Phân tầng mức sống giữa các nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa

Phường Cát Lái, quận 2 là một trong những cộng đồng dân cư có sự biến đổi

nhanh trong quá trình đô thị hóa của TPHCM. Kết quả phân tích định lượng cho

thấy, sau mười năm thu nhập bình quân đầu người ở cộng đồng dân cư phường

Cát Lái tăng cao, nhưng tỉ lệ chênh lệch mức sống giữa nhóm giàu và nhóm

nghèo hầu như không thay đổi. Quá trình đô thị hóa đã làm biến đổi cơ cấu dân

số, cơ cấu kinh tế và cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư, ảnh hưởng

đến cơ cấu thu nhập và chênh lệch mức sống giữa các nhóm dân cư. Các yếu

tố có tác động đến thu nhập của các cá nhân là trình độ tay nghề, học vấn và

giới tính.

pdf 10 trang phuongnguyen 3400
Bạn đang xem tài liệu "Phân tầng mức sống giữa các nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tầng mức sống giữa các nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa

Phân tầng mức sống giữa các nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
21 
PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA CÁC NHÓM DÂN CƯ 
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 
(Nghiên cứu trường hợp phường Cát Lái, quận 2, TPHCM) 
HÀ THÚC DŨNG 
LÊ THỊ MỸ 
Phường Cát Lái, quận 2 là một trong những cộng đồng dân cư có sự biến đổi 
nhanh trong quá trình đô thị hóa của TPHCM. Kết quả phân tích định lượng cho 
thấy, sau mười năm thu nhập bình quân đầu người ở cộng đồng dân cư phường 
Cát Lái tăng cao, nhưng tỉ lệ chênh lệch mức sống giữa nhóm giàu và nhóm 
nghèo hầu như không thay đổi. Quá trình đô thị hóa đã làm biến đổi cơ cấu dân 
số, cơ cấu kinh tế và cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư, ảnh hưởng 
đến cơ cấu thu nhập và chênh lệch mức sống giữa các nhóm dân cư. Các yếu 
tố có tác động đến thu nhập của các cá nhân là trình độ tay nghề, học vấn và 
giới tính. 
1. GIỚI THIỆU 
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã 
hội có thể coi là mục tiêu “kép” của sự 
phát triển bền vững mà nhiều quốc gia 
trên thế giới mong muốn. Song đây là 
bài toán khó không phải quốc gia nào 
cũng đạt được, bởi muốn thực hiện 
được mục tiêu đó cần giải quyết tốt 
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và 
đảm bảo sự công bằng và ổn định xã 
hội. Đô thị hóa là một quá trình đem 
lại nhiều thay đổi trong đời sống của 
cư dân. Gần 20 năm đô thị hóa của 
quận 2 đã làm thay đổi không gian đô 
thị, cơ cấu dân số, cơ cấu nghề 
nghiệp, dẫn tới thay đổi không gian xã 
hội và các mặt đời sống của dân cư 
trong quận. Nhiều mặt của đời sống 
xã hội đã được cải thiện, nhưng cũng 
có không ít vấn đề được đặt ra. Trong 
những vấn đề đó, cơ cấu xã hội và 
phân tầng xã hội được nhắc đến khá 
nhiều, thể hiện qua nhiều cuộc nghiên 
cứu mà Trung tâm Xã hội học (Viện 
Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) thực 
hiện trong những năm qua. Để có 
được cái nhìn xuyên suốt về quá trình 
phân tầng mức sống giữa các nhóm 
dân cư ở khu vực đô thị hóa, bài viết 
đi vào phân tích phân tầng mức sống 
giữa các nhóm dân cư hiện nay so với 
10 năm trước, đồng thời tìm hiểu các 
nhân tố ảnh hưởng đến việc phân 
tầng mức sống của người dân trong 
quá trình đô thị hóa ở các khu vực 
