Phân tích, khảo sát và đánh giá hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải được lựa chọn ở Việt Nam
Tóm tắt:
Hiện tượng nhấp nháy điện áp là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng điện năng
trong hệ thống điện. Bài báo giới thiệu đến bạn đọc những vấn đề liên quan đến hiện tượng nhấp
nháy điện áp trong hệ thống điện như: nguyên nhân gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp, ảnh
hưởng của hiện tượng nhấp nháy điện áp, các chỉ tiêu đánh giá cũng như một số kết quả đo đạc,
khảo sát hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải công nghiệp được lựa chọn ở Việt Nam.
Thông qua việc phân tích, khảo sát và đánh giá, một số giải pháp hạn chế hiện tượng nhấp nháy
điện áp sẽ được đề xuất.
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích, khảo sát và đánh giá hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải được lựa chọn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích, khảo sát và đánh giá hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải được lựa chọn ở Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 1 PHÂN TÍCH, KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆN TƢỢNG NHẤP NHÁY ĐIỆN ÁP TẠI MỘT SỐ PHỤ TẢI ĐƢỢC LỰA CHỌN Ở VIỆT NAM VOLTAGE FLICKER ANALYSIS AND PROPOSED SOLUTIONS FOR SELECTED LOADS IN VIETNAM Bùi Anh Tuấn 1 , Lê Thị Vân Anh 1 , Đinh Ngọc Quang 2 , Hoàng Đăng Khoa 3 1 Trường Đại học Điện lực, 2 Viện Năng lượng, 3 Bộ Công Thương Tóm tắt: Hiện tượng nhấp nháy điện áp là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng điện năng trong hệ thống điện. Bài báo giới thiệu đến bạn đọc những vấn đề liên quan đến hiện tượng nhấp nháy điện áp trong hệ thống điện như: nguyên nhân gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp, ảnh hưởng của hiện tượng nhấp nháy điện áp, các chỉ tiêu đánh giá cũng như một số kết quả đo đạc, khảo sát hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải công nghiệp được lựa chọn ở Việt Nam. Thông qua việc phân tích, khảo sát và đánh giá, một số giải pháp hạn chế hiện tượng nhấp nháy điện áp sẽ được đề xuất. Từ khóa: Flicker, chất lượng điện năng, bù công suất phản kháng. Abstract: Voltage flicker phenomenon is one of the factors that affect power quality in power systems. This paper presents the issues related to the flashing voltage such as causes, effects, criteria for evaluating voltage flicker as well as several measurements in selected industrial loads in Vietnam. Through the analysis, survey and assessment, some measures to alleviate the voltage flicker will be recommended. Keywords: Flicker, power quality, reactive power compensation. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ1 Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, các thiết bị điện tử có công suất cao ngày càng trở nên phổ biến như: máy tính, tivi, 1 Ngày nhận bài: 25/2/2016, ngày chấp nhận đăng: 4/9/2016, phản biện: GS.TSKH. Trần Đình Long. các bộ inverter, converter Cùng với đó là sự thay thế của các nguồn năng lượng tái tạo (năng lượng gió, năng lượng mặt trời) cho các nhà máy điện truyền thống như nhiệt điện than, nhiệt điện khí Sự thay đổi về mặt công nghệ này khiến cho việc sử dụng năng lượng trở nên hiệu quả, sạch và mang lại những lợi ích to lớn về mặt môi trường. Tuy nhiên, TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 2 nó cũng ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề chất lượng điện năng do những tương tác của các thiết bị này với hệ thống điện. Trước tiên, các thiết bị điện tử công suất (kể cả các thiết bị inverter, converter trong các máy phát điện gió và mặt trời) rất nhạy cảm với những biến đổi của dòng điện, điện áp (cao