Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế

TÓM TẮT

Bài viết nghiên cứu về các yếu tố tác động

đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng

thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời kỳ hội

nhập 2005 - 2011 theo phương pháp SFA

(Stochatic Frontier Panel Data). Trong đó kết

quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả hoạt động

của các NHTM chịu ảnh hưởng bởi hai nhóm

nhân tố chính. Trong đó các nhân tố chủ quan

tác động bao gồm: Thị phần, rủi ro thanh

khoản, tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài

và quy mô của ngân hàng. Các nhân tố khách

quan bao gồm: Tổng thu nhập quốc nội và lạm

phát của nền kinh tế. Các nhân tố tác động tích

cực đến hiệu quả hoạt động của các NHTM bao

gồm: tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài,

quy mô ngân hàng và thị phần của ngân hàng.

pdf 14 trang phuongnguyen 7440
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế

Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 88 
Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả 
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương 
mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập tài 
chính quốc tế 
 Trần Huy Hoàng 
Trường Đại học Tài chính - Marketing - Email: hoangth@ufm.edu.vn 
 Nguyễn Hữu Huân 
Trường Đại học Kinh tế TP HCM 
(Bài nhận ngày 15 tháng 01 năm 2016, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 29 tháng 02 năm 2016) 
TÓM TẮT 
Bài viết nghiên cứu về các yếu tố tác động 
đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng 
thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời kỳ hội 
nhập 2005 - 2011 theo phương pháp SFA 
(Stochatic Frontier Panel Data). Trong đó kết 
quả nghiên cứu cho thấy, hiệu quả hoạt động 
của các NHTM chịu ảnh hưởng bởi hai nhóm 
nhân tố chính. Trong đó các nhân tố chủ quan 
tác động bao gồm: Thị phần, rủi ro thanh 
khoản, tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài 
và quy mô của ngân hàng. Các nhân tố khách 
quan bao gồm: Tổng thu nhập quốc nội và lạm 
phát của nền kinh tế. Các nhân tố tác động tích 
cực đến hiệu quả hoạt động của các NHTM bao 
gồm: tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài, 
quy mô ngân hàng và thị phần của ngân hàng. 
Từ khóa: hiệu quả hoạt động, ngân hàng thương mại, hội nhập tài chính. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất 
yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ 
quốc gia nào trong giai đoạn phát triển hiện nay. 
Tuy nhiên, tiến trình này ngoài việc tạo ra 
những thuận lợi, cơ hội nhất định cho các quốc 
gia tham gia hội nhập, còn đặt các nước này 
trước những khó khăn, thách thức không nhỏ. 
Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt các 
doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển 
nói chung, hệ thống NHTM nói riêng, trước môi 
trường kinh doanh mới với những áp lực cạnh 
tranh gay gắt cùng những đối thủ không cân sức. 
Hiện nay, xét về mặt kinh tế, Việt Nam là 
quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ 
chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc 
tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát 
triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á 
- Thái Bình Dương, ASEAN. Việt Nam tham 
gia các hiệp định thương mại tự do đa phương 
với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, 
Trung Quốc. Việt Nam cũng đã ký với Nhật Bản 
một hiệp định đối tác kinh tế song phương. Đối 
với lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, quá trình hội 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 89 
nhập gắn liền với quá trình tự do hoá thị trường 
tài chính, đem lại nhiều cơ hội, nhưng cũng 
không ít thách thức. 
Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu, phân tích, 
đưa ra những nhân tố ảnh hưởng đến tính hiệu 
quả trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt 
Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay để từ đó 
đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm nâng 
