Phát huy di sản cồng chiêng thông qua lễ hội cộng đồng

Năm 2005, Không gian văn hóa Cồng chiêng được Tổ chức UNESCO ghi danh. Việc bảo tồn và phát huy

các loại hình diễn xướng liên quan đến âm nhạc cồng chiêng

được chính quyền và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đặc biệt

quan tâm. Các dự án sưu tầm , phát huy di sản cồng chiêng,

khôi phục lễ hội cồng chiêng tại 5 tỉnh Tây Nguyên đã góp

phần không nhỏ cho việc quảng bá di sản và hình ảnh địa

phương. Ở cấp độ làng/xã, mô hình lễ hội với sự tham gia

một cách chủ động, tích cực, hiệu quả trong việc phục hồi và

duy trì các hình thức diễn xướng của âm nhạc cồng chiêng.

Bài viết nghiên cứu trường hợp lễ hội cồng chiêng tại

xã Kông Lơng Khơng, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Một mô

hình lễ hội cộng đồng được thành lập và thực hành ngay sau

khi hồ sơ Không gian Văn hóa Cồng chiêng được Tổ chức

UNESCO vinh danh

pdf 5 trang phuongnguyen 1600
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy di sản cồng chiêng thông qua lễ hội cộng đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy di sản cồng chiêng thông qua lễ hội cộng đồng