hơn rất nhiều so với các thiết bị cơ khí) nên chúng đòi hỏi chất lượng điện năng cao hơn. Ngoài ra, do bản chất vật lý của các thiết bị điện tử công suất có đặc tính làm việc là phi tuyến, vì vậy chúng góp phần rất lớn vào việc làm giảm chất lượng điện năng của hệ thống điện (gây ra các dạng méo dòng điện, điện áp, các dạng cộng hưởng). Các dạng năng lượng tái tạo còn gây ra những vấn đề về tần số, điện áp và nhấp nháy ánh sáng ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng làm việc của con người. Ở rất nhiều nước trên thế giới, tỷ lệ sử dụng các thiết bị phi tuyến đã lên tới con số 80-95% công suất của toàn bộ phụ tải của quốc gia. Do đó, bài toán về chất lượng điện năng (CLĐN) ngày càng trở nên cấp bách trong những năm gần đây. Trong các tiêu chuẩn điện năng, độ nhấp nháy điện áp (flicker) là một trong những tiêu chí rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới sức khỏe của con người do sự thay đổi độ sáng của các bóng đèn chiếu sáng. Do các hệ thống điện xoay chiều trên thế giới chỉ làm việc với tần số 50 hoặc 60 Hz nên những biến thiên về biên độ điện áp kéo dài khoảng 3 chu kỳ thì mắt thường có thể nhận biết được sự thay đổi nhấp nháy điện áp. Hình 1 là ví dụ điển hình cho hiện tượng flicker trong hệ thống điện 50 Hz. Việc đánh giá hiện tượng nhấp nháy điện áp được thực hiện thông qua những kiến thức về quá trình sinh lý của sự cảm nhận nhấp nháy ánh sáng của con người. Hình 1. Hiện tƣợng nhấp nháy điện áp trong hệ thống điện 50 Hz Tại Việt Nam, theo Thông tư số 32/BCT/2010 quy định về hệ thống điện phân phối thì mức nhấp nháy điện áp cho phép được cho trong bảng 1. Tuy nhiên, hiện tại chưa có chế tài để xử phạt các đơn vị gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp và hiện tượng này chưa được quan tâm một cách đúng mức. Do đó, việc khảo sát hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số loại phụ tải để từ đó có thể đề xuất phương án và sản xuất thiết bị công nghệ cao để xử lý hiện tượng này là hết sức cần thiết. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 3 Bảng 1. Mức nhấp nháy điện áp cho phép [1] Cấp điện áp Mức nhấp nháy cho phép 110 kV Pst95% = 0,80 Plt95% = 0,60 Trung áp Pst95% = 1,00 Plt95% = 0,80 Hạ áp Pst95% = 1,00 Plt95% = 0,80 2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ HIỆN TƢỢNG NHẤP NHÁY ĐIỆN ÁP TẠI MỘT SỐ PHỤ TẢI ĐƢỢC LỰA CHỌN Ở VIỆT NAM Nguồn gốc sinh ra nhấp nháy điện áp là do các thiết bị nối vào hệ thống điện gây ra dao động điện áp. Dao động điện áp là hậu quả của những thay đổi công suất tiêu thụ của phụ tải, đặc biệt là dao động công suất phản kháng. Nguyên nhân chính là do đóng, cắt các tải lớn hoặc do đặc tính công nghệ bên trong thiết bị tiêu thụ điện (lò hồ quang, máy hàn điện, các động cơ công suất lớn thay đổi phụ tải liên tục, các thiết bị cẩu, trục) hoặc do lỗi hệ thống nguồn như sét, gió, gây ra sự cố ngắn mạch,... Vì vậy, căn cứ vào các nguồn có thể gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp, tiến hành phân tích, khảo sát và đánh giá hiện tượng trên tại một số phụ tải như: Lò hồ quang và khu cẩu trục của Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, dây chuyền luyện thép của Nhà máy Thép POSCO - Hải Phòng và máy hàn hồ quang một pha, Tại mỗi vị trí khảo sát, ngoài các thông số điển hình như: độ nhấp nháy ngắn hạn (Pst) và độ nhấp nháy dài hạn (Plt), nhóm tác giả còn tiến hành thu thập các thông tin về sơ đồ nối điện, phân tích đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới hiện tượng nhấp nháy điện áp như công suất tác dụng, công suất phản kháng, 2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiện tƣợng nhấp nháy điện áp Hai tham số đặc trưng