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM là 
một vấn đề cấp thiết 
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 
2.1. Các nghiên cứu trước đây về tính hiệu 
quả hoạt động của hệ thống NHTM 
Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động ở các 
ngân hàng đã sử dụng nhiều phương pháp khác 
nhau về kỹ thuật đánh giá và bộ dữ liệu. Nhưng 
phần lớn các nghiên cứu này tập trung tại các 
nước phát triển. Phần này sẽ tổng quan các kết 
quả nghiên cứu ở Việt Nam và các nghiên cứu ở 
một số nước theo các cách tiếp cận khác nhau. 
Các nghiên cứu trong nước 
Các nghiên cứu trong nước về hiệu quả hoạt 
động của hệ thống NHTM gần đây đã được một 
số tác giả quan tâm, tuy nhiên đa phần những 
nghiên cứu này chỉ dừng lại ở các nghiên cứu 
định tính như: nghiên cứu của nghiên cứu sinh 
Lê Thị Hương năm 2002 về “Nâng cao hiệu quả 
hoạt động đầu tư của NHTM Việt Nam”, hay 
nghiên cứu của nghiên cứu sinh Lê Dân (2004) “ 
Vận dụng phương pháp thống kê để phân tích 
hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam”, tuy 
đã có phần nào tiếp cận vấn đề bằng phương 
pháp định lượng nhưng chỉ dừng lại chủ yếu ở 
phương thức thống kê, hoặc nghiên cứu của 
Tiến sĩ Phạm Thanh Bình (2005) với đề tài 
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống 
NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh 
tế khu vực và quốc tế” cũng chỉ dừng lại ở phân 
tích định tính. 
Còn các nghiên cứu định lượng về đo lường 
hiệu quả hoạt động của các NHTM nhìn chung 
là còn ít. Gần đây, có nghiên cứu của Bùi Duy 
Phú (2002) là đánh giá hiệu quả của NHTM qua 
hàm sản xuất và hàm chi phí, tuy nhiên hạn chế 
của nghiên cứu này là chỉ đơn thuần xác định 
hàm chi phí và ước lượng trực tiếp hàm chi phí 
này để tìm các tham số của mô hình, do vậy mà 
không thể tách được phần phi hiệu quả trong 
hoạt động của ngân hàng. Nguyễn Thị Việt Anh 
(2004) ước lượng các nhân tố phi hiệu quả cho 
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 
Việt Nam có áp dụng phương pháp hàm biên 
ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Function) và 
ước lượng dưới dạng hàm chi phí Cobb_ 
Douglas, tuy nhiên hạn chế cơ bản của nghiên 
cứu đó là việc chỉ định dạng hàm. 
Như vậy, có thể nói việc áp dụng những 
phương pháp phân tích định lượng trong nghiên 
cứu hiệu quả của NHTM Việt Nam còn rất hạn 
chế, thực tế cũng cho thấy hiện nay trong phân 
tích họat động của ngành ngân hàng từ cấp ngân 
hàng đến cấp ngành, các nhà phân tích vẫn quen 
cách tiếp cận truyền thống, bởi vì đây vẫn là một 
cách tiếp cận dễ hiểu và dễ tính. 
Các nghiên cứu nước ngoài 
Các nghiên cứu về đánh giá hiệu quả hoạt 
động của các ngân hàng, tiếp cận theo phương 
pháp phân tích định lượng, đã được sử dụng 
trong các nghiên cứu như của Nathan và Neave 
(1992) áp dụng phương pháp biên ngẫu nhiên để 
phân tích hiệu quả họat động các ngân hàng 
Canada trong thời kỳ 1983 - 1987. Các tác giả 
đã sử dụng cách tiếp cận giá trị gia tăng và cách 
tiếp cận trung gian để ước tính hàm chi phí. 
Trong đó, để ước lượng hàm chi phí, tác giả đã 
sử dụng ba yếu tố đầu vào (lao động, vốn và các 
quỹ) và bốn yếu tố đầu ra (cho vay thương mại 
và công nghiệp, các loại cho vay khác, tiền gửi 
có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn) theo cách 
tiếp cận giá trị gia tăng, còn đối với cách tiếp 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 90 
cận trung gian các tác giả sử dụng ba yếu tố đầu 
vào tương tự như trên và ba yếu tố đầu ra (cho 
vay thương mại và công nghiệp, các loại cho 
vay khác, chứng khoán và đầu tư). Các kết quả 
nghiên cứu cho thấy các ngân hàng lớn không 
có lợi thế về chi phí hơn hẳn các ngân hàng nhỏ, 
điều này cũng tương đồng với nghiên cứu ở Mỹ 
đó là tính kinh tế nhờ quy mô đều quan sát thấy 
ở cả ngân hàng nhỏ và lớn. 
Paolo Coccorese và Alfonso Pellecchia 
(2010) đã tiếp cận phương pháp SCP cùng với 
các mô hình: OLS, ALS, Battese - Coelli, hồi 
quy Logistic và mô hình Tobit để kiểm định 
