Phân tích các phương pháp và công nghệ chế tạo lớp bảo vệ nhiệt trong thiết bị bay

Tóm tắt: Đảm bảo cho các kết cấu tên lửa, thiết bị bay có khả năng làm việc ổn

định, đúng chức năng, dưới tác dụng của nhiệt độ cao là vấn đề khó khăn và phức

tạp. Các phương pháp bảo vệ nhiệt cơ bản như: nhiệt dung, cách nhiệt, vách hấp thụ

nhiệt, dẫn nhiệt.đã được giới thiệu, phân tích. Trên cơ sở đó đã chỉ ra các loại lớp

phủ cơ bản, thường được sử dụng để bảo vệ nhiệt cho các kết cấu của tên lửa và

thiết bị bay. Các yêu cầu đối với lớp phủ bảo vệ nhiệt này đã được tổng hợp; công

nghệ chế tạo chúng cũng đã được chỉ ra cụ thể.

pdf 8 trang phuongnguyen 6600
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích các phương pháp và công nghệ chế tạo lớp bảo vệ nhiệt trong thiết bị bay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích các phương pháp và công nghệ chế tạo lớp bảo vệ nhiệt trong thiết bị bay

Phân tích các phương pháp và công nghệ chế tạo lớp bảo vệ nhiệt trong thiết bị bay
Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 36, 04- 2015 167
PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO 
LỚP BẢO VỆ NHIỆT TRONG THIẾT BỊ BAY 
TRẦN NGỌC THANH 
Tóm tắt: Đảm bảo cho các kết cấu tên lửa, thiết bị bay có khả năng làm việc ổn 
định, đúng chức năng, dưới tác dụng của nhiệt độ cao là vấn đề khó khăn và phức 
tạp. Các phương pháp bảo vệ nhiệt cơ bản như: nhiệt dung, cách nhiệt, vách hấp thụ 
nhiệt, dẫn nhiệt....đã được giới thiệu, phân tích. Trên cơ sở đó đã chỉ ra các loại lớp 
phủ cơ bản, thường được sử dụng để bảo vệ nhiệt cho các kết cấu của tên lửa và 
thiết bị bay. Các yêu cầu đối với lớp phủ bảo vệ nhiệt này đã được tổng hợp; công 
nghệ chế tạo chúng cũng đã được chỉ ra cụ thể. 
Từ khóa: Công nghệ chế tạo máy, Công nghệ tên lửa, Lớp bảo vệ nhiệt. 
MỞ ĐẦU 
Trong quá trình hoạt động, các kết cấu của thiết bị bay bị nung nóng do tác động va 
đập khí động bên ngoài thân cánh, cũng như do tác động của dòng sản phẩm cháy bên 
trong động cơ phản lực. Tác động nung nóng khí động có thể làm nhiệt độ bề mặt của các 
chóp mũi, đầu cánh vượt quá nhiệt độ nóng chảy của tất cả các chất, nhiệt độ dòng sản 
phẩm cháy trong động cơ có thể lên đến 25003000 0C [1,3,4 ]. Để bảo đảm các kết cấu 
hoạt động ổn định, cần có các phương pháp bảo vệ nhiệt cho tên lửa và thiết bị bay. 
Các lớp bảo vệ nhiệt trong thiết bị bay có chức năng bảo đảm các kết cấu chịu lực có 
khả năng làm việc tin cậy đến một nhiệt độ nhất định. Mặc dù là vấn đề quan trọng, xong 
ở Việt Nam, thiết kế chế tạo lớp bảo vệ nhiệt cho tên lửa, thiết bị bay hiện nay vẫn còn rất 
nhiều điều mới mẻ. Bài báo này sẽ tập trung phân tích các phương pháp bảo vệ nhiệt có 
thể sử dụng cho thiết bị bay, các chủng loại lớp bảo vệ nhiệt và công nghệ chế tạo chúng 
trong thực tế. 
1. CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ NHIỆT 
Để bảo vệ nhiệt cho kết cấu thiết bị bay, thường sử dụng hai hệ thống bảo vệ nhiệt cơ 
bản: hệ thống bảo vệ nhiệt bị động và hệ thống bảo vệ nhiệt chủ động. 