Phát huy di sản cồng chiêng thông qua lễ hội cộng đồng
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
131Volume 8, Issue 2
PHÁT HUY DI SẢN CỒNG CHIÊNG 
THÔNG QUA LỄ HỘI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trường hợp lễ hội cồng chiêng ở xã Kông Lơng Khơng, 
huyện Kbang, tỉnh Gia Lai) 
Cao Trung Vinh
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Email: vinhvicas@gmail.com
Ngày nhận bài: 1/6/2019
Ngày gửi phản biện: 5/6/2019
Ngày tác giả sửa: 10/6/2019
Ngày duyệt đăng: 13/6/2019
Ngày phát hành: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/313
Năm 2005, Không gian văn hóa Cồng chiêng được Tổ chức UNESCO ghi danh. Việc bảo tồn và phát huy 
các loại hình diễn xướng liên quan đến âm nhạc cồng chiêng 
được chính quyền và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đặc biệt 
quan tâm. Các dự án sưu tầm , phát huy di sản cồng chiêng, 
khôi phục lễ hội cồng chiêng tại 5 tỉnh Tây Nguyên đã góp 
phần không nhỏ cho việc quảng bá di sản và hình ảnh địa 
phương. Ở cấp độ làng/xã, mô hình lễ hội với sự tham gia 
một cách chủ động, tích cực, hiệu quả trong việc phục hồi và 
duy trì các hình thức diễn xướng của âm nhạc cồng chiêng.
Bài viết nghiên cứu trường hợp lễ hội cồng chiêng tại 
xã Kông Lơng Khơng, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Một mô 
hình lễ hội cộng đồng được thành lập và thực hành ngay sau 
khi hồ sơ Không gian Văn hóa Cồng chiêng được Tổ chức 
UNESCO vinh danh. 
Từ khoá: Tây Nguyên; Dân tộc Bahnar; Lễ hội; Di sản; 
UNESCO; Âm nhạc cồng chiêng.
1. Đặt vấn đề
Ngày 25 tháng 12 năm năm 2005, Không gian 
Văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO 
ghi danh là kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hoá 
phi vật thể của nhân loại, sau đó được chuyển sang 
danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của 
nhân loại vào năm 2008. Việc ghi danh cồng chiêng 
thể hiện bản sắc văn hóa, sự kế tục và phản ánh 
chức năng quan trọng của di sản đối với cuộc sống 
cộng đồng cũng như nâng cao khả năng đối thoại, 
tôn trọng sự đa dạng văn hóa trong các cộng đồng 
dân tộc ở Tây Nguyên và ở Việt Nam. Trải qua 14 
năm kể từ khi được ghi danh, cũng là khoảng thời 
gian mà Tây Nguyên có những thay đổi từng ngày 
về chuyển đổi sinh kế (từ trồng lúa nương đến trồng 
cà phê, cây công nghiệp), không gian thực hành văn 
hóa, suy giảm diện tích rừng, nhập cư ồ ạt. Điều này 
tác động không nhỏ vào sự duy trì và sức sống của di 
sản cồng chiêng. Không gian Văn hoá cồng chiêng 
hiện nay đứng trước rất nhiều thử thách trong công 
tác bảo vệ và phát huy các giá trị của di sản. Làm 
thế nào để di sản vẫn có thể sống trong cộng đồng 
trong bối cảnh của sự chuyển đổi về không gian 
sinh hoạt văn hóa và sự tác động của nền kinh tế 
thời kỳ công nghiệp hóa cũng như cơ cấu cây trồng? 
Việc tổ chức lễ hội cộng đồng đã tạo ra môi 
trường diễn xướng cho người dân có cơ hội thực 
hành di sản trong bối cảnh một số nghi lễ truyền 
thống dần bị mai một như lễ mừng cơm mới, lễ 
ăn trâu, bỏ mả,... Năm 2009, lễ hội Văn hoá Cồng 
chiêng xã Kông Lơng Khơng lần đầu tiên được tổ 
chức. Cho đến nay, lễ hội này được duy trì đều đặn 
hai năm một lần. Thông qua một nghiên cứu cụ thể 
về lễ hội cộng đồng cồng chiêng ở xã Kông Lơng 
Khơng, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai, nơi còn thực 
hành cồng chiêng trong các sinh hoạt cộng đồng. 
Bài viết tìm hiểu mô hình tổ chức cũng như đánh 
giá hiệu quả lễ hội này nhằm đúc kết những bài học, 
