Phát hiện sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): Nên thực hiện ngay từ đợt cấp lần đầu

Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang được xem như mới tiếp cận được phần nổi của

khối băng chìm. Có nhiều nguyên nhân trong đó vấn đề phát hiện và chẩn đoán sớm là một

yếu tố then chốt. Bài trình bày tổng quan này nhằm phân tích các bài viết, dữ liệu nghiên

cứu về chẩn đoán, quản lý COPD, nhất là chẩn đoán sớm và quản lý ở cộng đồng từ đó đề

xuất giải pháp. Một kế hoạch hành động và theo dõi ngay sau đợt cấp đầu tiên sẽ giúp tăng

được tỷ lệ chẩn đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và điều trị. Trong khi chờ các nghiên

cứu đánh giá, với thực tế ở Việt Nam, cách tiếp cận như trên nên được xem là hợp lý, cụ

thể và có tính thực hành hiện nay.

pdf 10 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Phát hiện sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): Nên thực hiện ngay từ đợt cấp lần đầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát hiện sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): Nên thực hiện ngay từ đợt cấp lần đầu

Phát hiện sớm bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): Nên thực hiện ngay từ đợt cấp lần đầu
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
75
Hô hấp số 14/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên phạm vi toàn cầu COPD là một trong 
số ít các bệnh lý có tỷ lệ tử vong đang tăng 
(1). Trong COPD, sự suy giảm thể chất từ từ 
khiến cho các biện pháp chẩn đoán sớm và 
điều trị hỗ trợ dường như không được đặt ra 
một cách tích cực. Gần 50% bệnh nhân xuất 
viện vì đợt cấp COPD sẽ tử vong trong 2 năm 
(2). Những dấu hiệu như mức độ nặng của 
bệnh, tình trạng dinh dưỡng kém, bệnh tim 
đồng mắc, trầm cảm, giảm chất lượng sống, 
tuổi cao đã cho thấy có kết hợp với tiên lượng 
xấu (3,4). Vấn đề phát hiện sớm, chẩn đoán 
xác định, thực hiện các biện pháp điều trị dự 
phòng và điều trị sớm là giải pháp chìa khóa 
để giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong.
Các nghiên cứu cho thấy chẩn đoán 
COPD trong thực hành hàng ngày (không 
phải từ các nghiên cứu điều tra dịch tễ) thông 
thường là đã ở giai đoạn nặng và rất nặng 
(5-7). Dữ liệu từ Third National Health and 
Nutrition Examination Study (NHANES III) 
PHÁT HIỆN SỚM BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH (COPD): 
Nên thực hiện ngay từ đợt cấp lần đầu
TS.BS NGUYỄN VĂN THÀNH 
PCT Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam
E-mail: [email protected]
Tóm tắt: 
Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD đang được xem như mới tiếp cận được phần nổi của 
khối băng chìm. Có nhiều nguyên nhân trong đó vấn đề phát hiện và chẩn đoán sớm là một 
yếu tố then chốt. Bài trình bày tổng quan này nhằm phân tích các bài viết, dữ liệu nghiên 
cứu về chẩn đoán, quản lý COPD, nhất là chẩn đoán sớm và quản lý ở cộng đồng từ đó đề 
xuất giải pháp. Một kế hoạch hành động và theo dõi ngay sau đợt cấp đầu tiên sẽ giúp tăng 
được tỷ lệ chẩn đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và điều trị. Trong khi chờ các nghiên 
cứu đánh giá, với thực tế ở Việt Nam, cách tiếp cận như trên nên được xem là hợp lý, cụ 
thể và có tính thực hành hiện nay.
Abstract: 
EARLY DETECTION OF CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE (COPD): 
IT SHOULD BE DONE RIGHT AFTER THE FIRST ACUTE EXACERBATION
The current state of COPD diagnosis and management is being seen as reaching the tip of the 
iceberg. There are many causes for this situation in which the problem of early detection and 
diagnosis is a key factor. This review presentation aims to analyze the literature, research data 
on the diagnosis, management of COPD, especially early diagnosis and management in the 
community, and propose a solutions. An action plan and follow-up monitoring right after the firts 
acute exacerbation will help increase diagnostic rates and so able to increase management and 
treatment effectiveness. While awaiting the evaluation for this, with the reality in Vietnam, this 
approach should be considered reasonable, concrete and practical at present. 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
76
Hô hấp số 14/2018
(5) cho thấy 63% bệnh nhân có giảm chức năng 
hô hấp nhưng không được chẩn đoán nguyên 
nhân. Nhiều trường hợp chỉ được chẩn đoán 
COPD khi đến khám vì đợt cấp (8). 
Mặc dù đánh giá khả năng thông khí phổi 
(spirometry) là tiêu chuẩn xác định COPD 
nhưng thực hiện thử nghiệm (test) này vì 
nhiều lý do không phải là cách để tầm soát 
bệnh (case-finding) nên cũng không thể áp 
dụng thường quy trong điều kiện thực hành ở 
tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu. Trong khi 
đó, một thực tế quan trọng là hầu hết bệnh 
nhân COPD lại có nhu cầu cần được chẩn 
đoán và chăm sóc ở y tế tuyến chăm sóc sức 
khỏe ban đầu. Vậy đâu là giải pháp khả thi 
nhất với tiêu chí phát hiện và chẩn đoán sớm. 