Hệ thống bảo vệ nhiệt bị động sử dụng các môi chất công tác dạng lỏng hoặc khí để 
làm nguội cưỡng bức cho kết cấu cần bảo vệ nhiệt. Thuộc về hệ thống này điển hình có 
các phương pháp: làm nguội đối lưu; làm nguội bằng dẫn nhiệt. 
Phương pháp đối lưu được mô tả trên 
hình 1. Nhiệt bị hấp thụ vào vỏ bị nung 1 
rồi truyền vào chất lỏng (hoặc khí) làm 
nguội 2 nằm sát tới thành kết cấu cần 
được bảo vệ nhiệt 3. Trong hệ thống làm 
nguội đối lưu có thể là đối lưu kín và đối 
lưu không kín. Động cơ tên lửa nhiên liệu 
lỏng thường dùng hệ thống đối lưu không 
kín. Khi này chính nhiên liệu lỏng được sử 
dụng với tư cách là chất làm nguội, sau đó 
đi vào và cháy tại buồng đốt của động cơ. 
Hình 1. Sơ đồ làm nguội đối lưu: 
1- Vỏ bị nung, 2- Vhất lỏng làm nguội, 
3- Thành kết cấu được bảo vệ. 
Có thể sử dụng các chất làm nguội dạng khí (H2, He), dạng lỏng (nước, rượu). Để 
làm mát ở nhiệt độ cao, có thể sử dụng các kim loại ở dạng nóng chảy như (Na, Li) [5]. 
Phương pháp làm nguội bằng dẫn nhiệt có thể ở dạng làm nguội bốc hơi (hình 2.a) 
Tên lửa & Thiết bị bay 
Trần Ngọc Thanh, “Phân tích các phương pháp và công nghệ  thiết bị bay.” 168 
hoặc là màng nguội (hình 2.b). Phương pháp làm nguội bốc hơi có hiệu quả cao. Dưới tác 
dụng của áp suất nhất định, chất làm nguội 2 sẽ điền đầy vào các lỗ khoan của vỏ 1 và 
khoảng không gian giữa vỏ 1 với kết cấu cần được bảo vệ nhiệt 3. Khi đi qua các lỗ khoan, 
chất làm nguội sẽ thu hồi nhiệt từ bề mặt vỏ bị nung nóng, làm giảm cường độ trao đổi 
nhiệt giữa dòng khí nóng và vỏ bị nung. Nếu làm mát bằng chất lỏng, thì ẩn nhiệt chuyển 
pha khi nó bị bay hơi sẽ làm hấp thụ nhiệt. Lượng làm nguội được tính phụ thuộc vào 
lượng nhiệt hấp thụ. Một dạng của phương pháp làm nguội này được gọi là tự làm nguội. 
Trong đó, ví dụ điển hình là sử dụng lớp lót trong tiết diện tới hạn của loa phụt động cơ 
tên lửa nhiên liệu rắn từ volfram xốp. Các lỗ xốp này được điền đầy bằng các chất làm 
nguội như bạc, đồng, kẽm Khi có dòng sản phẩm khí cháy đi qua, các chất làm nguội 
nói trên sẽ bị chảy, bay hơi nên sẽ hấp thụ nhiệt vệ bảo đảm cho kết cấu của loa phụt làm 
việc ở nhiệt độ xác định [1, 3]. 
a, b, 
Hình 2. Sơ đồ làm nguội bốc hơi (a) và màng nguội (b): 
1- vỏ được khoan lỗ, 2- chất làm nguội, 3- kết cấu được bảo vệ nhiệt. 
Khi sử dụng màng nguội, thành kết cấu được bảo vệ nhiệt sẽ được cách ly khỏi dòng 
nóng bằng lớp (màng) khí lạnh. Màng lạnh thường được sử dụng như là cách bổ sung để 
bảo vệ nhiệt vỏ buồng đốt và loa phụt động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng [5]. 
Hệ thống bảo vệ nhiệt bị động sử dụng khả năng ngăn cản quá trình truyền nhiệt bằng 
dẫn nhiệt của một số chất (phương pháp cách nhiệt), hoặc sử dụng khả năng hấp thu nhiệt 
do tổ hợp quá trình lý – hóa của một số chất ở nhiệt độ cao (phương pháp nhiệt dung, 
phương pháp phủ bảo vệ nhiệt bị phá hủy). 