kinh nghiệm thiết thực trong công tác bảo vệ và 
phát huy di sản từ góc độ cộng đồng. 
Cộng đồng có vai trò quan trọng, đồng thời là 
nguồn lực chính trong sáng tạo, thực hành và bảo vệ 
di sản của chính họ qua các thế hệ. Vai trò tích cực, 
chủ động của cộng đồng trong bảo vệ di sản văn 
hóa phi vật thể đã được làm rõ trong Công ước 2003 
cũng như được các học giả trong và ngoài nước 
nghiên cứu (Blade 2006; Kurin 2007; Nguyễn Thị 
Hiền 2017; Lê Thị Minh Lý 2008). Cộng đồng chính 
là những người phải được tham gia vào cả quá trình 
từ lên kế hoạch, đến hình thức tổ chức, thực hiện và 
duy trì di sản. Qua nhiều trường hợp thực hiện bảo 
vệ di sản văn hoá phi vật thể (DSVHPVT) trong 
thời gian qua như Giỗ tổ Hùng Vương (Lê Hồng 
Lý và cộng sự 2014), Khôi phục lễ hội và đền thờ 9 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
132 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
gian của người Thái ở Thanh Hóa (Phạm Văn Tuấn 
2018), Hát Xoan ở Phú Thọ (Nguyễn Thị Phương 
Châm 2018),... việc phục hồi, tổ chức, thực hiện di 
sản không phát huy được hết vai trò chủ động tích 
cực của cộng đồng. Điều này khiến cho việc thực 
hành và duy trì sức sống của di sản đã vấp phải sự 
phản kháng của cộng đồng (như đối với người Thái 
ở Thanh Hóa), tính thụ động của người dân (Giỗ tổ 
Hùng Vương ở các làng “Trưởng tạo lệ”). 
Từ góc độ cộng đồng và theo tinh thần của 
Công ước 2003, bài viết này sẽ phân tích quá trình 
tổ chức, thực hiện lễ hội Cồng chiêng của người 
Bahnar ở xã Kông Lơng Khơng, tỉnh Gia Lai để 
thấy vai trò quan trọng của cộng đồng trong bảo vệ 
di sản, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, một số sinh 
hoạt truyền thống liên quan đến cồng chiêng ngày 
càng bị mai một và thậm chí không còn nữa.
2. Mô hình tổ chức lễ hội cộng đồng về di sản 
Cồng chiêng tại xã Kông Lơng Khơng
Xã Kông Lơng Khơng nằm ở phía Tây Nam 
huyện Kbang, cách trung tâm thị trấn Kbang 14 km. 
Xã có diện tích tự nhiên 3.832,92 ha với 12 thôn/
làng. Số liệu dân số trên địa bàn toàn xã năm 2016 
là 1070 hộ với 4366 khẩu, bao gồm 8 dân tộc cùng 
sinh sống là Bahnar, Kinh, Tày, Nùng, Mường, Thổ, 
Hre và Thái. Người Bahnar là cộng đồng chiếm dân 
số chủ yếu với 63 % dân số xã tương đương với 
2.854 khẩu1. Trong số 12 buôn làng2 tại xã thì người 
Bahnar sinh sống ở 10 làng, có những buôn làng 
100% là người Bahnar như làng Kgiang, làng Mơ 
Tôn, làng Mơhra. 
Người Bahnar ở Kông Lơng Khơng còn bảo 
lưu được khá nhiều các thực hành văn hoá tại cộng 
đồng, đặc biệt các thực hành cồng chiêng vẫn còn 
được trình diễn và không thể thiếu trong các sự kiện 
cộng đồng và nghi lễ vòng đời như lễ thổi tai cho 
trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tang, lễ ăn trâu, bỏ mả, 
... cho đến các nghi lễ nông nghiệp, hoặc sự kiện 
cộng đồng như lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, 
lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông mới. Theo thống 
kê của Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Kông Lơng 
Khơng, hiện trên địa bàn toàn xã còn lưu giữ được 
trên 100 bộ cồng chiêng tại 10 làng người Bahnar 
sinh sống, có một số hộ còn lưu trữ tới 3 bộ chiêng3. 
Điều này cũng khá thuận lợi cho việc bảo vệ sức 
sống của di sản cồng chiêng so với nhiều cộng đồng 
dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, nhất là ở các xã, bản 
mà người dân theo Tin lành và Công giáo, cũng như 
đã chuyển đổi cơ bản cơ cấu cây trồng từ lúa nước, 