Rất nhiều nghiên cứu đã đi theo hướng đánh 
giá phương pháp tầm soát lâm sàng và xác 
định COPD bằng spirometry. Phương pháp 
tầm soát lâm sàng cần đơn giản, dễ áp dụng 
và có hiệu quả xác định cao (9). Hiện nay ở 
Việt Nam, trong vấn đề này, chúng ta vẫn còn 
những khoảng trống (ai?, ở đâu?, bằng cách 
nào?) rất cần được xác định.
2. CHẨN ĐOÁN COPD Ở TUYẾN CHĂM 
SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
Giống như chẩn đoán hen, chẩn đoán COPD 
dường như được xem là công việc của bác sỹ 
chuyên khoa (10) hơn là của thầy thuốc chăm 
sóc sức khỏe ban đầu, của bác sỹ đa khoa. Ở 
tuyến y tế ban đầu (bác sỹ gia đình, bác sỹ đa 
khoa) spirometry lại ít khi được thực hiện (11). 
Trong khi kết quả đo từ các bác sỹ đa khoa 
thường có lỗi và có khuynh hướng đánh giá 
dưới mức mức độ giảm chức năng hô hấp (12). 
Nhìn từ một góc độ khác, trên những bệnh 
nhân đã có chẩn đoán COPD và điều trị, trong 
một nghiên cứu ở cộng đồng năm 2007 ở Bỉ 
(13), chỉ có khoảng 1/3 số bệnh nhân được test 
spirometry, trong khi các bác sỹ cho rằng chẩn 
đoán COPD như vậy là không chắc chắn trên 
một nửa số bệnh nhân. Khi phân tích nguyên 
nhân khiến cho thực hành COPD không được 
như các guideline khuyến cáo cần phải đề cập 
tới 2 khía cạnh: 1) Trở ngại thực tế khi triển 
khai spirometry trong thực hành thường quy 
và 2) Giá trị của chẩn đoán COPD không 
spirometry. Trong một nghiên cứu, các bác sỹ 
đa khoa cho rằng việc thực hiện spirometry 
có những trở ngại như sau: Thiếu khả năng 
duy trì chất lượng hoạt động tốt trang thiết bị, 
thiếu kiến thức trong việc thực hiện đo, bệnh 
nhân không sẵn sàng thực hiện, tăng chi phí 
khám và quản lý, tăng thời gian khám, không 
đủ tự tin phân tích kết quả (14).
Hình 1. Tỷ lệ bệnh nhân có spirometry và đặc điểm 
chẩn đoán trước nghiên cứu PLATINO 
(*p <0.0001 so với chẩn đoán đúng, †p <0.001 so với 
chẩn đoán đúng).
Từ đó thái độ ứng sử với thực hành trong 
COPD như sau: Miễn cưỡng thực hiện một 
chẩn đoán chính thức, cho rằng thuật ngữ 
“khí phế thũng” bệnh nhân không thích, nghĩ 
rằng COPD không phải là từ dễ hiểu khi giải 
thích cho bệnh nhân, không quan tâm tới sự 
khác biệt về spirometry giữa hen và COPD, 
lo ngại rằng kết quả sprirometry bình thường 
sẽ không khuyến khích được bệnh nhân bỏ 
thuốc lá, xem COPD là trạng thái bệnh mạn 
tính cũng như nhiều bệnh khác và thường 
không phải là quan trọng nhất, chỉ định thuốc 
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
77
Hô hấp số 14/2018
dựa trên đáp ứng lâm sàng, không cho rằng 
theo dõi spirometry là hữu ích cho bệnh nhân 
(14). Cũng không thể nói những lý giải như 
trên là hoàn toàn vô lý. Như vậy, nếu không 
có quy trình tiếp cận chẩn đoán một cách rõ 
ràng và hệ thống, việc chẩn đoán quá mức 
hay dưới mức là hoàn toàn có thể xảy ra. 
Dự án PLATINO thực hiện ở các nước Mỹ 
La-tinh (năm 2005) phân tích trên 578 bệnh 
nhân được xác định là COPD trong đó 28,3% 
bệnh nhân COPD chẩn đoán trước đó không 
đúng và 15,8% bệnh nhân COPD không được 
chẩn đoán trước đó. Chỉ có khoảng một nửa 
(52,3%) số bệnh nhân được chẩn đoán COPD 
trước đó là đúng (15) (hình 1). Ở Việt Nam, 
chúng ta cũng không có cơ sở để nói rằng 
thực trạng chẩn đoán, quản lý điều trị COPD 
ở cộng đồng, nhất là ở y tế tuyến chăm sóc ban 
đầu, có thể tốt hơn. Chúng ta còn thiếu dữ liệu 
đánh giá thực trạng chẩn đoán COPD ở cộng 
đồng. Theo NV Nhung (năm 2011): “Chỉ có 
một số ít bệnh nhân được quản lý thích hợp 
và điều trị hiệu quả” mà nguyên nhân được 
cho là do có những bất cập của hệ thống y tế 
hiện nay trong đó có vai trò của Bảo hiểm y 
tế và những vấn đề giống như đã ghi nhận của 
các nước khác (như hiểu biết của người dân 
về bệnh, kiến thức và năng lực chuyên môn 
của cán bộ y tế, nhất là tuyến y tế cơ sở) (16). 