Phương pháp cách nhiệt, sử dụng vật liệu chế tạo các lớp phủ có độ dẫn nhiệt thấp. 
Phương pháp này chỉ được sử dụng khi dòng nhiệt tác động lên kết cấu không lớn. Vật 
liệu sử dụng phù hợp nhất khi này là nhựa xốp, bông hay vải thủy tinh. 
Phương pháp nhiệt dung được hình thành trên cơ sở tính hấp thụ và bị nung nóng nhiệt 
của vật liệu. Khi này, các vật liệu sẽ làm việc ở nhiệt độ thấp hơn điểm nóng chảy của 
chúng. Hiệu quả của phương pháp này càng cao, nếu như nhiệt dung riêng và nhiệt độ 
nóng chảy của vật liệu làm lớp bảo vệ càng cao. Phương pháp nhiệt dung riêng được sử 
dụng khi thời gian tác động của dòng nhiệt lên kết cấu ngắn, công suất không cao (thấp 
hơn 2,5.105W/m2). Việc bảo vệ nhiệt cho kết cấu có thể được thực hiện bằng một lớp phủ 
mỏng. Phương pháp này thường sử dụng để bảo vệ nhiệt các khoang khô của tên lửa hay 
các khí cụ bay [5, 6]. 
Lớp phủ bảo vệ nhiệt bị phá hủy bị mất dần lớp bề mặt để giữ chế độ nhiệt thuận lợi 
cho kết cấu cần được bảo vệ nhiệt. Lớp bề mặt bị phá hủy do kết quả các chuyển biến lý 
hóa khác nhau dưới tác động của dòng nhiệt. Hao hụt khối lượng của lớp phủ là do quá 
trình thăng hoa (nhựa gốc flo, polyetylen, ), nóng chảy (textolit thủy tinh, textolit 
amian), hay là các phản ứng hóa học (cốc hóa, graphit hóa, textolit). 
Lớp bảo vệ dạng tan mòn thuộc loại lớp bảo vệ nhiệt bị phá hủy. Lớp bảo vệ nhiệt này 
bị bào mòn nhiệt và bào mòn khối lượng khi bề mặt bị nung nóng. Trong các vật liệu của 
Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 36, 04- 2015 169
lớp bảo vệ nhiệt này có ẩn nhiệt nóng chảy, ẩn nhiệt bay hơi và các quá trình lý hóa khác 
dưới tác dụng nung nóng của dòng nhiệt. Kèm theo các quá trình đó là qúa trình hấp thụ 
nhiệt, sinh khí, phong tỏa dòng nhiệt và bào mòn lớp biên. Chiều dày của lớp bảo vệ nhiệt 
bị giảm dần như mô tả trên hình 3. 
a, b, 
Hình 3. Sơ đồ lớp bảo vệ nhiệt dạng tan mòn với dạng ban đầu (a) và bị bào mòn một 
phần lớp bảo vệ nhiệt (b): 
 1- lớp bảo vệ nhiệt, 2- kết cấu chịu lực, bđ – chiều dày ban đầu của lớp bảo vệ nhiệt, cl – 
chiều dày còn lại của lớp bảo vệ nhiệt. 
So với các phương pháp bảo vệ nhiệt khác, hệ thống bảo vệ nhiệt bị phá hủy có ưu 
điểm về đặc trưng khối lượng và công nghệ chế tạo. Phương pháp này thường được sử 
dụng để bảo vệ nhiệt cho kết cấu ốp che (chóp) trong các khoang của thiết bị bay, các kết 
cấu cần bảo vệ nhiệt trong động cơ nhiên liệu rắn [4, 8]. 
2. PHÂN LOẠI CÁC LỚP BẢO VỆ NHIỆT 
Các lớp bảo vệ nhiệt trên tên lửa và các thiết bị bay có thể được phân loại theo các dấu 
hiệu khác nhau. Theo vị trí: bảo vệ nhiệt bên ngoài, bảo vệ nhiệt bên trong; theo thành 
phần tổ chức có các lớp bảo vệ nhiêt dạng: đồng nhất, bột, len, được cốt hóa; theo chức 
năng có các lớp bảo vệ nhiệt: cách nhiệt, xuyên thấu điện từ, bền xói mòn 
Lớp phủ cách nhiệt sử dụng để bảo vệ các kết cấu của tên lửa và thiết bị bay trên phần 
quĩ đạo chủ động, bảo vệ các chi tiết bị nung dưới tác dụng của dòng khí cháy của động cơ. 