làm rẫy sang canh tác trồng cà phê, hạt điều, tiêu, 
ca cao. 
1. Theo số liệu của UBND xã Kông Lơng Khơng năm 2016
2. 12 làng của xã Kông Lơng Khơng gồm: Làng Hbang, làng Mơhra 
làng Đáp, làng Kgiang, làng Bờ, làng Mơ tôn, làng Kdâu, làng 
Mơhven, làng Dờng, làng Chư Pâu, làng Bờ Ngăl và làng Ôr. 
3. Theo số liệu của UBND xã Kông Lơng Khơng năm 2016 số hộ 
còn giữ 3 bộ gồm hộ ông Đinh Bơnh – làng Mơhra, hộ ông Đinh 
Gak – làng Bờ.
Sau khi Không gian Văn hoá cồng chiêng Tây 
Nguyên được UNESCO ghi danh vào Danh sách 
di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại 
năm 2005, Chính quyền địa phương xã Kông Lơng 
Khơng đứng ra tổ chức lễ hội Cồng chiêng tại địa 
điểm sinh hoạt cộng đồng của xã lần đầu tiên năm 
2009 như một chương trình hành động trong công 
tác bảo vệ cồng chiêng. Kể từ đó đến nay, cộng đồng 
và chính quyền xã đã tổ chức được 05 lần4 lễ hội 
Cồng chiêng Kông Lơng Khơng. Một trong những 
thành công của lễ hội cộng đồng là thu hút hầu như 
các thành viên cộng đồng tham gia, mà nòng cốt là 
các đội cồng chiêng trên địa bàn xã. Cộng đồng đã 
coi lễ hội cồng chiêng này là lễ hội dành cho họ, 
là nơi họ tổ chức nghi lễ cúng thần bản địa, uống 
rượu cần, ca hát, nhảy múa và đánh cồng chiêng. 
Việc tổ chức lễ hội cộng đồng là một hình thức kết 
nối di sản, tập hợp tất cả các đội cồng chiêng trong 
các thôn bản tham gia trình diễn. Sự tham gia này là 
một hoạt động, một biện pháp bảo vệ di sản khá hữu 
hiệu, nơi mà các đội cồng chiêng, các nghệ nhân có 
thêm cơ hội luyện tập, trình diễn cồng chiêng, trao 
truyền di sản cho thế hệ trẻ. 
Về quản lý: Các kế hoạch phát triển kinh tế - 
xã hội tại xã, kế hoạch bảo vệ và phát huy giá trị 
văn hoá Cồng chiêng trong đồng bào dân tộc thiểu 
số trên địa bàn xã Kông Lơng Khơng luôn được 
sự quan tâm của các cấp chính quyền. Xã đã đưa 
ra phương hướng, nhiệm vụ bảo vệ di sản tại cộng 
đồng: “lồng ghép công tác gìn giữ bảo vệ và phát 
huy di sản văn hoá cồng chiêng với phong trào toàn 
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá coi việc gìn 
giữ di sản là một trong những tiêu chí quan trọng để 
công nhận các danh hiệu Gia đình văn hoá, thôn/
làng văn hoá. Đưa kế hoạch bảo vệ văn hoá Cồng 
chiêng vào nghị quyết của cấp uỷ và kế hoạch từng 
năm của UBND xã”. Kế hoạch còn “động viên, 
khuyến khích các nghệ nhân, các đội cồng chiêng 
và gia đình lưu giữ, mua sắm cồng chiêng, gìn giữ 
phát huy văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng 
đồng; cam kết không để xảy ra mất mát, hư hỏng số 
cồng chiêng hiện còn trong các hộ dân, trong các 
làng”5.
Về tài chính: Hàng năm, UBND xã trích kinh 
phí từ nguồn ngân sách và kinh phí sự nghiệp văn 
hoá thông tin kết hợp huy động từ nguồn xã hội hoá 
từ các doanh nghiệp nhỏ lẻ trên địa bàn xã trong 
công tác tổ chức lễ hội. Trong kế hoạch bảo vệ và 
phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng trong đồng bào 
dân tộc thiểu số trên địa bàn xã Kông Lơng Khơng 
(giai đoạn 2016 – 2020) kinh phí được UBND phê 
duyệt là 446.000.000 đồng. Nguồn kinh phí này 
được sử dụng cho các hoạt động bảo vệ và phát huy 
4. Lần 1: 2009; lần 2: 2012: lần 3: 2014; lần 4: 2016; lần 5: 2018
5. UBND xã Kông Lơng Khơng, kế hoạch “Bảo tồn và phát huy giá 
trị văn hóa cồng chiêng trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn 
xã Kông Lơng Khơng (giai đoạn 2016 – 2020)”. Tư liệu của UBND 
xã Kông Lơng Khơng.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
133Volume 8, Issue 2