Một thực tế đáng ngại là ngay cả khi bệnh 
nhân vào đợt cấp cần nhập viện điều trị, khi 
xuất viện, thông thường bệnh nhân không có 
một kế hoạch đặt trong một hệ thống theo dõi, 
chẩn đoán và có các biện pháp điều trị thích 
hợp (16).
3. BỆNH HỌC COPD VÀ TRIỆU CHỨNG
Bệnh học nền tảng COPD là viêm mạn tính, 
rối loạn chức năng bảo vệ đặc hiệu và không 
đặc hiệu dẫn đến phá hủy cấu trúc và suy giảm 
chức năng sinh lý phổi. Tình trạng bệnh diễn 
biến chậm, tăng dần nên triệu chứng thường 
được xem là bình thường, không khiến bệnh 
nhân quan tâm và đi khám bệnh cho đến khi 
có đợt cấp, với các triệu chứng nặng hơn. Tình 
trạng viêm tạo nên triệu chứng rất thay đổi, 
không giống nhau giữa người này với người 
khác (heterogeneous). Trên nền bệnh học như 
vậy, tính đặc hiệu của triệu chứng là thấp, kể 
cả triệu chứng khó thở gắng sức và khò khè 
(17,18,19) hay kết hợp nhiều triệu chứng hô hấp 
(17). Nhiều nghiên cứu đã đi theo hướng tầm 
soát những bệnh nhân có nguy cơ cao (case-
finding) để từ đó xác định chẩn đoán bằng 
spirometry. Các yếu tố xác định nhóm người 
cần tầm soát bao gồm: tuổi (thường từ 35-40 
trở lên), hút thuốc hay có nguy cơ phơi nhiễm 
bụi nghề nghiệp, có ít nhất một trong các triệu 
chứng hô hấp kéo dài (ho, khạc đàm, khó thở) 
và thường đi khám bệnh vì nhiễm trùng hô 
hấp (20,21). Năm 2005, D.B. Price và cs (22) trên 
cơ sở một khảo sát ở cộng đồng trên những 
người hút thuốc lá chưa từng được chẩn đoán 
bệnh hô hấp, chưa từng sử dụng thuốc hô hấp 
đã xác định có 8 yếu tố có giá trị hồi quy đa 
biến có ý nghĩa trong tầm soát COPD là: Tuổi, 
số thuốc lá đã hút, ho, khạc đàm, ho đàm về 
sáng, khò khè, BMI và tiền sử dị ứng. Theo 
các các tác giả giá trị tầm soát (diện tích dưới 
đường cong, AUC) của 8 yếu tố này 0,81 với 
độ nhậy là 0,82 và độ đặc hiệu là 0,72 (hình 
2). Cũng trong một khảo sát ở cộng đồng, NV 
Thành và cs (năm 2012) (23) nhận định cùng 
với các yếu tố lâm sàng như trên, nếu có thêm 
các yếu tố đã từng nhập viện cấp cứu vì bệnh 
phổi, đã sử dụng thuốc hô hấp (dãn phế quản, 
corticosteroid) thì AUC rất cao, 0,95. Trong 
nghiên cứu này các tác giả cũng đề xuất việc 
sử dụng dụng cụ đo lưu lượng đỉnh (PEF). 
Nếu giá trị PEF giảm <70% giá trị ước tính 
kết hợp triệu chứng lâm sàng AUC lên tới 
0,99 (bảng 1). 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
78
Hô hấp số 14/2018
Hình 2. Đường cong ROC đối với bảng câu hỏi cuối cùng (n = 246). AUC=0.8158 (theo DB. Price 2005) (22)
Bảng 1. Bảng điểm chẩn đoán COPD: CT- COPD-S (NV Thành và cs 2012) (23)
Câu hỏi Trả lời Điểm 
1. Từ 60 tuổi trở lên Có
Không
69
0
2. Hút thuốc lá (hoặc đã ngưng hút) từ 15 gói-năm trở lên Có
Không
15
0
3. Khạc đàm (cảm giác đàm từ trong phổi) hàng ngày Có
Không
13
0
4. Mệt hơn khi gắng sức so với người cùng tuổi Có
Không
31
0
5. Đã được sử dụng thuốc dãn phế quản Có
Không
23
0
6. Đã được sử dụng thuốc kháng viêm steroid cho bệnh phổi Có
Không
16
0
7. Đã đi khám bệnh cấp cứu vì triệu chứng bệnh phổi Có
Không
25
0
8. Đã đi nhập viện cấp cứu vì triệu chứng bệnh phổi Có
Không
28
0
9. Nói ngắn hơi Có
Không
15
0
10. Thở co kéo cơ hô hấp phụ Có
Không
26
0
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
79
Hô hấp số 14/2018
Những nghiên cứu đầu tiên về COPD 
vào những năm thập niên 50-60 thế kỷ 20 
đã ghi nhận các biến đổi bệnh học, nhất là 
những thay đổi có khuynh hướng mạn tính 
trên đường thở và phổi ở người hút thuốc 
lá. Một kết luận quan trọng là đặc điểm tổn 
thương trên đường thở suất hiện sớm và 
toàn bộ, trong khi khí phế thũng xuất hiện 
muộn hơn, không phải trường hợp nào cũng 
có và đặc tính khí phế thũng cũng khác so 
với những trường hợp khí phế thũng do thiếu 
hụt anpha
1
-antitrypsin (24-26). Sau đó, khoảng 
thập niên 60-70, những nghiên cứu sinh lý 
chức năng hô hấp của người hút thuốc lá đã 
xác định tình trạng thông khí tắc nghẽn và vị 
trí tăng trở kháng đường thở đưa đến triệu 
chứng hô hấp. Cũng vào thời điểm đó, COPD 
được định nghĩa là tình trạng tắc nghẽn với 
hình ảnh chức năng đặc biệt là giảm FEV
1
và giảm tỷ lệ FEV
1
/FVC (27,28). Macklem PT 
và cs (năm 2010) (29) cho rằng những thay 
đổi sớm nhất trong COPD là giảm FVC do 
hiện tượng khí cạm hơn là giảm FEV
1
. Hiện 
tượng này gây ra do thu hẹp cố định đường 
thở nhỏ (<2mm đường kính) do dầy thành, 
xơ hóa, bít tắc. Ngược lại với hình ảnh tắc 
nghẽn trong hen, chủ yếu ở đường thở lớn 
hơn và phân bố không đồng đều, ngoại trừ 
hen ở người lớn tuổi và hen hút thuốc lá có 
biểu hiện tương tự COPD.