cho hiện tượng nhấp nháy ánh sáng do dao động điện áp là mức nhấp nháy ngắn hạn Pst và mức nhấp nháy dài hạn Plt [1]. Các tham số này được đo bởi thiết bị đo nhấp nháy. Mức nhấp nháy điện áp ngắn hạn (Pst) là giá trị đo được trong khoảng thời gian 10 phút bằng thiết bị đo nhấp nháy. Đây là đại lượng không đơn vị, đặc trưng cho mức độ xấu của nhấp nháy. Pst = 1 tương ứng với giới hạn không được vượt quá để tránh sự mệt mỏi cho sự quan sát đối với bất kỳ loại nhấp nháy nào. Khả năng nhấp nháy P, tính theo tỷ lệ phần trăm, được đo nhờ sự trợ giúp của đồng hồ đo độ nháy trong khoảng thời gian Tsh, bằng 10 phút, tương ứng với phân bố xác suất, bằng 0,1; 0,7; 1,0; 1,5; 2,2; 3,0; 4,0; 6,0; 8,0; 10,0; 13,0; 17,0; 30,0; 50,0; 80,0%. Mức độ vượt quá ngưỡng của nhấp nháy Ps, tính theo tỷ lệ phần trăm được xác định với sự trợ giúp của đồng hồ đo nhấp nháy (flickermeter) hoặc được tính theo công thức [2], [3]: 3 5 3 3 805030 50 17131086 10 0,40,32,2 3 5,10,17,0 1 PPP P PPPPP P PPP P PPP P s s s s (1) Với P1s, P3s, P10s, P50s - mức độ vượt quá ngưỡng của nhấp nháy khi phân bố xác TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 4 suất bằng 1,0; 3,0; 10,0; 50,0%. Độ nhấp nháy ngắn hạn Pst có thể xác định bằng flickermeter hoặc tính trên một khoảng thời gian 10 phút theo công thức [2], [3]: ssssst PPPPPP 5010311,0 08,028,00675,00525,00314,0 (2) Mức nhấp nháy điện áp dài hạn (Plt) được tính từ 12 kết quả đo Pst liên tiếp (trong khoảng thời gian hai giờ), theo công thức [2], [3]: 3 12 1 2)( 12 1 k stklt PP (3) Với Pstk - độ nhấp nháy ngắn hạn trong khoảng thời gian thứ k. Plt là tiêu chuẩn đánh giá nhấp nháy dài hạn khi xem xét các sự kiện nhấp nháy với các chu kỳ lớn hơn hoặc khi một số tải gây nhấp nháy đồng thời vận hành. Giới hạn mức nhấp nháy dài hạn là 0,8. 2.2. Kết quả đo đạc và khảo sát Lò hồ quang và khu cẩu trục của Nhà máy Gang thép Thái Nguyên: Các lò hồ quang xoay chiều này có ý nghĩa rất lớn trong ngành công nghiệp thép. Tuy nhiên, do bản chất hoạt động của lò thường xuyên gây ra hiện tượng dao động điện áp. Dao động điện áp gây ra do tính chất hồ quang của lò thường bất định, không thể dự báo trước nên rất khó để thực hiện việc khắc phục hiện tượng nhấp nháy điện áp do lò hồ quang gây ra [4], [5]. Về mặt cấu tạo, lò hồ quang là một thiết bị 3 pha gồm ba điện cực bằng graphit tiếp xúc với một hỗn hợp bao gồm quặng sắt và các vảy thép. Hỗn hợp này sẽ được đưa lên nhiệt độ khoảng 3400oC bởi các điện cực gây ra hiện tượng hồ quang. Lò hồ quang còn bao gồm bát chứa thép được làm bằng gạch chịu lửa. Ba điện cực có thể di chuyển từ trên cao xuống lò. Lò hồ quang còn có máy biến áp, hệ thống thanh dẫn điện cực và với những lò công suất lớn còn có thể có điện kháng cản dòng. Điện áp sơ cấp của máy biến áp là 35 kV, điện áp thứ cấp là từ 300 đến 700 V. Máy biến áp này thường trang bị hệ thống điều áp. Chu kỳ hoạt động của lò hồ quang chia thành 2 pha rõ rệt. Trong pha đầu tiên, lò sẽ tăng nhiệt độ để làm nóng chảy quặng sắt, do đó pha này thường có tên gọi là pha nóng chảy. Lúc này, điện áp sẽ được điều chỉnh ở mức cao nhất để có thể đạt công suất tối đa. Do tính chất thất thường của quặng sắt, hồ quang do lò sinh ra cũng biến thiên rất mạnh và khiến cho pha này trở nên không ổn định. Khi quặng đã biến thành chất lỏng, nhiệm vụ của lò chỉ là cung cấp nhiệt lượng để duy trì nhiệt độ của lò. Lúc này lò chỉ cần sử dụng điện áp thấp và hồ quang cũng trở nên ổn định hơn. Có hai nguyên nhân chính của hiện tượng nhấp nháy điện áp trong lò hồ quang. Thứ nhất là do tính dẫn điện của quặng sắt, các quặng này trong quá trình bị đốt nóng sẽ chuyển động và khiến các điện cực bị ngắn mạch. Hiện tượng