ngoại vi của TPHCM hiện nay. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để so sánh phân tầng mức sống giữa 
Hà Thúc Dũng. Thạc sĩ. Trung tâm Xã hội
học, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
Lê Thị Mỹ. Nghiên cứu viên. Trung tâm Xã 
hội học, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
HÀ THÚC DŨNG - LÊ THỊ MỸ – PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA| 
22
các nhóm dân cư trong 10 năm (2004 - 
2014), chúng tôi sử dụng phương 
pháp phân tích so sánh nhằm tìm ra 
mức độ chênh lệch về thu nhập và chi 
tiêu giữa các nhóm dân cư. Bài viết 
chủ yếu sử dụng nguồn số liệu từ hai 
cuộc khảo sát hộ gia đình tại phường 
Cát Lái. Cuộc khảo sát năm 2014 (Hà 
Thúc Dũng, 2014; Lê Thị Mỹ, 2014) đã 
thu thập thông tin bằng bảng hỏi đối 
với 300 hộ gia đình, trong đó có 109 
hộ gia đình trong cuộc khảo sát năm 
2004 (Trần Đan Tâm và cộng sự, 
2004) được nghiên cứu lặp lại và 191 
hộ gia đình được khảo sát mới hoàn 
toàn(1). 
Để tìm ra những yếu tố ảnh hưởng 
đến thu nhập của các cá nhân có việc 
làm, chúng tôi sử dụng phương pháp 
hồi quy tuyến tính phân tích những 
yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực 
đến thu nhập của họ. 
3. PHÂN TẦNG MỨC SỐNG NHÌN 
TỪ THU NHẬP VÀ CHI TIÊU CỦA 
HỘ GIA ĐÌNH 
3.1. Phân tầng mức sống từ cái nhìn 
so sánh 
Quá trình đô thị hóa một mặt đẩy 
nhanh sự phát triển kinh tế, tăng thu 
nhập cho các nhóm dân cư, mặt 
khác nó cũng có thể làm tăng 
khoảng cách thu nhập giữa các nhóm 
dân cư. Những gia đình nào có điều 
kiện thuận lợi thì dễ dàng nắm bắt 
được cơ hội thị trường, còn những hộ 
nào không có điều kiện sẽ có nguy cơ 
rơi vào nhóm nghèo của xã hội 
(Tương Lai, 1995; Hà Thúc Dũng, 
2009). 
Năm 2013, phường Cát Lái đã hoàn 
chỉnh hồ sơ đề nghị Thành phố phúc 
tra công nhận phường không còn hộ 
nghèo. Tuy nhiên, theo chuẩn nghèo 
mới của Ủy ban Nhân dân TPHCM 
Bảng 1. Bình quân thu nhập đầu người/tháng 
Phường Cát Lái TPHCM 
Năm 2004 Năm 2014 Năm 2004 Năm 2012* 
Bình quân 
thu nhập 
Số hộ 
Bình quân 
thu nhập 
Số hộ 
Bình quân 
thu nhập 
Bình quân 
thu nhập 
Nhóm 1 238.388 42 1235.760 60 430.080 1229.000 
Nhóm 2 350.063 42 1863.181 60 625.400 1960.000 
Nhóm 3 454.256 42 2391.934 60 870.000 2598.000 
Nhóm 4 653.288 42 3114.958 60 1219.000 3470.000 
Nhóm 5 1317.971 41 6282.473 60 2668.300 7716.000 
Bình quân chung 599.371 209 2977.661 300 1164.556 3399.600 
Mức chênh lệch 5,53 lần 5,08 lần 6,20 lần 6,27 lần 
* Do đến thời điểm hiện tại chưa có nguồn số liệu thống kê mới hơn nên chúng tôi sử dụng 
số liệu của Cục thống kê TPHCM xuất bản năm 2013. 
Nguồn: Hà Thúc Dũng, 2014; Trần Đan Tâm và cộng sự, 2004; Cục Thống kê 
TPHCM, 2013. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
23 
ban hành tháng 1/2014(2), khảo sát 
của chúng tôi cho thấy tại phường 
Cát Lái có khoảng 10,7% hộ nghèo 
và 15,3% hộ cận nghèo. So với cuộc 
khảo sát năm 2004, (tỷ lệ hộ nghèo 
chiếm 12,4% và có gần 58% số hộ có 
mức thu nhập dưới 500.000đ/người/ 
tháng – thuộc diện cận nghèo) thì tỷ lệ 
hộ nghèo và hộ cận nghèo ở phường 
Cát Lái sau 10 năm vẫn còn ở mức 
khá cao. 
Theo kết quả khảo sát năm 2014 tại 
phường Cát Lái (xem Bảng 1) thu 
nhập bình quân đầu người chung ở 