thuyết “Quite Life”, từ đó đưa ra kết luận về mối 
quan hệ giữa sức mạnh thị trường với hiệu quả 
hoạt động ngành ngân hàng nghiên cứu tại hệ 
thống ngân hàng Italia. Kết quả của bài nghiên 
cứu cho thấy mối quan hệ đáng kể và khá mạnh 
mẽ giữa hiệu quả hoạt động theo chi phí với sức 
mạnh thị trường và xác nhận thuyết “Quite Life” 
là đúng với hệ thống ngân hàng tại Italia. 
Wahyoe Soedarmono, Fouad Machrouh, 
Amine Tarazi (2011) nghiên cứu mối quan hệ 
giữa sức mạnh thị trường, tăng trưởng kinh tế và 
sự ổn định tài chính bằng cách tiếp cận phương 
pháp FEM và 2SLS, nghiên cứu tại hệ thống 
ngân hàng châu Á. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
sức mạnh thị trường trong lĩnh vực ngân hàng 
có mối quan hệ nhất định với khả năng sự tương 
xứng về vốn, và sự vốn hóa ở mức độ cao của 
ngành ngân hàng trong thị trường ít cạnh tranh 
không đủ sức đương đầu với các rủi ro mang 
tính hệ thống. 
Bằng việc sử dụng phương pháp Frontier and 
Non _ Frontier, mô hình OLS và mô hình Tobit, 
Michael Koetter, James W. Kolari and Laura 
Spierdijk (2008) nghiên cứu về mối quan hệ 
giữa cạnh tranh và hiệu quả ngân hàng tại các 
ngân hàng ở USA. Mô hình nghiên cứu đã tính 
ra được chỉ số Lerner hiệu chỉnh, đây có thể là 
một phát kiến mới trong việc nghiên cứu động 
thái cạnh tranh của lĩnh vực ngân hàng và các 
lĩnh vực khác và nó cũng có ích trong việc 
nghiên cứu quá trình điều tiết, chính sách thị 
trường và các bên có liên quan. 
Sophocles N.Brissimis, Manthos D. Delis, 
Nikolaos I. Papanikolaou (2008) sử dụng mô 
hình 2SLS cùng với dữ liệu bảng của các ngân 
hàng để phân tích sự ảnh hưởng của việc cơ cấu 
lại hệ thống ngân hàng đến hiệu quả hoạt động 
của hệ thống ngân hàng những nước mới gia 
nhập khu vực Euro. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy mối quan hệ cùng chiều giữa việc tái cấu 
trúc hệ thống ngân hàng với tính hiệu quả của hệ 
thống ngân hàng dưới tác động của các nhân tố 
vĩ mô. 
Nghiên cứu của Rima Turk Ariss (2010) đã 
tiếp cận mô hình OLS và Tobit để khám phá 
mức độ của sức mạnh thị trường tác động như 
thế nào đến hiệu quả và tính ổn định của hệ 
thống trong bối cảnh của các nền kinh tế đang 
phát triển. Nghiên cứu không tìm thấy bằng 
chứng mạnh mẽ về mối quan hệ chiến lược cạnh 
tranh và sự ổn định tài chính tại các quốc gia 
đang phát triển. Tuy nhiên nghiên cứu đã giải 
thích được tác động của sức mạnh thị trường 
đến hiệu quả và sự ổn định của từng ngân hàng 
tại các quốc gia này. 
Barbara Casu và Claudia Giardone (2011) 
trong bài nghiên cứu của mình đã áp dụng 
phương pháp tiếp cận trung gian và 2 mô hình 
SFA, DEA để xem xét mối quan hệ giữa mức độ 
cạnh tranh, mức độ tập trung và mức hiệu quả 
cụ thể của các NHTM khu vực Euro. Nghiên 
cứu tìm ra được mối quan hệ phi tuyến giữa sự 
cạnh tranh và tính hiệu quả và các nhân tố khác 
như: độ nhạy cảm với rủi ro, khung điều tiết và 
các nhân tố vĩ mô khác có thể ảnh hưởng trực 
tiếp và gián tiếp đến mối quan hệ này và vì vậy 
có thể giải thích cho các nghiên cứu sau này 
trong cùng khu vực Euro. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 91 
Nghiên cứu của Joaquin, Maudos, Juan 
Fernandez de Guevara (2007) sử dụng mô hình 
Fixed Effects để phân tích mối quan hệ giữa sức 
mạnh thị trường (bao gồm thị trường cho vay và 
tiền gửi) và hiệu quả của ngành ngân hàng tại 15 
nước thuộc khu vực Euro. Nghiên cứu đồng tình 
với thuyết “quiet life”: việc thêm vào chi phí 
vận hành có thể quy cho sự xuất hiện của sức 
mạnh thị trường trong một thời gian dài lớn hơn 
tốn thất xã hội, điều này được lý giải là do sự 
không cạnh tranh về giá trong yếu tố đầu ra của 
ngân hàng và được tính bằng phúc lợi lũy thừa 
3. 
Nghiên cứu của Hirofumi Uchida, Yoshiro 
Tsuitsui (2005) đã sử dụng mô hình MVR, 
3SLS để xem xét liệu rằng sự cạnh tranh giữa 
các khu vực ngân hàng ở Nhật Bản có thực sự 
được cải thiện trong những năm cuối của thế kỷ 
20 hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự 