4. PHÁT HIỆN VÀ CHẨN ĐOÁN SỚM
Spirometry được chấp nhận như là test chẩn 
đoán nhằm xác định tình trạng tắc nghẽn và 
phân loại mức độ tắc nghẽn. Bình thường 
FEV
1
 trên người khỏe mạnh không hút thuốc 
lá cũng giảm theo tuổi, khoảng 30mL/năm 
với giới hạn trên là 50mL/năm (30). Do vấn 
đề này mà có những tranh luận về việc sử 
dụng điểm cắt cố định đơn (single fixed cut-
off) để chẩn đoán tắc nghẽn trong COPD vì 
có thể giá trị bình thường thấp (LLN-lower 
limit of normal) làm tăng chẩn đoán COPD. 
Do vậy đã có ý kiến cho rằng sử dụng giá trị 
LLN FEV
1
/FVC sẽ tốt hơn trong chẩn đoán 
(31) trong khi các guideline vẫn khuyến cáo 
sử dụng giá trị cố định đơn. Mặc dù việc xác 
định tình trạng thông khí tắc nghẽn là rõ ràng, 
cụ thể nhưng, như đã trình bày ở phần trên, 
tình trạng không chẩn đoán COPD ở cộng 
đồng là phổ biến. Trong một khảo sát cộng 
đồng ở Australia trên những người từ 40 
tuổi trở lên, chỉ có 5,2% những người được 
xác định là COPD đã có chẩn đoán trước đó 
Câu hỏi Trả lời Điểm 
11. Nghe phổi thông khí giảm Có
Không
37
0
12. PEF <70% giá trị lý thuyết Có
Không
72
0
13. Xquang ngực thường quy có hình ảnh khí phế thũng Có
Không
88
0
Chẩn đoán COPD khi:
- Từ 1-11: 114 điểm 
- Từ 1- 11 + 12 hoặc 13: 210 điểm
PEF: Peak expiratory flow
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
80
Hô hấp số 14/2018
(32). Cũng ở Australia, trong số những người 
có chẩn đoán COPD, 31% và 42% là tỷ lệ 
những người không được phân loại COPD 
trong 2 nghiên cứu năm 2011 (33,34). Hơn nữa, 
có máy đo chức năng hô hấp (spirometer) tại 
cơ sở khám cũng không làm cải thiện hiệu 
quả chẩn đoán (34). 
Ý nghĩa của chữ “sớm” trong phát hiện 
và chẩn đoán sớm là ở chỗ chẩn đoán được 
COPD ở ngay lần đầu tới y tế khám và/hoặc 
chẩn đoán được COPD ở giai đoạn sớm. 
Đây thông thường là công việc của tuyến y 
tế ban đầu. Ở đây, việc kết hợp chẩn đoán 
bằng spirometry trên những người có nguy 
cơ cao là chiến lược hiệu quả (35). Spirometry 
nên được tập trung trên những người trung 
niên hút thuốc lá. Bằng cách như vậy, một tỷ 
lệ rất đáng kể COPD được chẩn đoán thêm 
(36,37). Biện pháp làm tăng tính thực hành là sử 
dụng bảng câu hỏi (questionnaire) tầm soát 
trước trên nhóm có nguy cơ bằng các câu hỏi 
(thí dụ bảng câu hỏi IPAG, Hội Hô hấp và 
Chăm sóc ban đầu, Anh) (bảng 2) (38) hay các 
bảng yếu tố nguy cơ của DB. Price và cs như 
đã trình bày ở trên. Trong một nghiên cứu 
ở Australia, các tác giả vừa sử dụng bảng 
câu hỏi IPAG vừa kết hợp sử dụng cụ thổi 
cầm tay để đo giá trị FEV
1
/FEV
6
 (PiKO-6 
spirometer) cho thấy có hiệu quả chẩn đoán 
cao với AUC là 0,85. Với điểm cắt giá trị 
FEV
1
/FEV
6 
75%, độ nhậy chẩn đoán COPD 
của phương pháp này là 81% và độ đặc hiệu 
là 71% (39).