Nhiệt độ làm việc của lớp phủ này đến 15000C. Trong các lớp phủ cách nhiệt, thường sử 
dụng nhựa xốp, thủy tinh bọt, bọt côrundun, vải thủy tinh, bông thủy tinh... Tính chất của 
một vài vật liệu cách nhiệt được trình bày trong bảng 1. Các lớp phủ cách nhiệt mỏng (chiều 
dày khoảng 1-2 mm) chứa bột gỗ và chất kết dính là nhựa nhân tạo. Chúng được quét lên bề 
mặt kết cấu ở dạng bột nhão hay dạng nhũ tương. Nhựa xốp, thủy tinh bọt được phủ riêng 
lên bề mặt cần bảo vệ nhiệt. Bông thủy tinh có thể được sử dụng ở dạng MAT để phủ lên 
vùng cần bảo vệ nhiệt. Các lớp cách nhiệt được sử dụng để bảo vệ khoang đuôi, khoang thiết 
bị, nắp cửa, đáy thùng nhiên liệu, của tên lửa và thiết bị bay [3,6]. 
Bảng 1. Một vài tính chất của vật liệu cách nhiệt [4]. 
Vật liệu Khối 
lượng 
riêng, 
g/cm3 
Độ bền 
khi nén, 
MPa 
Mô đun 
đàn hồi, 
GPa 
Hệ số dẫn nhiệt, 
W/(m.K) 
Nhiệt dung riêng, 
kJ/(kg.K) 
Nhiệt độ sử 
dụng cực đại 
Nhựa xốp 0,020,8 0,027
0 
0,0017 0,020,6 
0,50,9 
373503 
Gốm xốp 0,22,5 80280 1040 0,0280 
0,12,5 
17733273 
Tên lửa & Thiết bị bay 
Trần Ngọc Thanh, “Phân tích các phương pháp và công nghệ  thiết bị bay.” 170 
Gốm sợi 
nhẹ 
0,08..0,45 0,042 0,015 
0,035 
0,040,02 
0,11,0 
1643.1873 
Lớp phủ cách nhiệt vách chân không là một dạng của lớp phủ cách nhiệt. Lớp phủ dạng 
này được phủ bên ngoài của thiết bị phóng, các khối, các khoang độc lập của thiết bị bay. 
Lớp phủ cách nhiệt vách chân không bao gồm các vách mỏng có khả năng phản xạ cao. 
Giữa các vách có thể có các lớp đệm có độ dẫn nhiệt thấp. Các vách mỏng được chế tạo từ 
các lá kim loại (nhôm, niken, titan) có chiều dày 0,010,02 mm, hoặc là từ màng phi 
kim (lapxan, polimid) có một hoặc cả hai mặt được phủ lớp phản xạ (nhôm, vàng). 
Lớp lót có độ dẫn nhiệt thấp được làm từ vải thủy tinh, từ các voan lưới mỏng. Phụ thuộc 
vào loại vật liệu được sử dụng mà các lớp phủ cách nhiệt vách chân không có thể làm việc 
ở dải nhiệt độ từ 2000C đến 10000C [1, 3]. 
Lớp phủ bảo vệ nhiệt xuyên thấu điện từ bảo đảm chức năng bảo vệ nhiệt và khả năng 
làm việc bình thường của các thiết bị thu phát sóng điện từ trong tên lửa. Chúng thường 
được chế tạo từ vật liệu compozit cốt vải cacbon nền polyme. Các lớp này thường dùng 
cho các ốp che anten của thiết bị bay [8]. 
Lớp phủ bền xói mòn được sử dụng để bảo vệ các kết cấu khỏi tác động của dòng khí 
cháy có các phần tử rắn. Các lớp này cũng được sử dụng để bảo vệ các chi tiết trong động 
cơ phản lực nhiên liệu rắn, đặc biệt là trong khối loa phụt. Các lớp phủ này thường được 
chế tạo từ vật liệu có tính đàn hồi cao (cao su), được cốt hóa bằng các vật liệu chịu nhiệt. 