di sản cồng chiêng trên địa bàn xã, trong đó chi một 
phần cho hoạt động tổ chức lễ hội Cồng chiêng.
Về thời gian: Để đảm bảo lễ hội Cồng chiêng có 
sự tham gia đầy đủ của các thành phần, lứa tuổi và 
đại bộ phận người dân được tham gia, lễ hội được 
tổ chức vào dịp hè6 (thời gian là trung tuần tháng 8 
hàng năm). Đây là thời gian phù hợp nhất để học 
sinh, thanh thiếu niên có thể tham gia và học đánh 
chiêng và cũng là thời nông nhàn của đồng bào ở 
nơi đây. 
Vào trước ngày lễ hội, không khí chuẩn bị háo 
hức khắp các buôn làng. Không chỉ ở làng truyền 
thống Mơ Hra, mà hầu hết ở tất cả các làng trên 
địa bàn xã Kông Lơng Khơng, nơi có người Bahnar 
sinh sống đều rộn ràng tiếng chiêng. Các nghệ 
nhân tổ chức luyện tập cho các đội cồng chiêng của 
mình. Tham dự lễ hội ở Kông Lơng Khơng năm 
2018, nghệ nhân Đinh Prang làng Mơ Hra cho rằng: 
“Trước lễ hội cả tháng, các làng trong xã luôn nhộn 
nhịp, ngày nào các đội cồng chiêng trong các làng 
cũng mang chiêng, trống ra tập rượt”7. Từ già cho 
đến trẻ nhỏ hăng say luyện tập cả ngày cho đến 
đêm, đặc biệt là giới trẻ - những bạn nhỏ lần đầu 
tiên có cơ hội được nghe, tập đánh cồng chiêng. Có 
thể nói, lễ hội cộng đồng là nơi người dân thực hành 
di sản cồng chiêng và trao truyền một cách tự nhiên 
và hiệu quả nhất.
Như vậy, mô hình lễ hội này thực tế đã phát 
huy được hiệu quả cao trong công tác bảo vệ cồng 
chiêng tại chính cộng đồng. Nghiên cứu lễ hội này, 
chúng tôi nhận thấy, ngoài việc duy trì hình thức 
diễn xướng cồng chiêng hàng năm thì số lượng các 
đội cồng chiêng trong cộng đồng cũng ngày một 
tăng. Cụ thể, lễ hội Cồng chiêng năm 2009 có tổng 
số đội cồng chiêng chiêng tham dự là 10 đội thì đến 
năm 2018 số đội cồng chiêng là 16 đội. Một số làng 
như làng Kgiang, làng Mơ Tôn, làng Mơ Hra đã chủ 
động đào tạo thêm các đội cồng chiêng thanh thiếu 
niên cho làng. 
 3. Một số vấn đề đặt ra từ Festival Cồng 
chiêng tổ chức tại Tây Nguyên 
Có một thực tế là, hầu hết các di sản ở Việt 
Nam sau khi được UNESCO vinh danh thì không 
những chính quyền và cả người dân đều cho rằng 
đã là di sản thế giới thì cần phải được “quy hoạch”, 
“đầu tư”, “xây dựng” cho ‘hoành tráng hơn” (Lê 
Hồng Lý và cộng sự 2014). Không gian văn hoá 
Cồng chiêng Tây Nguyên được 5 tỉnh Tây Nguyên 
quan tâm đặc biệt và tiến hành nhiều hình thức 
như Festival Cồng chiêng, các dự án khôi phục lễ 
hội truyền thống, xây dựng nhà cộng đồng để có 
không gian trình diễn, thành lập các câu lạc bộ cồng 
chiêng,... Ngay sau khi được công nhận năm 2005, 
các tỉnh ở Tây Nguyên đã tổ chức các Festival Văn 
6. Lễ hội Cồng chiêng Kông Lơng Khơng năm 2018 được tổ chức 
ngày 25 tháng 8 năm 2018.
7. Trích phỏng vấn của Cao Trung Vinh năm 2018.
hoá Cồng chiêng với quy mô lớn, hoành tráng như 
Festival năm 2007 tổ chức tại thành phố Buôn Ma 
Thuột, tỉnh Đắk Lắk; năm 2009 và 2017 tổ chức 
tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Phải ghi nhận 
rằng những lễ hội với quy mô lớn, đầu tư rất nhiều 
kinh phí đã góp phần rất lớn trong việc quảng bá 
di sản và hình ảnh của địa phương. Chính quyền 
địa phương và người dân tự hào vì di sản của mình 
được sự quan tâm của các cấp chính quyền. Điều 
này góp phần cho việc quảng bá di sản cũng như 
nâng cao nhận thức của công chúng, nhất là giới 
trẻ về giá trị của di sản đối với đời sống cộng đồng. 
Dù vậy, một hình thức “hoành tráng” huy động 
nhiều nguồn lực luôn có hai mặt: quảng bá và nâng 
cao nhận thức, cụ thể:
Thứ nhất, để tổ chức được Festival cồng chiêng 