phường Cát Lái trong năm 2014 là 
2.977.661đ/người/tháng. Nếu so sánh 
với bình quân thu nhập chung của 
TPHCM trong năm 2012 khoảng 
3.399.000đ/người/tháng (Cục Thống 
kê TPHCM, 2013) thì người dân ở Cát 
Lái có mức thu nhập thấp hơn. 
Thu nhập bình quân đầu người của 
nhóm thấp nhất là 1.235.760đ/người/ 
tháng và của nhóm cao nhất là 
6.282.473đ/người/tháng. Sự chênh lệch 
thu nhập giữa nhóm cao nhất và 
nhóm thấp nhất là 5,08 lần. So sánh 
với năm 2004, mức chênh lệch thu 
nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm 
thấp nhất là 5,53 lần, thì có thể nói 
rằng, sau 10 năm dù thu nhập bình 
quân đầu người của phường có sự 
tăng lên đáng kể, nhưng khoảng cách 
chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu 
và nhóm nghèo gần như không thay 
đổi, tương tự tình hình chung của 
TPHCM sau 8 năm phát triển. 
3.2. Phân tầng mức sống nhìn từ chi 
tiêu hộ gia đình 
Kết quả khảo sát cho thấy, chi tiêu 
bình quân đầu người chung ở phường 
Cát Lái trong năm 2014 là 2.405.000đ/ 
người/tháng. Như vậy khi so sánh với 
bình quân chi tiêu chung ở TPHCM 
năm 2012 là 2.484.000đ/người/tháng 
thì mức chi tiêu ở Cát Lái cũng gần 
tương đương. Tuy nhiên, khoảng 
cách phân tầng trong chi tiêu của 
người dân ở phường Cát Lái thể hiện 
tương đối đều hơn giữa các nhóm có 
Biểu đồ 1. Chi tiêu của các nhóm cư dân ở phường Cát Lái và TPHCM qua các năm 
Nguồn: Hà Thúc Dũng, 2014; Cục Thống kê TPHCM, 2013. 
HÀ THÚC DŨNG - LÊ THỊ MỸ – PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA| 
24
mức sống khác nhau. Biểu đồ 1 cho 
chúng ta thấy sự chênh lệch chi tiêu 
từ nhóm 1 đến nhóm 4 tương đối đồng 
đều nhau, cứ mỗi nhóm cách nhau 
khoảng 500.000đ/người/tháng. Tuy 
nhiên, đến nhóm 5, nhóm có mức 
sống khá nhất thì khoảng cách chênh 
lệch chi tiêu nhảy vọt rất đáng kể. Ở 
nhóm thứ 4 có mức chi tiêu bình quân 
là 2.642.825đ/người/tháng nhưng đến 
nhóm thứ 5 thì mức chi tiêu tăng lên 
4.630.918đ/người/tháng, cao hơn nhóm 
4 khoảng 2.000.000đ/người/tháng. Nếu 
so sánh khoảng cách chênh lệch về 
chi tiêu giữa nhóm 1 và nhóm 5 thì 
chúng ta thấy rằng, những người có 
thu nhập cao nhất chi nhiều hơn nhóm 
nghèo là 4,36 lần, cao hơn khá nhiều 
so với mức chênh lệch giữa nhóm cao 
nhất và nhóm thấp nhất của toàn 
thành phố (3,6 lần). 
4. ĐÔ THỊ HÓA VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CƠ 
CẤU DÂN SỐ, CƠ CẤU VIỆC LÀM Ở 
CÁT LÁI 
4.1. Đô thị hóa và sự biến đổi cơ cấu 
dân số 
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, quá 
trình đô thị hóa tạo ra nhiều cơ hội 
việc làm ở đô thị, thu hút luồng di cư 
từ nông thôn đến đô thị. Trong nghiên 
cứu của mình, Lê Thanh Sang (2008) 
cho thấy đô thị hóa quá mức ở những 
thành phố lớn và sự thiếu hụt đất 
canh tác ở khu vực nông thôn đã tác 
động đến việc di dân từ nông thôn lên 
đô thị hoặc từ các đô thị nhỏ đến 
những đô thị lớn hơn. Tuy nhiên, kết 
quả khảo sát ở Cát Lái cho thấy xu 
hướng khác. Do quá trình đô thị hóa ở 
quận 2 diễn ra chậm hơn so với các 
quận nội thành nên quỹ đất còn nhiều. 
Những năm gần đây nhiều dự án phát 
triển nhà ở, khu công nghiệp được 
triển khai, nên bên cạnh việc thu hút 
một lượng người từ các tỉnh thành 
khác, tỷ lệ những người từ các quận 
nội thành chuyển về phường sinh 