Với tư cách là vật liệu nền, người ta sử dụng nhựa phenol –phormađehyl, phenol – 
furfural, cao su nitryl. Vật liệu cốt được sử dụng là: vải, lưới cacbon, một vài chất vô cơ, 
hữu cơ khác. 
Lớp phủ bảo vệ nhiệt dạng tan mòn thuộc về lớp phủ có công dụng chung. Chúng 
thường là vật liệu compozit. Trong đó vật liệu nền là nhựa tổng hợp, thường thấy nhất là 
phenol –phormađehyl (bakelit) và epoxy. Cốt thường dùng là sợi hay vải (amian, thạch 
anh, cacbon, graphit, kaprol, lapxan, polypropylen), các bột khó chảy của các ôxít, 
cacbít, nitrit, borit, bột gỗ, SiO2, ZrO, silicat. Tính chất của một số lớp phủ tan mòn được 
trình bày trong bảng 2. 
Bảng 2. Một số tính chất nhiệt lý của các lớp bảo vệ nhiệt dạng tan mòn [4]. 
Đặc trưng nhiệt lý Cốt vải 
thủy tinh 
nền nhựa 
phenol 
Cốt vải 
thủy tinh 
nền nhựa 
cơ silic 
Cột vải 
thủy tinh 
nền nhựa 
êpoxy 
Cốt vải amin 
nền nhựa phenol 
–phormađehyl 
Khối lượng riêng, 1.10-3 
kg/m3 
1,48 1,50 1,63 1,60 
Hệ số dẫn nhiệt ở 200C, 
W/(m.K) 
0,27 0,26 0,37 0,4 
Nhiệt dung riêng ở 
200C, kJ/(kg.K) 
1.05 0,88 1,10 1,55 
Để phủ bảo vệ nhiệt kết cấu chịu lực, cần tính chiều dày lớp phủ sao cho sau khi bị bào 
mòn, vẫn đủ bảo đảm khả năng bảo vệ nhiệt. Trong trường hợp chung, chiều dày bị bào 
mòn của lớp bảo vệ nhiệt được tính theo công thức [1]: 
 =


∫


,


 (1) 
trong đó: q- dòng nhiệt, - nhiệt độ tác dụng của dòng nhiệt, - khối lượng riêng của vật 
liệu bảo vệ nhiệt, Hh – entanpi hiệu dụng của vật liệu bảo vệ nhiệt (lượng nhiệt cần để bảo 
mòn một đơn vị khối lượng vật liệu bảo vệ nhiệt). 
Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 36, 04- 2015 171
Tổng chiều dày lớp bảo vệ nhiệt là:  =  + 
, với ′ là chiều dày bảo đảm khả năng 
làm việc (chịu nhiệt) của kết cấu. Trong thực tế, chiều dày lớp bảo vệ nhiệt có thể được 
xác định theo công thức bán thực nghiệm [3]: 
 =

g.
, (2) 
trong đó: Q- nhiệt lượng. 
Như vậy, để xác định chính xác chiều dày của lớp phủ chịu nhiệt, cần có đủ thông tin 
đầy đủ về dòng nhiệt và các ảnh hưởng của nó đến chế độ nhiệt của kết cấu cần được bảo 
vệ nhiệt. Các thông tin này thường được xác định theo phương pháp thực nghiệm [2]. 
3. CÔNG NGHỆ PHỦ CÁC LỚP BẢO VỆ NHIỆT 
3.1. Các yêu cầu cơ bản của lớp phủ bảo vệ nhiệt 
Các yêu cầu lớp bảo vệ nhiệt cho kết cấu tên lửa và thiết bị bay được trình bày trên 
bảng 3 [1,3,4,5,6]. Trong thực tiễn, không có vật liệu nào đáp ứng được toàn bộ các yêu 
cầu như vậy. Do đó, để bảo vệ nhiệt các kết cấu của tên lửa và thiết bị bay, người ta có thể 
sử dụng các lớp phủ khác nhau và có thể phối hợp chúng với nhau để bảo đảm thỏa mãn 
tốt nhât các yêu cầu cơ bản sau: có cùng thành phần trên bề mặt lớp phủ; khối lượng riêng 
của vật liệu không đổi;không tạo rỗ xốp, tách lớp; có khả năng gia công cơ và tự động hóa 
trong quá trình chế tạo. 