quy mô lớn cần nguồn lực rất lớn về mặt tài chính 
và nhân sự, điều hành. Điều này thực tế là khó duy 
trì thường xuyên và gây lãng phí. Các tỉnh ở Tây 
Nguyên thường không có nguồn lực tài chính để có 
thể tổ chức Festival hàng năm mà phải trông chờ 
từ kế hoạch, chương trình được phê duyệt từ chính 
phủ. Trên thực tế, ngân sách cho văn hóa ngày càng 
suy giảm, phải huy động xã hội hóa và việc tổ chức 
Festival lại phụ thuộc vào nguồn vốn ngân sách và 
kế hoạch của cấp trung ương và cấp tỉnh. 
Thứ hai, các Festival Cồng chiêng tổ chức ở quy 
mô lớn thường chỉ diễn ra trong vài ngày thậm chí 
một đến hai ngày, trong khi ở các tỉnh Tây Nguyên 
có hàng trăm, hàng nghìn các đội cồng chiêng trên 
địa bàn. Thời gian diễn ra Festival quá ngắn nên 
mỗi huyện chỉ được lựa chọn một đến hai đội tham 
gia liên hoan, chưa kể việc lựa chọn các đội cồng 
chiêng gặp nhiều khó khăn. Đội nào sẽ được lựa 
chọn? Lý do được lựa chọn tham gia? Điều này 
dẫn đến sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các đội cồng 
chiêng, và do đó tác động đến tính cố kết của cộng 
đồng, đối thoại di sản và làm suy giảm sự hăng hái, 
tích cực của những đội không được chọn tham gia 
Festival.
Thứ ba, trình diễn cồng chiêng của các dân tộc 
thiểu số ở Tây Nguyên đã từng và vẫn chủ yếu là 
một phần diễn xướng nghi lễ, nghĩa là nó được thực 
hành trong các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, 
liên quan đến nghi lễ vòng đời và ý nghĩa của nó 
trên hết là sự giao tiếp với Yang, với vị thần bản địa 
để truyền tải thông điệp với sự cầu mong tới các 
vị thần cho cuộc sống, mùa màng. Nên việc “trình 
diễn” ở những sân khấu mang tính dàn dựng đã bị 
sân khấu hóa (Lê Hồng Lý và cộng sự 2014) thực 
chất đã làm thuyên giảm ý nghĩa của di sản đối với 
cộng đồng. Festival Cồng chiêng thực sự là màn 
trình diễn sân khấu cho người ngoài cộng đồng. Nói 
theo Công ước 2003, di sản đã bị phi bối cảnh hóa 
(decontextualization) và vì vậy, mô hình Festival 
thực chất đã không đúng theo tinh thần của Công 
ước 2003 và không phát huy được nội lực, cũng như 
vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng, của các 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
134 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
đội cồng chiêng từ các bản làng Tây Nguyên.
Giữ vai trò tổ chức lễ hội cộng đồng làng, xã, 
các cấp chính quyền cấp trung ương và cấp tỉnh, các 
cán bộ của các Sở văn hóa, các ban ngành là những 
người làm đầu mối lên kế hoạch các hoạt động tổ 
chức lễ hội, kế hoạch phối hợp với đơn vị (từ cấp 
tỉnh tới cấp huyện, cấp xã). Việc tổ chức lễ hội theo 
mô hình quản lý nhà nước, tức từ trên xuống, theo 
một kế hoạch của những người lãnh đạo cũng như 
cán bộ quản lý văn hóa. Điều này đã không phát 
huy được tiếng nói, vai trò từ dưới lên của cộng 
đồng, cũng như làm giảm sự tích cực, chủ động của 
cộng đồng, và sẽ dẫn đến những hệ quả như “bị 
ngoài lề” (Lê Hồng Lý và cộng sự 2014), “bị tước 
mất” quyền chủ động và quyền chủ nhân của di sản 
(Salemink 2012).
4. Bài học kinh nghiệm từ công tác bảo vệ di 
sản cồng chiêng thông qua lễ hội cộng đồng tại 
Kông Lơng Khơng 
Theo tinh thần của Công ước năm 2003, vai trò 
của cộng đồng là “sáng tạo, duy trì và chuyển giao” 
các giá trị di sản phi vật thể và bởi vậy, cộng đồng 
cần được tham gia đến mức tối đa trong các hoạt 
động bảo vệ di sản cũng như trong công tác quản 
lý (Điều 15). Và như vậy, lễ hội cộng đồng tại xã 
Kông Lơng Khơng đã được chính quyền phối hợp 