Như vậy bệnh nhân không được quản 
lý điều trị như một trường hợp COPD sẽ ở 
trong 2 trạng thái: 1) Có bệnh nhưng không 
biết bệnh nên không đi khám mặc dù có hay 
không triệu chứng, kể cả đợt cấp và 2) Có 
đi khám vì triệu chứng hô hấp hoặc đợt cấp 
nhưng không được chẩn đoán hoặc được chẩn 
đoán nhưng không được quản lý điều trị.
Bảng 2. Bảng câu hỏi tầm soát COPD của IPAG (38)
Câu hỏi Trả lời Điểm 
Bao nhiêu tuổi ? 40-49
50-59
60-69
≥ 70
0
4
8
10
Lượng thuốc lá đang 
(hoặc đã) hút (gói-năm)
0-14
1 ... 
25-49
≥ 50
0
2
3
7
BMI <25.5
25.4-29.7
>29.7
5
1
0
Có bị ho khi thay đổi thời 
tiết không
Có
Không
3
0
Có khạc đàm ngay cả khi 
không bị cảm
Có
Không
3
0
Có khạc đàm vào buổi 
sáng khi thức dậy không 
Có
Không
3
0
Có bị khò khè không Không
Thỉnh 
thoảng 
hoặc 
thường 
xuyên
0
4
Có bao giờ bị dị ứng 
không 
Có
Không
3
0
Tổng số ≥ 17 điểm là có 
nguy cơ cao COPD
Trong khi lợi ích thực từ việc tầm soát 
(screening) COPD ở cộng đồng hiện nay vẫn 
còn bị hoài nghi (40,41) thì việc xác định một 
trường hợp COPD bằng chẩn đoán lâm sàng 
để có hướng tác động điều trị sớm, nhất là tác 
động không dùng thuốc, là rất cần thiết. Với 
phân tích như vậy, thái độ phù hợp nhất là 
tiếp cận COPD từ những đợt cấp. Một nghiên 
cứu đã khảo sát thực hành ở y tế ban đầu trên 
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
81
Hô hấp số 14/2018
một số lượng lớn bệnh nhân ho cấp tính tới 
khám, nếu chỉ xác định bằng 2 yếu tố: >40 
tuổi và có hút thuốc lá thì đã có 79,8% bệnh 
nhân khai đã có triệu chứng hô hấp mạn tính. 
Nhóm có triệu chứng hô hấp mạn tính có tuổi 
đời cao hơn, tỷ lệ phơi nhiễm nhiều hơn và 
chất lượng sống thấp hơn. Đặc biệt là ở nhóm 
bệnh nhân có triệu chứng hô hấp mạn tính 
số lần đã đi khám trong 12 tháng trước nhiều 
hơn và đã được điều trị kháng sinh nhiều hơn 
(42). Một nghiên cứu khác phân tích bệnh nhân 
đợt cấp COPD sau khi xuất viện cho thấy tỷ 
lệ tử vong trong 90 ngày là 5%. Cũng trong 
90 ngày, có 37% bệnh nhân tái nhập viện và 
trong số đó tử vong là 6,5%. Nếu gộp chung, 
cả tử vong trong và ngoài bệnh viện sau 90 
ngày là 11,6% (43). Tỷ lệ tái nhập viện và tử 
vong từ nghiên cứu này cho thấy một hình 
ảnh tiên lượng rất xấu của bệnh nhân đợt cấp, 
nhất là đợt cấp nhập viện. Những phân tích 
như trên là cơ sở để nhấn mạnh việc cần thiết 
phải chẩn đoán lâm sàng COPD ngay khi tiếp 
cận lần đầu trên bệnh nhân có những yếu tố 
nguy cơ cao COPD. Bằng một lộ trình theo 
dõi và xử trí hợp lý sẽ không chỉ làm tăng 
khả năng chẩn đoán COPD mà còn làm giảm 
gánh nặng bệnh tật và tử vong.
5. ĐỀ XUẤT THỰC HÀNH
Như vậy với triệu hô hấp cấp tính đi khám 
hoặc nhập viện cấp cứu ở những bệnh nhân 
có nguy cơ cao COPD, thầy thuốc cần sử 
dụng bảng câu hỏi hoặc tối thiểu là xác định 
các yếu tố nguy cơ, khám và thực hiện các 
xét nghiệm có sẵn để chẩn đoán COPD. Sẽ có 
2 tình huống: 1) Ở các phòng khám chuyên 
khoa hoặc nhập viện điều trị và 2) Ở các 
phòng khám đa khoa và ngoại trú. 