cạnh tranh giữa các ngân hàng ở thành thị cao 
hơn so với các khu vực khác và sự cạnh tranh 
trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu mạnh lên sau 
năm 1995. 
Nghiên cứu của Wiliam (2012) sử dụng mô 
hình SFA, 2SLS và Tobit để phân tích mối quan 
hệ giữa sức mạnh thị trường và tính hiệu quả 
của các ngân hàng ở Mỹ Latinh. Nghiên cứu tìm 
ra mối quan hệ mạnh mẽ giữa sức mạnh thị 
trường và tính hiệu quả của các ngân hàng hàng 
thương mại ở khu vực Mỹ Latinh cả 2 giai đoạn 
trước và sau tư hữu hóa. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Hiện nay, để đánh giá hiệu quả hoạt động 
nói chung của các NHTM ở Việt Nam, các nhà 
quản lý vẫn chủ yếu tiếp cận theo phương pháp 
đánh giá truyền thống thông qua các chỉ tiêu tài 
chính. Hơn nữa, trong quá trình tìm hiểu thực tế 
và thu thập số liệu về các NHTM Việt Nam, bài 
nghiên cứu nhận thấy hệ thống các chỉ tiêu tài 
chính được sử dụng phổ biến trong phân tích 
đánh giá hoạt động của NHTM Việt Nam chỉ là 
các chỉ tiêu tuyệt đối, về cơ bản nó phản ánh 
quy mô sử dụng các đầu vào để tạo ra các đầu ra 
trong hoạt động ngân hàng và chủ yếu mang 
tính chất thời điểm. Đồng thời đây cũng chỉ là 
các chỉ tiêu đơn mặc dù có các chỉ tiêu phản ánh 
hoạt động toàn bộ của ngân hàng nhưng cũng 
chỉ cho phép so sánh hai biến số với nhau. Hơn 
nữa, các chỉ tiêu quá đơn điệu và hết sức chung, 
khó giúp nhà quản lý có thể đưa ra được các 
quyết định đúng thời điểm và hầu như các chỉ 
tiêu này chủ yếu nghiêng về mục tiêu báo cáo tài 
chính hơn là đi sâu phân tích hoạt động ngân 
hàng. 
Chính vì vậy hiện nay đối với các nhà quản 
trị ngân hàng, khi ra quyết định phải dựa chủ 
yếu vào năng lực và sự nhạy bén của bản thân 
mình. 
Để bổ sung cho những phần hạn chế trên, 
hiện nay trên thế giới còn sử dụng nhiều mô 
hình định lượng khác nhau để đo lường hiệu quả 
và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt 
động của hệ thống ngân hàng. Riêng với bài 
nghiên cứu này, bài nghiên cứu sử dụng mô 
hình Stochastic Friontier Analyst (SFA) và hai 
phương pháp hồi quy: hồi quy 2 Stage Least 
Square (2SLS) và hồi quy Tobit để phục vụ cho 
phần nghiên cứu định lượng. 
2.3. Dữ liệu nghiên cứu 
Nguồn số liệu được sử dụng trong các mô 
hình ước lượng được thu thập từ bảng cân đối kế 
toán, báo cáo thu nhập chi phí và báo cáo 
thường niên của 30 NHTM Việt Nam (bao gồm 
5 NHTM Nhà nước và 25 NHTM) thời kỳ 2005 
- 2011. Bài nghiên cứu không sử dụng dữ liệu 
năm 2012 do từ năm 2012 đến nay, vì hệ thống 
NHTM có những biến động rất mạnh về cơ cấu, 
và tình hình hoạt động do ảnh hưởng bởi khủng 
hoảng kinh tế thế giới và sự bất ổn tài chính 
trong nước, chính những biến động này có thể 
gây nhiễu, tạo hiện tượng phương sai thay đổi 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 92 
và ảnh hưởng đến kết quả của mô hình, khiến 
cho ước lượng bị chệch. 
Dựa trên nguồn số liệu hiện có và những gợi 
ý từ kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế 
giới về lĩnh vực mà bài nghiên cứu đang nghiên 
cứu, cũng như thực tế hoạt động của các NHTM 
ở Việt Nam, bài nghiên cứu xây dựng mô hình 
nghiên cứu như sau: 
2.4. Mô hình nghiên cứu 
Đo lường hiệu quả ngân hàng, theo Berger & 
Mester (1997) và Fu & Heffernan (2009), hiệu 
quả X của một ngân hàng i được tính bằng chỉ 
số chi phí ước lượng thấp nhất được sử dụng bởi 
một ngân hàng chuẩn nhất để sản xuất một 
lượng đầu ra ngang nhau trong cùng một điều 
kiện ngoại sinh, từ đó ước lượng chi phí thực tế 
của ngân hàng i. Ví dụ: chỉ số hiệu quả X theo 
chi phí của ngân hàng I là 0,7 cho thấy rằng 
ngân hàng i đạt hiệu quả 70% và thấp hơn 30% 
so với ngân hàng chuẩn xét trong cùng một điều 
kiện nhất định. Hiệu quả X có giá trị trong nửa 
đoạn (0,1] và bằng 1 đối với ngân hàng đạt hiệu 
quả cao nhất. 
Tương tự như một vài nghiên cứu gần đây về 
hiệu quả ngân hàng ở các ngân hàng đang phát 
triển và khu vực Mỹ Latinh, Turk Ariss (2010), 
and Fang, Hasan et al. (2011) and Wiliam 
(2012), bài nghiên cứu này sử dụng phương 