với cộng đồng (nghệ nhân, các đội cồng chiêng) 
tổ chức, thực hiện theo tinh thần của Công ước về 
bảo vệ và phát huy di sản văn hoá phi vật thể. Điều 
này đã góp phần quan trọng trong việc lan tỏa, trao 
truyền giữa các thế hệ và thu hút sự tham gia rộng 
rãi của cộng đồng. Theo nghiên cứu gần đây của tác 
giả, tham gia lễ hội hiện nay có cả các đội chiêng 
nhí và đội cồng chiêng nữ, đây là điều tương đối 
mới bởi cồng chiêng trong cộng đồng Bahnar trước 
đây vốn chỉ dành cho nam giới trưởng thành. 
Trong những năm gần đây, Tây Nguyên nói 
chung và địa bàn xã Kông Lơng Khơng nói riêng 
thay đổi mạnh, các nghi lễ và lễ hội lớn trong cộng 
đồng, như lễ ăn trâu, lễ mừng lúa mới, lễ đóng kho 
lúa, v.v. đang dần mất đi hoặc biến đổi do các nghi lễ 
này hoặc bị cấm thực hành, tốn kém (ăn trâu), hoặc 
bị mai một do cộng đồng không trồng lúa, chuyển 
sang trồng cây công nghiệp ngắn ngày (mía) hoặc 
dài ngày (cao su, cà phê). Sự chuyển đổi cơ cấu cây 
trồng, điều kiện tự nhiên, kinh tế đã và đang ảnh 
hưởng không nhỏ đến việc thực hành âm nhạc cồng 
chiêng trong cộng đồng – vốn là hoạt động phục 
vụ cho các nghi lễ. Vì vậy, việc tổ chức lễ hội cộng 
đồng ở cấp xã thực sự là môi trường thích hợp cho 
việc duy trì và bảo vệ di sản cồng chiêng hiện nay, 
thay thế cho những sinh hoạt truyền thống đang bị 
mất dần trong quá trình chuyển đổi, tái cấu trúc văn 
hóa ở Tây Nguyên.
Quá trình thực hiện lễ hội Cồng chiêng Kông 
Lơng Khơng có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính 
quyền địa phương và đại diện cộng đồng, các đội 
trưởng của đội cồng chiêng. Công ước 2003 nhấn 
mạnh rằng “Trong khuôn khổ các hoạt động bảo 
vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi Quốc gia thành 
viên nỗ lực đảm bảo khả năng tham gia tối đa của 
các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường 
hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển 
giao loại hình di sản này và tích cực gắn kết họ tham 
gia vào công tác quản lý”8. Trong những năm đầu 
tiên tổ chức lễ hội Cồng chiêng, chính quyền địa 
phương đã đưa công tác tổ chức lễ hội vào nhiệm 
vụ chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương, chủ động 
trong việc lên kịch bản, đứng ra điều hành tổ chức 
với sự tham gia tích cực của cộng đồng. Dần dần, 
trong quá trình thực hiện với 5 lần tổ chức lễ hội 
vừa qua, vai trò tích cực của cộng đồng ngày càng 
được phát huy và đã tạo thành lệ, thành một quy 
ước mà người dân được chủ động cùng với chính 
quyền 2 năm/lần tổ chức lễ hội cộng đồng về cồng 
chiêng. 
Công tác thực hiện chương trình hành động là 
một nhiệm vụ, một kế hoạch mà trong hồ sơ quốc 
gia về Không gian Văn hóa Cồng chiêng đệ trình 
UNESCO đã đưa ra. Trong tình hình đó, lễ hội cộng 
đồng về cồng chiêng tại xã Kông Lơng Khơng, 
huyện Kbang – một mô hình lễ hội có quy mô nhỏ 
tại chính cộng đồng xã lại tỏ ra có nhiều ưu việt với 
sự tham gia rộng rãi của các đội cồng chiêng tại địa 
phương. Và do vậy, lễ hội phần nào là môi trường 
diễn xướng để các nghệ nhân, các đội cồng chiêng 
được tham gia trình diễn đảm bảo duy trì sức sống 
của di sản. 
8. Công ước UNESCO, (Điều 15, Sự tham gia của các cộng đồng, 
nhóm người và cá nhân)
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
135Volume 8, Issue 2
Tài liệu tham khảo
Cao Trung Vinh (2018), Tư liệu điền dã của 
cá nhân
Lê Thị Minh Lý, 2008, “Cộng đồng bảo vệ di sản 
– Kinh nghiệm thực hành tốt từ Dự án Nhã 
nhạc”. Tạp chí Di sản văn hoá, Số 4, tr. 38-41.