Bảng 3. Các yêu cầu đối với lớp bảo vệ nhiệt. 
STT Yêu cầu STT Yêu cầu 
1 Khối lượng riêng nhỏ 6 Độ bền, bền nhiệt đạt yêu cầu 
2 Độ dẫn nhiệt thấp 7 Mài mòn đồng đều theo bề mặt 
3 Nhiệt dung riêng cao 8 Không ăn mòn, xâm thực 
bề mặt kết cấu được bảo vệ 
4 Entanpi hiệu dụng phá hủy cao 9 Tính công nghệ tốt 
5 Khả năng sinh khí tốt 10 Không độc trong chế tạo 
3.2. Các phương pháp phủ và tạo hình lớp bảo vệ nhiệt 
Lớp bảo vệ nhiệt có thể được phủ trực tiếp hoặc tạo hình riêng trên khuôn rồi dán vào 
bề mặt kết cấu cần được bảo vệ. Tạo hình lớp bảo vệ nhiệt có thể được thực hiện bằng các 
công nghệ cơ bản như sau: công nghệ thủ công bằng tay, công nghệ ép, công nghệ lát và 
công nghệ quấn. 
Tạo hình lớp bảo vệ nhiệt bằng tay dùng cho các lớp phủ bảo vệ dạng cách nhiệt 
mỏng, từ nhựa xốp hay thủy tinh xốp. Dụng cụ có thể sử dụng là bay nhỏ hay súng phun 
tùy thuộc vào độ sệt ban đầu của vật liệu. Các nguyên công phủ lớp cách nhiệt trên cơ sở 
nhựa xốp bao gồm: chuẩn bị bề mặt kết cấu, chuẩn bị nguyên vật liệu để phủ, phủ hai lớp 
keo lên bề mặt kết cấu, nhựa xốp và vải lát mặt được sấy trong khoảng 20 phút, dán phôi 
nhựa xốp đợi 35 phút rồi phủ lớp keo thứ hai, sấy trong 24 giờ rồi kiểm tra chất lượng 
lớp cách nhiệt. Lớp cách nhiệt có thể được phủ bằng phương pháp phun huyền phù phối 
hợp với sấy khô trong khoảng thời gian 16 giờ ở nhiệt độ 1501700C. Huyền phù bao 
gồm từ hỗn hợp bột gỗ và nhựa bakelit БК-2. Chiều dày lớp phủ có thể đến 4 mm. Bên 
ngoài lớp phủ được bọc bằng lưới thủy tinh [3, 5]. 
Công nghệ ép được sử dụng để chế tạo các phần của lớp bảo vệ nhiệt, sau đó sẽ được 
ghép chặt lên kết cấu cần được bảo vệ. Quá trình chế tạo bảo vệ nhiệt bằng công nghệ này 
tương tự giống như quá trình ép chế tạo các chi tiết từ vật liệu compozit (xem hình 4). 
Tên lửa & Thiết bị bay 
Trần Ngọc Thanh, “Phân tích các phương pháp và công nghệ  thiết bị bay.” 172 
Hình 4. Công nghệ ép trực tiếp lớp 
bảo vệ nhiệt từ compozit cốt sợi thủy 
tinh dạng АГ-4В: 
1- tấm nung, 2- lớp bảo vệ nhiệt, 
3- khuôn, 4- ty đẩy, 5- phôi 
liệu ban đầu, 6- chày ép 
Các nguyên công cơ bản để tạo hình riêng lớp bảo vệ nhiệt theo công nghệ lát được 
trình bày trong bảng 4 [3, 5]. 
Bảng 4. Bảng tiến trình công nghệ lát chế tạo lớp bảo vệ nhiệt. 
