 
quảng bá văn hóa, hình ảnh đất nước, con người 
Việt Nam trên các phương tiện truyền thông đại 
chúng. Tăng cường năng lực cơ quan tham mưu 
quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa 
phương, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt 
động du lịch.
Tài liệu tham khảo
[1] Hà Quế Lâm, (2009),“Tiềm năng phát 
triển du lịch vùng dân tộc và miền núi Việt Nam”, 
website: 
ame=News&op=Print&mid=2226;
[2] “Tiềm năng du lịch của Việt Nam”, 
website: https://www.vietiso.com/info/tiem-
nang-du-lich-viet-nam;
[3] Minh Nhựt, “Những lễ hội tiêu biểu của 
các vùng, miền ở nước ta”, báo Bình Phước, 
website: https://www.vhttdlkv3.gov.vn/Le-hoi/
Nhung-le-hoi-tieu-bieu-cua-cac-vung-mien-o-
nuoc-ta.2093.detail.aspx.
TOURIST DEVELOPMENT IN THE ETHNIC MINORITIES AND MOUNTAINOUS 
REGION- POTENTIAL AND CHALLENGE
Abstract: The legal tendency of the world’s economic structure shows that the density of 
agriculture from the dominant position has given way to the industry, and that the role of the 
service economy will eventually dominate, of which, the role of tourism in the service sector 
is also increasingly clear. In Vietnam, the average annually growth rate of over 14% per year 
is nearly double the growth rate of the whole economy and contributes to the increasing share 
of the service and tourism sector. Great for the growth and economic development of the 
country with thousands of billion. In addition to the development of tourism is also easy to 
create conditions for other industries to develop. With the advantages, positive aspects that 
tourism development brings, tourism actually has the potential to change the economic face 
of our country in which development of ethnic tourism is a new direction in the recent years, 
with the concern of all levels, branches and local authorities, as well as the efforts of the 
ethnic minority people, they are expected to bring big revenue to the state budget.
Keywords: Vietnam tourism; tourism of ethnic minority and mountainous areas; potential 
and challenge; Vietnamese tourism products.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_du_lich_vung_dan_toc_thieu_so_va_mien_nui_tiem_na.pdf