sống và làm việc khá lớn. Chính điều 
này đã tạo nên sự biến đổi cơ cấu dân 
số của quận 2 nói chung và phường 
Cát Lái nói riêng. 
Kết quả khảo sát cho thấy, cả 3 khu 
phố ở Cát Lái đều có tỷ lệ người từ 
nơi khác chuyển đến tương đối cao 
như khu phố 2 có đến 42,9%, khu phố 
3 có 38,8% và khu phố 1 là 29,8%. 
Trong đó những người chuyển từ các 
quận nội thành của TPHCM về đây 
Bảng 2. Nơi sống trước khi chuyển đến phường Cát Lái chia theo địa bàn khảo sát 
Khu phố 1 Khu phố 2 Khu phố 3 
Số lượng % Số lượng % Số lượng % 
Sống tại đây từ khi sinh ra 73 70,2 56 57,1 60 61,2 
Nội thành TPHCM 19 18,3 36 36,7 19 19,4 
Ngoại thành TPHCM 4 3,8 1 1,0 1 1,0 
Khu vực thành thị của tỉnh khác 1 1,0 2 2,0 5 5,1 
Khu vực nông thôn của tỉnh khác 7 6,7 3 3,1 12 12,2 
Nguồn: Hà Thúc Dũng, 2014. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
25 
chiếm tỉ lệ khá cao: Khu phố 2 tỷ lệ hộ 
chuyển đến từ nội thành TPHCM là 
36,7%, từ các huyện ngoại thành chỉ 
có 1,0%, còn từ các tỉnh khác về là 
5,0%; Khu phố 1 có 18,3% chuyển 
đến từ các quận nội thành, 3,8% đến 
từ các huyện ngoại thành và 7,7% đến 
từ các tỉnh thành khác; Khu phố 3 tỷ lệ 
hộ đến từ các quận nội thành chiếm 
19,5%, từ khu vực nông thôn các tỉnh 
thành khác chiếm 12,2%. Đặc điểm 
riêng về biến đổi cơ cấu dân số của 
phường Cát Lái, như trên đã mô tả, 
chắc chắn sẽ tạo ra những ảnh hưởng 
lâu dài về kinh tế - xã hội tại địa bàn. 
4.2. Đô thị hóa và sự biến đổi cơ cấu 
nghề nghiệp của cộng đồng dân cư 
Nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra 
rằng, những khu vực có quá trình đô 
thị hóa nhanh thì sự dịch chuyển nghề 
nghiệp của người lao động đa dạng 
hơn. Trong đó, những địa bàn có tốc 
độ đô thị hóa cao sẽ làm giảm nhanh 
tỷ lệ người làm nông nghiệp, tăng 
nhanh những người làm trong lĩnh 
vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ 
(Tương Lai, 1995; Hà Thúc Dũng, 
2009). Hơn nữa, trong quá trình đô thị 
hóa thì những cá nhân nào có vốn xã 
hội tốt sẽ thuận lợi hơn trong việc nắm 
bắt các cơ may mà thị trường mang 
lại, nhất là trong việc chuyển đổi nghề 
nghiệp và tăng thu nhập. Ngược lại, 
những cá nhân nào học vấn thấp, 
trình độ tay nghề không có thì khả 
năng chuyển đổi nghề nghiệp gặp 
nhiều khó khăn dẫn đến nguy cơ thiếu 
việc làm, hoặc phải làm những công 
việc nặng nhọc nhưng thu nhập lại 
thấp (Văn Ngọc Lan, 2009). Kết quả 
khảo sát ở phường Cát Lái cũng cho 
thấy điều này. 
Cơ cấu nghề nghiệp của các chủ hộ 
vào năm 2004 và năm 2014 có sự 
chuyển biến rõ nét. Năm 2004, có đến 
14,2% chủ hộ làm nông nghiệp nhưng 
tỷ lệ này giảm dần qua các năm, năm 
2009 còn 6,3% và đến năm 2014 chỉ 
còn 4,1%. Tại thời điểm năm 2004, 
ngoài nhóm nghề nông nghiệp, các 
nhóm nghề nghiệp khác cũng thu hút 
đông đảo lao động là chủ hộ: lao động 
giản đơn (19,6%); dịch vụ, bán hàng 
(13,5%); thợ thủ công có kỹ thuật 
(11,7%) và thợ có kỹ thuật vận hành 
lắp ráp máy móc, thiết bị (công nhân 
trong các nhà máy, xí nghiệp) (12,2%). 
Vào năm 2014, các khu vực nghề 
nghiệp có chiều hướng tăng lên là các 
nghề thuộc nhóm có chuyên môn kỹ 
thuật bậc cao trong các lĩnh vực 
(chiếm 4,8% năm 2004, 8,3% năm 
2014), và nhóm nghề dịch vụ cá nhân, 
bán hàng (13,5% năm 2004, 20,4% 