STT Tên nguyên công STT Tên nguyên công 
1 Chuẩn bị cốt và nền 9 Chuẩn bị bề mặt thân vỏ (kết cấu) 
2 Cắt cốt vải và khâu phôi 10 Chuẩn bị keo 
3 Tẩm cốt vải và phôi 11 Phủ lớp keo lên thân vỏ, sấy khô 
4 Chuẩn bị khuôn 12 Phủ lớp đệm đàn hồi lên thân vỏ, sấy 
5 Lát phôi lên khuôn 13 Phủ một lớp keo 
6 Đóng rắn 14 Dán lớp bảo vệ nhiệt lên, sấy khô 
7 Kiểm tra chất lượng 15 Gia công cơ 
8 Tháo lớp phủ khỏi khuôn 16 Kiểm tra chất lượng 
Trong quá trình chuẩn bị, cốt vải cần được sấy khô, nhựa nền được pha trộn đến độ 
nhớt phù hợp. Cốt vải có thể được cắt, rồi khâu thành dạng bao phủ lên bề ngoài bề mặt 
của kết cấu. Quá trình tẩm cốt vải có thể tiến hành trước khi cắt và được thực hiện trên 
máy tẩm. Cốt vải sau tẩm cần có hàm lượng nhựa nền 30-55%, hàm lượng chất dễ bay hơi 
316%. Chuẩn bị bề mặt thân vỏ bao gồm phun cát (hoặc đánh giấy ráp), sau đó tẩy sạch 
dầu mỡ để làm sạch bề mặt. Đóng rắn lớp phủ được tiến hành trong lò nung ở nhiệt độ 
140160 0C. 
Các nguyên công cơ bản trong quá trình quấn chế tạo lớp bảo vệ nhiệt trên thân vỏ 
được trình bày trên bảng 5 [7]. 
Bảng 5. Tiến trình công nghệ quấn chế tạo lớp bảo vệ nhiệt. 
STT Tên nguyên công STT Tên nguyên công 
1 Chuẩn bị bề mặt thân vỏ 6 Đóng rắn 
2 Phủ lớp keo lót 7 Gia công cơ 
3 Phủ lớp đệm đàn hồi 8 Kiểm tra chất lượng lớp bảo vệ nhiệt 
4 Quấn các băng sợi 9 
Phủ lớp keo lót có thể tiến hành bằng phương pháp quấn băng keo dạng BK-3. Băng 
quấn thường được sử dụng là tectolit amian, băng sợi thủy tinh, sợi cacbon. Quá trình quấn 
được thực hiện trên máy quấn có chương trình điều khiển (xem hình 5). 
Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 36, 04- 2015 173
c, 
Hình 5. Công nghệ quấn lớp bảo vệ nhiệt: 
a- quấn trên khuôn quấn, b – quấn trực tiết trên kết cấu được bảo vệ, c- máy quấn tự động 
có 4 trục được điều khiển tự động;1- kết cấu cần được bảo vệ nhiệt hoặc khuôn quấn, 2- 
ngõng trục để kẹp trên máy quấn, 3 – con lăn quấn, 4 – lớp quấn, 5 vành công nghệ. 
Vận tốc quấn nằm trong khoảng 210 vòng/phút. Quá trình đóng rắn có thể tiến hành 
trực tiếp trên máy quấn bằng cách quay đều thân vỏ trong vùng chiếu tia hồng ngoại. Nhiệt 
độ nung vào khoàng 1350C với vận tốc quay 4 vòng/phút. Thời gian giữ nhiệt khỏang 
1520 phút cho 1 mm chiều dày lớp phủ. Quá trình đóng rắn cũng có thể được tiến hành 
trong lò nung [3,7]. 
Việc kiểm tra chất lượng lớp phủ bảo vệ thường bao gồm các nội dung: kiểm tra khối 
lượng riêng băng cân và đo đạc; kiểm tra các kích thước cơ bản, chiều dày lớp phủ; kiểm 
tra độ đồng nhất (xốp, tách lớp) bằng phương pháp siêu âm hay các phương pháp kiểm tra 
không phá hủy khác; xác định hàm lượng nền bằng phương pháp thiêu kết ở nhiệt độ 
khoảng 1000 0C; kiểm tra mức độ đóng rắn với yêu cầu độ polyme hóa không dưới 
9395%; kiểm tra độ bền khi kéo, uốn, nén[1,3,8]. 
4. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu thiết kế chế tạo lớp bảo vệ nhiệt cho các kết cấu trong tên lửa và thiết bị 
bay là vấn đề khá khó khăn và phức tạp. Trong thực tế vấn đề này bao gồm nhiều bài toán 
cần giải quyết: tính toán hoặc thực nghiệm xác định dòng nhiệt tác dụng lên kết cấu cần 
bảo vệ; lựa chọn phương án và vật liệu bảo vệ nhiệt; mô hình hóa quá trình làm việc của 
lớp bảo vệ nhiệt nhằm xác định được chiều dày tối ưu; chế tạo và kiểm tra thử nghiệm lớp 
bảo vệ nhiệt. 
Lớp bảo vệ nhiệt cho kết cấu của tên lửa, thiết bị bay chỉ được nghiên cứu thiết kế chế 
tạo thành công khi các phần nói trên được giải quyết toàn bộ và thống nhất. Vì vậy cần có 
sự đầu tư nghiên cứu đồng bộ, sự hợp tác của nhiều chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác 
nhau với thời gian liên tục và đủ dài. 
Nghiên cứu thành công lớp bảo vệ nhiệt phù hợp với khả năng trang thiêt bị hiện có 
trong nước và đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật của động cơ tên lửa nhiên liệu rắn cần chế 
tạo trong giai đoạn tới thực sự là một yêu cầu cấp bách hiện nay. 
Tên lửa & Thiết bị bay 
Trần Ngọc Thanh, “Phân tích các phương pháp và công nghệ  thiết bị bay.” 174 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ю. В. Полежаев, Ф. Б. Юревич “Теплова защита,” Издательство «Энерия» 1976 
г. 392с. 
[2]. Ю.В. Полежаев, С.В. Резник, А. Н. Баранов и др. “Материал и покрытия в 
экстремальных условиях. – Т.3. Экспериментальные исследования,” 
Издательство МГТУ им. Баумана, Москва 2002 г., - 264с. 
[3]. Е.А. Джур, С.И. Вдовин, Л.Д. Кучма и др. “Технология производства 
костисеских ракет,” Издательство ДГУ 1992 г. с. 82-88. 
[4]. В.А. Калинчев, Д.А. Ягодников, “Технологя производства ракетных двигателей 
твердого топлива,” Издательство МГТУ им. Баумана, Москва 2011 г. 687с. 
[5]. Воробей В.В., Логинов В.Е. “Технология производства жидкостных ракетных 
двигателей,” Учебникю-М.; Издательство МАИ, 2001 г. – 496с. 
[6]. Камалов В.С. “Производства костисеских аппаратов,” Издательство 
«Машинностроение», 1982 г. –280с. 
[7]. М.А. Комвков, В.А. Тарасов. “Технология намотки композитных конструкций 
ракет и средство поражения,” –М.: Изд-во МГТУ им. Н.Э.Баумана, 2011. -431с. 
[8]. И.Г. Грутовник, и др. “Радиопрозрачные изделия из стеклопластиков,” –М.: 
Изд-во «Мир». 2003. – 368с. 
ABSTRACT 
ANALYSIS OF METHODS AND MANUFACTURING TECHNOLOGIES OF 
THERMAL PROTECTION COATINGS IN FLYING EQUIPMENTS 
 To ensure that structures of missile and flying equipments can function stable 
and properly under the effect of high temperatures is a difficult and complex issue. 
Basic methods of thermal protection as heat capacity, thermal insulation, heat 
absorbing wall, thermal conductivityhas been introduced and analyzed. On that 
basis, the basic types of coatings, commonly used for thermal protection for the 
structure of missiles and flying equipments has been pointed out. The requirements 
for thermal protection coating have been synthesized and manufacturing 
technologies have been specified. 
Keywords: Mechanical engineering technology, Missile technology, Thermal protection coatings. 
Nhận bài ngày 20 tháng 9 năm 2014 
Hoàn thiện ngày 10 tháng 4 năm 2015 
Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 4 năm 2015 
Địa chỉ Phòng Công nghệ - Viện Tên lửa. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_cac_phuong_phap_va_cong_nghe_che_tao_lop_bao_ve_nh.pdf