Ở các phòng khám chuyên khoa, hoặc 
bệnh viện, bằng khám và xét nghiệm nếu 
không có một chẩn đoán nào cần phân biệt 
(nhất là suy tim, lao phổi, hen) thì bệnh nhân 
cần được chẩn đoán lâm sàng COPD khi: 
Hình 3. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm 
COPD từ đợt cấp ở các cơ sở y tế chuyên khoa hoặc 
nhập viện cấp cứu 
Từ 40 tuổi trở lên, hút thuốc lá, có triệu chứng 
hô hấp mạn tính. Các hướng dẫn điều trị không 
sử dụng thuốc (như dinh dưỡng, vận động, 
vaccin, tránh phơi nhiễm) cần thực hiện ngay 
khi có chẩn đoán lâm sàng. Ngay sau trị liệu 
đợt cấp (5-7 ngày điều trị) hay khi xuất viện, 
cần thực hiện spirometry để xác định chẩn 
đoán COPD này. Nếu spirometry có tình trạng 
tắc nghẽn cố định (FEV
1
/FVC <70% sau thuốc 
dãn phế quản), cần có kế hoạch quản lý và 
điều trị COPD duy trì trong 12 tháng tiếp theo. 
Trong trường hợp như vậy, việc quản lý và điều 
trị cần theo hướng bệnh nhân COPD có nhiều 
đợt cấp như GOLD đề xuất (46). Spirometry cần 
thực hiện lại sau mỗi 3 tháng quản lý và điều 
trị. Nếu bệnh nhân vẫn tiếp tục hút thuốc lá 
và/hoặc phơi nhiễm với khói bụi thì dù giá trị 
FEV
1
/FVC ≥70% cũng nên theo dõi đến hết 
12 tháng mới xác định nên hay không nên tiếp 
tục điều trị duy trì COPD vì nhiều trường hợp 
tình trạng tắc nghẽn có thể đạt điểm cắt sau 
nhiều lần spirometry nếu bệnh nhân tiếp tục 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
82
Hô hấp số 14/2018
hút thuốc lá và/hoặc phơi nhiễm (47). Hình 3 thể 
hiện sơ đồ quản lý và điều trị để phát hiện và 
chẩn đoán sớm COPD ngay sau đợt cấp ở các 
phòng khám chuyên khoa hoặc bệnh viện cho 
những bệnh nhân chưa được chẩn đoán xác 
định COPD trước đó.
Đối với bệnh nhân đến khám ngoại trú vì 
triệu chứng hô hấp tại các cơ sở y tế không 
chuyên khoa, bằng khám và ít nhất với hình 
ảnh Xquang ngực nếu không có một chẩn 
đoán nào cần phân biệt (nhất là suy tim, lao 
phổi, hen) thì bệnh nhân cần được chẩn đoán 
lâm sàng COPD khi: Từ 40 tuổi trở lên, hút 
thuốc lá, có triệu chứng hô hấp mạn tính. Các 
hướng dẫn điều trị không sử dụng thuốc (thí dụ 
như dinh dưỡng, vận động, vaccin, tránh phơi 
nhiễm) cần thực hiện ngay khi có chẩn đoán 
lâm sàng. Ngay sau trị liệu đợt cấp (5-7 ngày) 
cần đo lưu lượng đỉnh (PEF) (hoặc spirometry 
nếu có thể) để xác định chẩn đoán COPD.
Hình 4. Sơ đồ tiếp cận phát hiện và chẩn đoán sớm COPD từ đợt cấp đến khám ngoại trú 
ở các cơ sở y tế không chuyên khoa 
Nếu PEF (hoặc spirometry) có tình trạng tắc 
nghẽn (PEF <70% hoặc FEV
1
/FVC <70%), 
cần có kế hoạch quản lý và điều trị COPD 
duy trì trong 12 tháng tiếp theo. Trong trường 
hợp này việc quản lý và điều trị cần theo 
hướng bệnh nhân COPD có nhiều đợt cấp 
như GOLD đề xuất (46) nếu bệnh nhân có ít 
nhất 1 lần đi khám trong 3 tháng trước hoặc 1 
lần phải vào nhập viện điều trị vì triệu chứng 
hô hấp trong 12 tháng trước. Hình 4 thể hiện 
sơ đồ quản lý và điều trị để phát hiện và chẩn 
đoán sớm COPD ngay sau đợt cấp ở các cơ sở 
y tế không chuyên khoa cho những bệnh nhân 
chưa được chẩn đoán COPD trước đó.
KẾT LUẬN
Thực trạng chẩn đoán và quản lý COPD 
đang được xem như mới tiếp cận được phần 
nổi của khối băng chìm. Có nhiều nguyên 
nhân dẫn đến tình trạng này trong đó vấn đề 
phát hiện và chẩn đoán sớm là một yếu tố 
then chốt. Một kế hoạch hành động và theo 
dõi ngay sau đợt cấp sẽ giúp tăng được tỷ lệ 
chẩn đoán để từ đó tăng hiệu quả quản lý và 
điều trị. Trong khi chờ các nghiên cứu đánh 
giá, với thực tế ở Việt Nam, cách tiếp cận 
này nên được xem là hợp lý, cụ thể và có 
tính thực hành hiện nay.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
83
Hô hấp số 14/2018
1. Mannino DM, Buist AS. Global burden of COPD: 
risk factors, prevalence, and future trends. Lancet 
2007;370:765-73.
2. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell 
F, Desbiens N,Fulkerson WJ, et al. Outcomes 
following acute exacerbation of chronic obstructive 
lung disease. The SUPPORT investigators. Am J 
Respir Crit Care Med 1996;154:959-67.