Lê Hồng Lý và cộng sự, 2014. “Bảo vệ và phát 
huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại 
hóa: Nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng thờ 
cúng Hùng Vương (Phú Thọ), hội Gióng (Hà 
Nội), tháp Bà Poh Nagar (Khánh Hòa) và 
văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm 
Đồng)”, trong sách: Di sản văn hóa trong xã 
hội Việt Nam đương đại. Nxb. Tri thức.
Nguyễn Thị Phương Châm, 2018. “Động thái 
của quyền lực và xung khắc trong thực hành 
bảo vệ hát Xoan từ khi được UNESCO ghi 
danh”. Bài trình bày tại hội thảo thường niên 
của Hội nghiên cứu châu Á, tổ chức vào 
tháng 03 năm 2018 tại Washington DC.
Nguyễn Thị Hiền (2017), Quản lý nhà nước và 
vai trò cộng đồng trong bảo vệ và phát huy 
giá trị di sản, Nxb. Văn hóa Dân tộc.
Phạm Văn Tuấn (2018), “Bảo vệ và phát huy giá 
trị di tích lịch sử đền Chín ở Thânh Quan, 
huyện Như Xuân. Tạp chí Văn hóa dân gian, 
số 3 (1977), trang 43-47.
Blake, Janet (chủ biên, 2006). Safeguarding 
Intangible Cultural Heritage: Challenges 
and Approaches (Bảo vệ di sản văn hóa 
phi vật thể: Thách thức và cách tiếp cận). 
Institute of Art and Law.
Kurin (2007). “Safeguarding Intangible Cultural 
Heritage: Key Factors in Implementing the 
2003 Convention” (Bảo vệ di sản văn hóa phi 
vật thể: Những yếu tố chủ yếu trong việc thực 
hiện Công ước 2003”. International Journal 
of Intangible Heritage, Vol. 02, tr. 10-20. 
Salemink, Oscar 2012. “The ‘Heritagization’ 
of Culture in Vietnam: Intangible Cultural 
Heritage between Communities, State and 
Market (Di sản hóa văn hóa ở Việt Nam: DSVH 
giữa cộng đồng, Nhà nước và thị trường)”. Hội 
thảo Việt Nam học lần thứ 4 tại Hà Nội.
Nhiều tác giả (2006), Các nhạc cụ gõ bằng đồng – 
những giá trị văn hoá. Nxb. Văn hoá Dân tộc. 
UBND xã Kông Lơng Khơng (2016), kế hoạch 
bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa cồng 
chiêng trong đồng bào dân tộc thiểu số trên 
địa bàn xã Kông Lơng Khơng (giai đoạn 
2016 – 2020).
PROMOTE CONG CHIENG HERITAGE 
THROUGH COMMUNITY FESTIVAL
(Study in case of Cong Chieng festival in Kong Long Khong commune,
Kbang district, Gia Lai province)
Cao Trung Vinh
Vietnam National Institute of Culture and 
Arts Studies
Email: vinhvicas@gmail.com
Received: 1/6/2019
Reviewed: 5/6/2019
Revised: 10/6/2019
Accepted: 13/6/2019
Released: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/313
Abstract: Cong chieng cultural space was registered 
by UNESCO in 2005. The preservation and promotion of 
various types of performance related to Cong chieng music 
are particularly concerned by the authorities and people of 
the Central Highlands provinces. Projects of collecting and 
promoting Cong chieng heritage and restoring Cong chieng 
festivals in 5 provinces of Central Highlands have contributed 
significantly to the promotion of local heritage and image. At 
village/commune level, the festival model with active, positive 
and effective participation in restoring and maintaining the 
performance forms of Cong chieng music.
The article studies the case of Cong chieng festivals in Kong 
Long Khong commune, Kbang district, Gia Lai province. A 
community festival model was established and practiced right 
after the Cong chieng Cultural Space was honored by UNESCO.
Keywords: Central Highlands; Bana people; Festival; 
Heritage; UNESCO; Cong chieng music.

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_di_san_cong_chieng_thong_qua_le_hoi_cong_dong.pdf