pháp SFA để ước lượng hiệu quả bằng cách thu 
thập con số phi hiệu quả từ sai số ngẫu nhiên 
của mô hình SFA. Bên cạnh đó, phương pháp 
này còn giúp tác giả ước lượng được chi phí 
biên và giá trị ước lượng biên của lợi nhuận và 
tổng chi phí hoạt động từ hàm Log, từ đó tính 
được chỉ số Lerner. 
Theo Sealey & Lindley (1977) mặc dù 
không có cách tiếp cận hoàn hảo trong việc xác 
định đầu ra và đầu vào của ngân hàng vì không 
có cách tiếp cận ... ác 
động âm đến hiệu quả hoạt động của hệ thống 
NHTM, và các nhân tố thị phần, tỷ lệ nắm giữ 
có tác động dương đến hiệu quả hoạt động của 
hệ thống NHTM. 
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu nghiên cứu hiệu 
quả hoạt động của NHTM Việt Nam dưới góc 
độ lợi nhuận. Với mô hình SFA, bài nghiên cứu 
thay biến Tổng chi phí TOC bằng biến lợi nhuận 
trước thuế (pbt), từ đó rút trích ra được biến hiệu 
quả về mặt lợi nhuận của Ngân hàng. Kết quả 
chạy mô hình thể hiện ở bảng 2 cho thấy, tính 
phù hợp của mô hình SFA cũng rất cao. 
Bảng 3. Kết quả chạy mô hình mô hình SFA, trong đó hiệu quả được xem xét theo biến lợi nhuận 
trước thuế (pbt) 
Nguồn: Tác giả tự tính toán 
Sau đó, bài nghiên cứu tiếp tục dùng biến 
hiệu quả hoạt động về mặt lợi nhuận làm biến 
phụ thuộc trong hai mô hình phân tích các nhân 
tố tác động đến hiệu quả hoạt động của Ngân 
hàng theo hai phương pháp 2SLS và Tobit. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 97 
Bảng 4. Thể hiện kết quả ước lượng mô hình 2SLS, Tobit, trong đó hiệu quả hoạt động của hệ 
thống ngân hàng là biến phụ thuộc (pbt) theo cách tiếp cận hiệu quả theo lợi nhuận. 
* p<0.10, ** p<0.05, *** p<0.01
Standard errors in parentheses
chi2 62.84018 55.95134 
ll 40.15291 
ll_0 12.17724 
r2 0.27311 
N 168 194 
 (0.0100) 
_cons 0.19673***
sigma 
 (2.2702) (1.4258) 
_cons -1.11157 -0.14854 
 (0.3715) (0.2793) 
inf -0.76182** -0.60159** 
 (2.0688) (2.0706) 
gdp -6.79062*** -6.01770***
 (0.0462) (0.0464) 
listeddummy 0.00404 0.02135 
 (0.0659) (0.0634) 
ownershipd~s 0.33937*** 0.33624***
 (0.1448) (0.1284) 
liquidityr~k 0.06800 0.15415 
 (0.1411) (0.1208) 
creditrisk -0.09762 -0.00986 
 (0.7735) (0.6665) 
marketshar~t 0.06688 0.09683 
 (0.0686) (0.0566) 
banksize 0.14075** 0.09894* 
 (5.6660) (2.1908) 
concr4loan 4.03072 0.64512 
 (3.7610) (1.2694) 
concr4depo~t -1.74283 0.26365 
 (2.4381) (1.5852) 
lernerindex -0.66499 -0.77374 
main 
 2SLS Tobit 
 (1) (2) 
> dong ve mat loi nhuan
Ket qua chay mo hinh Cac nhan to tac dong den hieu qua hoat 
Nguồn: tác giả tự tính toán 
Các hệ số ước lượng cho kết quả có ý nghĩa 
trong mô hình 2SLS và Tobit theo cách tiếp cận 
hiệu quả theo thu nhập gồm có: quy mô ngân 
hàng, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, 
tổng thu nhập quốc nội và lạm phát. Trong đó 
quy mô ngân hàng và tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu 
tư nước ngoài tác động dương đến hiệu quả hoạt 
động của hệ thống ngân hàng, quy mô càng lớn, 
tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài càng 
cao thì hệ thống ngân hàng hoạt động càng hiệu 
quả. Ngược lại, 2 nhân tố: gdp và lạm phát lại có 
tác động âm, có nghĩa rằng, gdp càng cao, tỷ lệ 
lạm phát càng cao thì hiệu quả của hệ thống 
ngân hàng càng giảm. Điều này có thể được giải 
thích như sau: giai đoạn nghiên cứu của bài 
nghiên cứu đối với hệ thống NHTM Việt Nam 
là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình hội 
nhập và phát triển khá nóng, trong thời gian này, 
GDP của Việt Nam luôn đạt được tốc độ tăng 
trưởng cao trong khu vực, và lạm phát cũng 
thuộc loại cao nhất trong khu vực và thế giới. 
Giai đoạn này hệ thống NHTM chạy theo lợi 
nhuận mở rộng tín dụng, cho vay tràn lan, các 
quy chuẩn về an toàn được xem nhẹ và đây 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 98 
chính là lý do dẫn đến sự giảm sút hiệu quả về 
mặt chi phí và lợi nhuận, bên cạnh đó còn gia 
tăng nợ xấu, thanh khoản giảm sút và đẩy hệ 
thống NHTM đến những rủi ro không lường 
trước được trong tương lai mà năm 2012, 2013 