3. Connors AF, Dawson NV, Thomas C, Harrell 
F, Desbiens N, Fulkerson WJ, et al. Outcomes 
following acute exacerbation of chronic obstructive 
lung disease. The SUPPORT investigators. Am J 
Respir Crit Care Med 1996;154:959-67.
4. Almagro P, Calbo E, de Echagüen AO, Quintana 
BBS, Heredia JL, Garau J. Mortality after 
hospitalization for COPD. Chest 2002;121;1441
5. Mannino DM, Gagnon RC, Petty TL, Lydick E. 
Obstructive lung disease and low lung function 
in adults in the United States: data from the 
National Health and Nutrition Examination Survey, 
1988-1994. Arch Intern Med. 2000;160(11):1683-
1689. Doi: 
archinte.160.11.1683 
6. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen 
T, Gulsvik A and Lehmann S. Prevalence and 
predictors of undiagnosed chronic obstructive 
pulmonary disease in a Norwegian adult general 
population. The Clinical Respiratory Journal 2010; 
4: 13–21.
7. Hvidsten SC, Storesund L, Wentzel-Larsen 
T, Gulsvik A and Lehmann S. Prevalence and 
predictors of undiagnosed chronic obstructive 
pulmonary disease in a Norwegian adult general 
population. The Clinical Respiratory Journal 2010; 
4: 13–21.
8. Roche N, Gaillat J, Garre M, et al. Acute respiratory 
illness as a trigger for detecting chronic bronchitis 
in adults at risk of COPD: a primary care survey. 
Prim Care Respir J. 2010;19(4):371- 377. Doi: 
9. Han MK, Steenrod AW, Bacci ED, et al for the 
High-Risk-COPD Screening Study Group. 
Identifying patients with undiagnosed COPD in 
primary care settings: Insight from screening 
tools and epidemiologic studies. J COPD F. 
2015; 103-121. Doi: org/10.15326/
jcopdf.2.2.2014.0152
10. MJ Abramson et al. Accuracy of asthma and 
COPD diagnosis in Australian general practice: a 
mixed methods study. Prim Care Respir J 2012; 
21(2): 167-173
11. Matheson MC, Abeysena C, Raven JM, et al. 
How have we been managing chronic obstructive 
pulmonary disease in Australia? Intern Med J 
2006;36(2):92-9. 
12. Den Otter JJ, de Bruyn-Schmidt MA, Wolters 
MJ, et al. Lung function measurement in general 
practice. General practice measurements 
compared with laboratory measurements during 
the DIMCA trial. Fam Pract 2000; 17(4):314-16. 
13. Buffels J, Degryse J, Liistro G. Diagnostic certainty, 
co-morbidity and medication in a primary care 
population with presumed airway obstruction: the 
DIDASCO2 study. Prim Care Respir J 2009;18(1):34-
40.  10.3132/pcrj.2008.00047
14. Julia AE Walters, Emily Hansen, Peter Mudge 
et al. Barriers to the use of spirometry in general 
practice. Australian Family Physician Vol. 34, No. 
3, March 2005
15. Menezes AM, Perez-Padilla R, Jardim JB, et al. 
Chronic obstructive pulmonary disease in five 
Latin American cities (the PLATINO study): a 
prevalence study. Lancet 2005; 366:1875–1881
16. NV Nhung. Giải pháp cho quản lý hen và bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính ở Việt Nam. Tạp chí Lao 
và bệnh phổi số 3. 4/2011
17. Nathalie Saad, Maria Sedeno, KatrinaMetz et al. 
Early COPD Diagnosis in Family Medicine Practice: 
How to Implement Spirometry? International 
Journal of Family Medicine Volume 2014, Article 
ID 962901, 
18. Hani A. Jokhdar, Mohammed A. Garout, 
Mohammad M. Alkot et al. Early Detection of 
Chronic Obstructive Pulmonary Disease (COPD) 
in Family Practice. Journal of Family Medicine and 
Health Care 2017; 3(1): 1-5 
19. Keiichiro Akamatsu, Toshiyuki Yamagata, Yohei 
Kida et al. Poor Sensitivity of Symptoms in Early 
Detection of COPD. COPD: Journal of Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease, 2008, 5:269–273
20. Ulla Borup Hemmingsen, Margit Stycke, Jens 
Dollerup et al. Guideline-Based Early Detection 
of Chronic Obstructive Pulmonary Disease in 
Eight Danish Municipalities: The TOP-KOM Study 
Hindawi Pulmonary Medicine Volume 2017, Article 
ID 7620397.
21. Janelle M. Guirguis-Blake, Caitlyn A. Senger, Elizabeth 
M. Webber et al. Screening for Chronic Obstructive 
Pulmonary Disease: A Systematic Evidence Review 
for the U.S. Preventive Services Task Force. AHRQ 
Publication No. 14-05205-EF-1 April 2016
Tài liệu tham khảo 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
84
Hô hấp số 14/2018
22. David B. Price, David G. Tinkelman, R.J. Halbert et 
al. Symptom-Based Questionnaire for Identifying 
COPD in Smokers
23. Nguyễn Văn Thành, Cao Thị Mỹ Thúy, Võ Phạm 
Minh Thư và cs. Xây dựng mô hình hệ thống quản 
lý và điều trị hiệu quả COPD và Hen phế quản 
trong bệnh viện và ở cộng đồng. NXB Y Học 2012, 
tr. 57-69
24. Anderson DO, Ferris BG. Role of Tobacco 
Smoking in the Causation of Chronic Respiratory 
Disease. N Engl J Med 1962;267:787-94.