ngắn mạch này khiến dòng tăng cao và gây ra dao động điện áp rất lớn. Thứ hai là do bản chất tự nhiên của hồ quang điện. Quá trình phát TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 5 ra hồ quang điện sẽ khiến dòng điện thay đổi rất mạnh khiến cho điện áp bị dao động theo. Biên độ dao động của quá trình này không lớn nếu so sánh với hiện tượng ngắn mạch, tuy nhiên tần Suất của nó thì cao hơn rất nhiều. Chính vì vậy nó cũng rất nguy hiểm và làm xấu đáng kể các thông số nhấp nháy điện áp Pst, Plt. Hình 2. Giá trị đo lƣờng Pst và Plt 3 pha của lò hồ quang Có thể thấy giá trị đo lường Pst của 3 pha khá tương đồng nhau. Do đặc tính của phụ tải của lò hồ quang không thể hoạt động liên tục nên có những lúc lò ngừng hoàn toàn để lấy thêm quặng. Khi không có sự hoạt động của SVC, giá trị Pst tăng rất lớn, cao nhất tại pha A là 38,4 (cao hơn 38 lần so với giá trị cho phép). Giá trị đo lường Plt tại pha A cao nhất là 16,8. Giá trị này cao hơn giá trị cho phép 21 lần. Những kết quả đo lường cho thấy, giá trị của Pst và Plt của lò hồ quang vượt rất nhiều lần các giá trị cho phép theo Thông tư số 32. Hình 3. Kết quả đo Pst và Plt tại hệ thống cẩu trục nhà máy thép Thái Nguyên Trong Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, ngoài hệ thống lò hồ quang thường gây ra nhấp nháy điện áp rất lớn thì hệ thống cẩu TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 6 trục của lò cũng liên tục thay đổi công suất và gây ra nhấp nháy tại điểm kết nối chính của hệ thống. Hệ thống cẩu trục của Nhà máy Gang thép Thái Nguyên có nhiệm vụ nâng khối lượng gang thép đã luyện trong lò hồ quang sang vị trí để tinh luyện và cán thép. Hệ thống sẽ hoạt động ngay sau khi lò hồ quang kết thúc công việc, do đó nó cũng không hoạt động liên tục mà gián đoạn. Tuy vậy, khi hoạt động, yêu cầu phải nhanh và chính xác để đảm bảo lượng thép mới luyện không bị giảm nhiệt độ. Cẩu trục bao gồm hệ thống nâng lò thép theo phương thẳng đứng và hệ thống di chuyển theo phương nằm ngang. Do tính chất của thiết bị, mỗi khi làm việc, hệ thống này thường gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp lớn tại nhà máy. Kết quả đo Pst cho thấy giá trị Pst cao nhất là 1,35 tại pha A, vượt 35 % so với giá trị cho phép. Giá trị Plt khoảng 1,04, vượt 30% so với giá trị cho phép trong thông tư 32. Dây chuyền luyện thép của nhà máy thép POSCO - Hải Phòng: Khác với Nhà máy Gang thép Thái Nguyên thực hiện toàn bộ chu trình sản xuất thép từ xử lý quặng tới cán ra thép thành phẩm, Nhà máy Thép Posco - Hải Phòng chỉ thực hiện việc cán phôi thép thành sản phẩm cuối cùng. Quá trình cán thép được thực hiện qua các dây chuyền cán sử dụng động cơ không đồng bộ. Trong quá trình cán, các động cơ cũng thường xuyên phải thay đổi công suất nên cũng có thể gây ra các dao động điện áp. Tương tự như tại Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, nhóm thực hiện đề tài thực hiện việc đo Pins, Pst và Plt kết quả như sau: Hình 4. Kết quả đo Pst và Plt tại Nhà máy Thép Posco - Hải Phòng Kết quả đo Pst cho thấy giá trị Pst cao nhất là 1,3, giá trị Plt khoảng 1. Những kết quả đo đạc cho thấy, các giá trị Pst và Plt của Nhà máy Thép Posco, dù đã được hạn chế bởi các thiết bị khởi động mềm động cơ tại một số thời điểm vẫn cao hơn giá trị cho phép khoảng 20-30%. Máy hàn hồ quang một pha: Các máy hàn điện thực hiện việc kết nối 2 mảnh kim loại bằng cách đốt nóng một phần kim loại nằm giữa 2 mảnh này. Tuy vậy, trong quá trình hàn, điện áp thường TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 7 thay đổi rất mạnh và gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp. Thông thường có hai loại thiết bị hàn: hàn điện trở và hàn