đã minh chứng điều đó. 
4. KẾT LUẬN 
Thông qua kết quả nghiên cứu từ mô hình 
rút ra được một số kết luận như sau: 
Trong giai đoạn 2005 - 2011, kết quả chạy 
mô hình cho thấy tồn tại bằng chứng chứng 
minh rằng có các nhân tố chủ quan lẫn khách 
quan tác động đến hiệu quả hoạt động của các 
NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập này. 
Các nhân tố chủ quan tác động gồm: Thị 
phần, rủi ro thanh khoản, tỷ lệ nắm giữ của nhà 
đầu tư nước ngoài, quy mô của ngân hàng. 
Các nhân tố khách quan bao gồm: Tổng thu 
nhập quốc nội và lạm phát của nền kinh tế. 
Các nhân tố tác động tích cực đến hiệu quả 
hoạt động của các NHTM bao gồm: tỷ lệ nắm 
giữ của nhà đầu tư nước ngoài, quy mô ngân 
hàng và thị phần của ngân hàng 
Các nhân tố tác động không tốt đến hiệu quả 
hoạt động của các NHTM bao gồm: rủi ro thanh 
khoản, nền kinh tế tăng trưởng nóng, lạm phát 
cao trong nền kinh tế. 
Khuyến nghị nhằm giúp hệ thống NHTM 
hội nhập tốt hơn trong giai đoạn tiếp theo 
Từ kết quả của mô hình 2SLS và Tobit theo 
lợi nhuận, để nâng cao hiệu quả hoạt động của 
mình, trong thời gian tới, các NHTM cần thực 
hiện hợp tác, xây dựng đối tác chiến lược nhằm 
hỗ trợ phát triển và khai thác cơ sở hạ tầng công 
nghệ của nhau nhằm giảm chi phí đầu tư, chi phí 
quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng hạ tầng cơ sở 
hiện có đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch 
vụ về thẻ để dần có lãi từ những hoạt động này. 
Đồng thời cần có chính sách khai thác công 
nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những 
sản phẩm và nhóm các sản phẩm dịch vụ dựa 
trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng 
cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa 
dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường 
bán chéo cho khách hàng. Đồng thời, việc phát 
triển đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp 
phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá 
trình hoạt động. 
Như vậy, nếu các NHTM làm tốt được 
những việc như trên sẽ giúp các NHTM có thể 
nâng cao hoạt động của mình, tăng thị phần thị 
trường, nâng cao hiệu quả hoạt động và khả 
năng cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. 
 Ngoài ra, Chính phủ cần có các chính sách 
thu hút đầu tư nước ngoại, tạo môi trường đầu tư 
hấp dẫn thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư 
nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, vì sự tham 
gia của khối ngoại theo như kết quả nghiên cứu 
cho thấy tác động tích cực của nó đến hiệu quả 
hoạt động của các NHTM thông qua chuyển 
giao công nghệ và mô hình kinh doanh. 
Bên cạnh đó, việc hội nhập có khả năng làm 
gia tăng độ bất ổn trong hệ thống tài chính từ 
các nguồn vốn không ổn định, cũng như việc 
cho phép luồng vốn di chuyển tự do và dỡ bỏ 
các quy định kiểm soát. Như phân tích ở trên, 
rủi ro thanh khoản gia tăng, nền kinh tế tăng 
trưởng nóng và lạm phát là mặt trái của quá 
trình hội nhập ngày càng sâu rộng của hệ thống 
tài chính Việt Nam với thế giới. Do đó, bên cạnh 
việc đưa ra các chính sách khuyến khích, thu hút 
đầu tư nước ngoài, mở cửa hệ thống tài chính 
ngày càng sâu rộng, NHNN và Chính phủ cần 
phải làm tốt côn tác điều hành, quản lý và dự 
báo thị trường, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ 
các nước đi trước, để giúp cho hệ thống tài 
chính nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói 
chung phát triển một cách bền vững. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 99 
Analyzing factors affecting the 
performance of Vietnam’s commerical 
banks in the era of international financial 
integration 
 Tran Huy Hoang 
University of Finance - Marketing - Email: hoangth@ufm.edu.vn 
 Nguyen Huu Huan 
University of Economics HCMC 
ABSTRACT 
The paper researches on factors affecting 
the performance of Vietnam‟s commercial banks 
in the integration period of 2005 – 2011, using 
Stochastic Frontier Panel Data (SFA) method. 
The results suggest that the performance of 