25. Dunnill MS. The classification and quantification of 
emphysema. Proceedings of the Royal Society of 
Medicine 1969;62:1024-7. 
26. Flotte TR, Mueller C. Gene therapy for 
alpha-1 antitrypsin deficiency. Hum Mol Genet 
2011;20:R87-92.
27. Macklem PT. The physiology of small airways. Am 
J Respir Crit Care Med 1998;157:S181-3. 
28. Macklem PT. A Century of the Mechanics 
of Breathing. Am J Respir Crit Care Med 
2004;170:10-5.
29. Macklem PT. Therapeutic implications of 
the pathophysiology of COPD. Eur Respir J 
2010;35:676-80.
30. Kerstjens HA, Rijcken B, Schouten JP, et al. 
Decline of FEV1 by age and smoking status: facts, 
figures, and fallacies. Thorax 1997;52:820-7.
31. Schermer TR, Quanjer PH. COPD screening in 
primary care: who is sick? Prim Care Respir J 
2007;16:49-53.
32. Toelle BG, Xuan W, Bird TE, et al. Respiratory 
symptoms and illness in older Australians: the 
Burden of Obstructive Lung Disease (BOLD) 
study. Med J Aust 2013;198:144-8.
33. Walters JA, Walters EH, Nelson M, et al. Factors 
associated with misdiagnosis of COPD in primary 
care. Prim Care Respir J 2011;20:396-402. 
34. Zwar NA, Marks GB, Hermiz O, et al. Predictors 
of accuracy of diagnosis of chronic obstructive 
pulmonary disease in general practice. Med J Aust 
2011;195:168-71.
35. David P. Johns, Julia A.E. Walters, E. Haydn Walters. 
Diagnosis and early detection of COPD using 
spirometry. J Thorac Dis 2014;6(11):1557-1569
36. Van Schayck CP, Loozen JM, Wagena E, et al. 
Detecting patients at a high risk of developing 
chronic obstructive pulmonary disease in general 
practice: cross sectional case finding study. BMJ 
2002;324:1370. 
37. Sichletidis L, Spyratos D, Papaioannou M, 
Chloros D, Tsiotsios A, Tsagaraki V, Haidich A. 
A combination of the IPAG questionnaire and 
PiKo-6® flow meter is a valuable screening tool 
for COPD in the primary care setting. Prim Care 
Respir J 2011;20(2):184-189
38. Haroon S, Adab P, Griffin C, et al. Case finding for 
chronic obstructive pulmonary disease in primary 
care: a pilot randomised controlled trial. Br J Gen 
Pract 2013;63:e55-62.
39. Frith P, Crockett A, Beilby J, et al. Simplified COPD 
screening: validation of the PiKo-6 in primary care. 
Prim Care Respir J 2011;20:190-8.
40. Guirguis-Blake JM, Senger CA, Webber EM, 
Mularski R, Whitlock EP. Screening for Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease: A Systematic 
Evidence Review for the U.S. Preventive Services 
Task Force. Evidence Synthesis No. 130. AHRQ 
Publication No. 14-05205-EF-1. Rockville, MD: 
Agency for Healthcare Research and Quality; 
2016. 
41. Kaplan A, Thomas M. Screening for COPD: 
the gap between logic and evidence. Eur 
Respir Rev 2017; 26: 160113 [https://doi.
org/10.1183/16000617.0113-2016].
42. Prieto Centurion et al.: Confirmatory spirometry 
for adults hospitalized with a diagnosis of 
asthma or chronic obstructive pulmonary disease 
exacerbation. BMC Pulmonary Medicine 2012 
12:73.
43. Pozo-Rodrı´guez F, Lo´pez-Campos JL, A´ lvarez-
Martı´nez CJ, Castro-Acosta A, Agu¨ ero R, et al. 
(2012) Clinical Audit of COPD Patients Requiring 
Hospital Admissions in Spain: AUDIPOC Study. 
PLoS ONE 7(7): e42156. doi:10.1371/journal.
pone.0042156
44. Rea H, Kenealy T, Adair J, Robinson E, Sheridan 
N: Spirometry for patients in hospital and one 
month after admission with an acute exacerbation 
of COPD. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 2011, 
6:527–532.
45. Conthe Gutie´rrez P, Garcı´a Alegrı´a J, Pujol 
Farriols R, Alfageme Michavilla I, Artola Mene´ndez 
S, et al (2010) [Consensus for hospital discharge 
reports in medical specialities]. Med Clin (Barc) 
134: 505–510.
46. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (report 2017)
47. Tjard R Schermer, Bas Robberts, Alan J Crockett 
et al. Should the diagnosis of COPD be based 
on a single spirometry test?. npj Primary Care 
Respiratory Medicine (2016) 26, 16059 

File đính kèm:

  • pdfphat_hien_som_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_copd_nen_thuc_hie.pdf