hồ quang. Hàn điện trở sử dụng dòng điện lớn để đốt nóng kim loại (có những loại dòng điện có thể lên tới 100000 A). Hàn hồ quang, sử dụng nhiệt gây ra do hồ quang điện để làm nóng chảy kim loại. Tương tự như các phần trên, nhóm tác giả thực hiện việc đo Pst và Plt, kết quả như trong hình 5. Hình 5. Kết quả đo Pstvà Plt tại máy hàn Những kết quả đo đạc cho thấy, các giá trị Pst và Plt của máy hàn đều vượt quá giới hạn cho phép. Trong đó Pst vượt giới hạn cho phép tới 480%, Plt nhỏ hơn chủ yếu là do máy hàn thường phải nghỉ để thay que hàn. Tuy vậy, giá trị Plt vẫn vượt quá 75% so với giới hạn quy định trong Thông tư 32. Hệ số cosυ rất thấp (khoảng 0,2-0,3) nên việc bố trí thêm các thiết bị bù có điều khiển với tốc độ cao sẽ khiến hiệu suất của máy tăng lên, giảm tổn thất và giảm cả hiện tượng nhấp nháy điện áp về các giới hạn cho phép. 3. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ HIỆN TƢỢNG NHẤP NHÁY ĐIỆN ÁP Hiện tượng nhấp nháy điện áp không phải là một hiện tượng mới xảy ra và đã được quan tâm, xử lý khá nhiều trong những năm trước đây. Tuy nhiên, hiệu quả của việc xử lý hiện tượng này thường không cao do nguyên nhân chủ yếu là hiện tượng thường xảy ra rất nhanh, đòi hỏi những thiết bị rất đắt tiền. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của các nguồn năng lượng tái tạo, vốn có đặc tính tự nhiên không ổn định như gió, mặt trời, hiện tượng nhấp nháy điện áp ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Việc phát triển rất mạnh của các thiết bị bù công suất phản kháng tốc độ cao như SVC, STATCOM cũng khiến cho việc xử lý hiện tượng nhấp nháy điện áp dễ dàng hơn. Hiện tại, do hiện tượng flicker rất phức tạp và thay đổi nhiều tùy theo loại phụ tải nên có khá nhiều phương án khác nhau để xử lý vấn đề này. Tuy nhiên, cũng rất khó có thể đưa ra một giải pháp tối ưu cho các loại phụ tải khác nhau. Trên thực tế, có rất nhiều các biện pháp khác nhau để làm giảm hiện tượng nhấp nháy điện áp trong hệ thống điện. Tuy nhiên ta có thể chia làm 4 nhóm giải pháp TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 8 chính như sau [6]: Sử dụng các thiết bị bù công suất phản kháng nhanh như: thiết bị bù tĩnh điều khiển bằng thyristor (SVC), thiết bị bù tĩnh STATCOM, thiết bị điều khiển dòng công suất UPFC, thiết bị bù công suất phản kháng dựa trên nguyên lý lai [7],... Thay đổi cấu hình của lưới điện bằng cách xây dựng thêm các đường dây từ các nguồn điện tới điểm kết nối chính, lắp đặt thêm các máy biến áp làm việc song song hoặc mắc nối tiếp tụ điện với đường dây để giảm thông số X của đường dây,... Tuy nhiên, các biện pháp kể trên đều rất tốn kém, chi phí cao. Các giải pháp về công nghệ và vận hành như: thay đổi các thiết bị gây ra nhấp nháy điện áp bằng các thiết bị công nghệ cao hơn, ít gây ra các hiện tượng nhấp nháy điện áp hơn; sử dụng hệ thống máy phát/động cơ phía trước máy hàn có thể giảm thiểu được nhấp nháy điện áp (do cân bằng được điện áp các pha và mômen quán tính của phần quay sẽ hãm sự biến đổi năng lượng lớn trong máy hàn). Đối với các lò hồ quang có thể sử dụng thêm cuộn kháng mắc nối tiếp với lò hoặc sử dụng máy biến áp có điện kháng cao hơn,... Tuy vậy, đây là phương án rất tốn kém. Các giải pháp về khởi động động cơ như: sử dụng thiết bị khởi động mềm, sử dụng các phương pháp khởi động động cơ bằng điện áp thấp như dùng máy biến áp tự ngẫu, đổi nối sao/tam giác, mắc nối tiếp cuộn kháng vào mạch stator,... 4. KẾT LUẬN Qua các kết quả đo đạc tại một số phụ tải được khảo sát, chúng ta thấy rằng độ nhấp nháy ngắn hạn cũng như độ nhấp nháy dài hạn đều vượt quá giá trị quy định rất nhiều. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người cũng như hiệu quả làm việc của thiết bị. Đối với mỗi loại thiết bị, nguyên nhân gây ra hiện tượng nhấp nháy điện áp do rất nhiều yếu tố như: công suất nguồn cung cấp, đặc tính làm việc của thiết bị, quy trình sản xuất,... Chính vì vậy, rất khó có thể đưa ra một giải pháp tối ưu cho các loại phụ tải khác nhau. Một trong những giải pháp hiệu quả áp dụng cho các phụ tải có công suất lớn là sử dụng các thiết bị bù công suất phản kháng có tốc độ xử lý nhanh. Với sự phát triển nhanh chóng về mặt công nghệ, các thiết bị bù ngày nay hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu trên với khả năng điều chỉnh gần như tức thời thông số của chúng với giá thành rẻ. Ngoài ra, căn cứ vào tính chất, nguyên lý làm việc, quy trình sản xuất,... mà chúng ta có thể đưa ra các giải pháp khắc phục ngay tại chỗ với giá thành rẻ hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Thông tư số: 32/2010/TT-BCT. [2] Gost 13109/97 - Tiêu chuẩn chất lượng điện năng Liên bang Nga. [3] Tiêu chuẩn IEC 61000-4-15: Flickermeter. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂNG LƯỢNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC (ISSN: 1859 - 4557) Số 11 tháng 11-2016 9 [4] Trần Đình Long, Sổ tay tra cứu chất lượng điện năng, Hội Điện lực Việt Nam, 2014. [5] Lê Đắc Trung, Nâng cao chất lượng điện năng qua việc hạn chế nhiễu sóng hài và quá điện áp nội bộ trong lưới điện phân phối, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học và Công nghệ điện lực 2014. [6] Bùi Anh Tuấn, Đinh Ngọc Quang, Nghiên cứu khảo sát hiện tượng nhấp nháy điện áp tại một số phụ tải điển hình và biện pháp khắc phục, Báo cáo tổng kết đề tài cấp BCT 2015. [7] Bùi Anh Tuấn, Đinh Ngọc Quang, Nghiên cứu, chế tạo thiết bị bù công suất phản kháng trong lưới điện hạ áp dựa trên nguyên lý lai, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ Công Thương 2014. Giới thiệu tác giả: Tác giả Bùi Anh Tuấn, sinh năm 1978. Hiện là giảng viên Khoa Hệ thống điện - Trường Đại học Điện lực. Tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2001, chuyên ngành hệ thống điện. Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ kỹ thuật điện tại trường Đại học Claude Bernard - Lyon1, Cộng hòa Pháp năm 2011. Các hướng nghiên cứu chính: vật liệu điện từ, bù công suất phản kháng và chất lượng điện năng. Tác giả Lê Thị Vân Anh, sinh năm 1984. Hiện là giảng viên Khoa Công nghệ tự động, Trường Đại học Điện lực. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội, Khoa Điện chuyên ngành điều khiển tự động năm 2007. Tốt nghiệp thạc sĩ kỹ thuật điện tại Đại học Kỹ thuật Nam Đài, Đài Loan (Trung Quốc) năm 2009. Các hướng nghiên cứu chính: xử lý tín hiệu, điện tử công suất và điều khiển thông minh. Tác giả Đinh Ngọc Quang, sinh năm 1978. Hiện đang công tác tại Viện Năng lượng, Bộ Công Thương. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội chuyên ngành hệ thống điện. Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ kỹ thuật điện tại Trường Đại học Bách khoa Quốc gia Odessa, Ukraina năm 2010. Các hướng nghiên cứu chính: lọc sóng hài, bù công suất phản kháng, điện tử công suất và chất lượng điện năng. Tác giả Hoàng Đăng Khoa, sinh năm 1978. Tốt nghiệp đại học và thạc sĩ chuyên ngành hệ thống điện tại các Trường đại học Bách khoa Hà Nội năm 2001 và Trường Đại học Inha, Hàn Quốc vào năm 2010. Hiện nay, tác giả đang công tác tại Bộ Công Thương và là nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu điện tử, tin học, tự động hóa - Bộ Công Thương. Lĩnh vực quan tâm chính là nghiên cứu các vấn đề liên quan tới nhấp nháy điện áp trong hệ thống điện.
File đính kèm:
- phan_tich_khao_sat_va_danh_gia_hien_tuong_nhap_nhay_dien_ap.pdf