Vietnam‟s commercial banks are determined by 
two main groups of factors, which are subjective 
and objective. The former includes market 
share, liquidity risk, foreign holding ratio and 
bank size while the latter consists of GNP, and 
inflation. Determinants of the performance of 
Vietnam‟s commercial banks are foreign 
holding ratio, banking size and market share. 
Key words: performance, commercial banks, financial integration 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Bùi Duy Phú, Phương pháp đánh giá hiệu quả của NHTM qua hàm sản xuất và hàm chi phí, Bài 
nghiên cứu thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân (2002). 
[2]. Chính phủ, Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006, Quyết định về việc phê duyệt Đề án 
phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (2006). 
[3]. Đoàn Thanh và Phan Thị Thúy Diễm, Lựa chọn mô hình giám sát ngân hàng, kinh nghiệm các 
nước và bài học cho Việt Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 10 (20) 22-31 (2013). 
[4]. Frederic S. Miskin, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội 
(1994). 
[5]. Huỳnh Thế Du, Cải cách Ngân hàng ở Việt Nam: còn lắm chông gai, Chương trình Fullbright, TP 
HCM (2005). 
[6]. IMF (1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011), 
Vietnam: selected issue. 
[7]. Lê Dân, Vận dụng phương pháp thống kê để phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam, 
Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân (2004). 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q1 - 2016 
Trang 100 
[8]. Lê Hoàng Lan, Hoàn thiện cơ chế hoạt động của ngân hàng khi Việt Nam gia nhập tổ chức 
thương mại thế giới, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân (2006). 
[9]. Lê Thị Hương, Nâng cao hiệu quả đầu tư của các NHTM Việt Nam, Luận án Tiến Sỹ Kinh Tế, 
Đại học Kinh tế Quốc dân (2002). 
[10]. Liễu Thu Trúc và Võ Thành Danh, Phân tích hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt 
Nam, Tạp chí Khoa học 2012:21a 158-168 (2012). 
[11]. Nguyễn Đại Lai, Những nét khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam trên ba vấn đề bức xúc 
hiện nay gồm: năng lực đáp ứng nhu cầu gia nhập WTO; năng lực cạnh tranh của các ngân 
hàng Việt Nam và chiến lược của ngành về những vấn đề trên, Vụ chiến lược phát triển ngân 
hàng, NHNN Hà Nội. 
[12]. Nguyễn Khắc Minh, Phân tích định lượng ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ đến tăng trưởng một 
số ngành công nghiệp của thành phố Hà Nội, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (2006). 
[13]. Nguyễn Kim Đức, Hoạt động thẩm định giá trong việc quản lý nợ xấu tại hệ thống NHTM Việt 
Nam hiện nay, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 7 (17) 14-21 (2012). 
[14]. Nguyễn Tân Thanh Thảo, Chặng đường đổi mới – hiện đại hóa ngân hàng Việt Nam, bài trình 
bày tại TP HCM tháng 7/2005, “ Đa dạng hóa hoạt động để nâng cao khả năng cạnh tranh và 
hội nhập của các NHTM Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (7) (2005). 
[15]. Nguyễn Thị Hồng Hải, “Những thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình 
hội nhập quốc tế”, Tạp chí công nghiệp, trang 29 (2006). 
[16]. Nguyễn Thị Việt Anh, Ước lượng các nhân tố phi hiệu quả cho ngân hàng nông nghiệp và phát 
triển nông thôn Việt Nam, Luận văn Thạc Sỹ Kinh Tế, Đại học Kinh tế Quốc dân (2004). 
[17]. Nguyễn Việt Hùng, Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả họat động của NHTM Việt 
Nam, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Hà Nội (2008). 
[18]. NHNN Việt Nam, Báo cáo thường niên (1996 đến 2011). 
[19]. NHTM ở Việt Nam, 5 NHTM Nhà nước, 55 NHTM cổ phần, Báo cáo thường niên (2006, 2007, 
2008, 2009, 2010, 2011, 2012). 
[20]. Peter S.Rose, Quản trị NHTM, NXB Tài chính (2004). 
[21]. Phạm Thanh Bình, Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện 
hội nhập khu vực và quốc tế, Đề tài trọng điểm cấp ngành, mã số: KNHTĐ 2003.01 (2005). 
[22]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, NXB Chính trị 
quốc gia (2010). 
[23]. Tô Kim Ngọc, Tuân thủ yêu cầu của Basel I – tiêu chuẩn đo lường khả năng hội nhập của hệ 
thống NHTMVN, Học viện Ngân hàng. 
[24]. Thủ tướng chính phủ, Chiến lược phát triển ngân hàng Phát Triển Việt Nam đến năm 2020 và 
tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội (2012). 
[25]. Thủ tướng chính phủ, Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015, Hà 
Nội (2012). 
[26]. Trần Huy Hoàng. Giáo trình quản trị ngân hàng. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 
(2012). 
[27]. Trần Quang Tuyến, Tín dụng ngân hàng cho khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển, 
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 9-16 (2008). 
[28]. Vũ Thị Hải Minh, Liên kết các NHTM Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ 
hội nhập, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Trường đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (2012). 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q1 - 2016 
Trang 101 
[29]. Vũ Văn Thực, Tái cơ cấu hệ thống NHTM ở Việt Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 10 (20) 
18-21 (2013). 
[30]. WB, Banking sector Review (2012). 
[31]. Barbara Casu, “Does competition lead to efficiency The case of EU commercial banks”, working 
paper series wp 01/2009 (2009). 
[32]. Berger, A. and Mester, L., "Inside the black box: what explains differences in the effciencies of 
fnancial institutions?", Journal of Banking and Finance, 21, pp. 95-947 (1997). 
[33]. B Yiwei Fang, Iftekhar Hasan and Katherin Marton, “Bank efficiency in South-Eastern Europe, 
The role of ownership, market power and institutional development”, Economic of Transition, 19 
(3), pp. 495-520 (2011). 
[34]. Hirofumi Uchida, Yoshiro Tsuitsui, “Has competition in the Japanese banking sector 
improved”, Journal of Banking & Finance 29, pp. 419–439 (2005). 
[35]. Joaquin, Maudos, Juan Fernandez de Guevara, “The cost of market power in banking: Social 
welfare loss vs. cost inefficiency”, Journal of Banking & Finance 31, pp. 2103–2125 (2007). 
[36]. Jonathan Williams, “Efficiency and market power in Latin American banking”, Journal of 
Financial Stability 332, pp. 111-114 (2012). 
[37]. Manthos D. Delis , Efthymios G. Tsionas, “The joint estimation of bank-level market power and 
efficiency”, Journal of Banking and Finance, 33, pp. 1842-1850 (2009). 
[38]. Michael Koetter, James W. Kolari and Laura Spierdijk, “Efficient competition? Testing the 
'quiet life' of U.S. banks with adjusted Lerner indices” (2008) 
[39]. Journal of Banking & Finance 33, pp. 621-649. 
[40]. Nathan, A., and E.H. Neave, "Operating efficiency of Canada banks", Joumal of Financial 
Services Research, 6, pp. 265-276 (1992). 
[41]. Paolo Coccorese và Alfonso Pellecchia, “Testing the „Quiet Life‟ Hypothesis in the Italian 
banking industry”, Economic Notes by Banca Monte dei Paschi di Siena SpA, 39, pp. 173-202 
(2010). 
[42]. Rima Turk Ariss, “On the implications of market power in banking: Evidence from developing 
countries”, Journal of Banking and Finance, 34, pp. 765-775 (2010). 
[43]. Sealey and Lindley, "Measuring the Efficiency, of Decision Making Units", European Journal of 
Operational Research, 2, pp. 429 - 444 (1977). 
[44]. Sophocles N.Brissimis, Manthos D. Delis, Nikolaos I. Papanikolaou, “Exploring the nexus 
between banking sector reform and performance: Evidence from newly acceded EU countries”, 
Journal of Banking & Finance 32, pp. 2674–2683 (2008). 
[45]. Xiaoqing (Maggie) Fu, Shelagh Heffernan, “The effects of reform on China‟s bank structure and 
performance”, Journal of Banking & Finance 33, pp. 39–52 (2009). 
[46]. Wahyoe Soedarmono, Fouad Machrouh, Amine Tarazi, “Bank market ower, economic growth 
and financial stability: Evidence from Asian banks”, Journal of Asian Economics 22, pp. 460–
470 (2011). 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_cac_yeu_to_tac_dong_den_hieu_qua_hoat_dong_cua_he.pdf