năm 2014). Nhóm nghề có xu hướng 
giảm là nhóm lao động giản đơn 
(19,6% năm 2004, còn 15,7% năm 
2014). 
Xem xét nghề nghiệp của các cá nhân 
trong độ tuổi lao động vào năm 2004 
và 2014 (tính trên số người hiện nay 
từ 25-60 tuổi)(3), chúng tôi nhận thấy 
sau 10 năm, cơ cấu việc làm của cộng 
đồng dân cư phường Cát Lái có sự 
biến động nhất định. Một bộ phận lao 
động giản đơn và nông nghiệp đã 
dịch chuyển sang các nhóm nghề 
dịch vụ, công nhân, thợ có tay nghề 
kỹ thuật. Các nhóm nghề nghiệp có 
sự thay đổi nhiều nhất là nhóm học 
HÀ THÚC DŨNG - LÊ THỊ MỸ – PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA| 
26
sinh, sinh viên; nhóm dịch vụ, bán 
hàng và nhóm nghề nông nghiệp. Các 
nhóm nghề nghiệp gia tăng vào thời 
điểm năm 2014 có một vài ngành 
nghề đòi hỏi trình độ học vấn và tay 
nghề cao như nhóm nghề lãnh đạo 
trong các công ty, chuyên môn kỹ 
thuật bậc cao trong các lĩnh vực và 
các nhóm nghề thuộc nhân viên dịch 
vụ, bán hàng; thợ vận hành máy móc 
thiết bị trong các nhà máy, công ty, xí 
nghiệp (xem Bảng 3). 
Đô thị hóa mang lại cho người lao 
động nhiều cơ hội di động nghề 
nghiệp trong xã hội. Cụ thể đối với 
nhóm đang đi học (học sinh, sinh viên) 
của năm 2004, thì vào năm 2014 phần 
lớn đã chuyển sang làm việc ở khu 
vực kinh tế chính thức, tập trung vào 
các nhóm nghề chuyên môn kỹ thuật 
bậc cao (21,4%), công nhân trong các 
nhà máy xí nghiệp, dịch vụ và bán 
hàng (19,4%), hay nhóm nghề chuyên 
môn bậc trung hoặc nhân viên văn 
phòng (17,3%). Số người chuyển 
sang nhóm lao động giản đơn rất thấp 
(4,1%). Điều này cho thấy đã có 
những tín hiệu khả quan về sự đi lên 
của chất lượng nguồn nhân lực của 
cộng đồng. Mở rộng ra trong cái nhìn 
toàn cảnh của thành phố, cũng thấy 
sự đi lên này. Theo số liệu nghiên cứu 
năm 2009 của Văn Thị Ngọc Lan có 
đến 15% trong nhóm học sinh, sinh 
viên ở các cộng đồng mới đô thị hóa 
của TPHCM (Bình Lợi, Tân Tạo A, Bà 
Điểm) sau khi nghỉ học đã làm việc ở 
khu vực kinh tế phi chính thức (làm 
mướn). 
Với nhóm thất nghiệp và nội trợ năm 
Bảng 3. Cơ cấu nghề nghiệp của cư dân trong tuổi lao động năm 2004 và 2014 (tính 
trên số người hiện nay 25 - 60 tuổi) 
Nhóm nghề Năm 2004 (%) Năm 2014 (%) 
Nghỉ hưu, mất khả năng lao động 1,4 5,6 
Thất nghiệp, không có việc làm 5,8 4,1 
Đang đi học 14,2 0,6 
Nội trợ 7,3 8,3 
Các nhà lãnh đạo trong các ngành, công ty 0,1 1,6 
Chuyên môn kỹ thuật bậc cao trong các lĩnh vực 4,0 8,3 
Chuyên môn kỹ thuật bậc trung trong các lĩnh vực 2,2 2,9 
Nhân viên (chuyên môn sơ cấp, văn phòng) 2,7 4,3 
Nhân viên dịch vụ, bảo vệ an ninh xã hội, bán hàng 10,9 19,5 
Lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp 7,8 1,9 
Thợ thủ công có kỹ thuật 10,3 11,1 
Thợ có kỹ thuật lắp ráp và vận hành máy móc 10,1 13,4 
Lao động giản đơn 15,7 16,5 
Lực lượng quân đội 2,9 1,9 
Không biết, không rõ 4,6 
Nguồn: Lê Thị Mỹ, 2014. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
27 
2004 (91 trường hợp), vào thời điểm 
năm 2014 đã có chuyển biến tích cực 
về việc làm: 25,0% trong số này làm 
công nhân hay thợ có tay nghề; 
20,0% làm lao động giản đơn và 
17,5% làm buôn bán nhỏ, dịch vụ cá 
nhân hay trật tự xã hội. Tuy nhiên, vẫn 
còn 17,5% cá nhân trong tình trạng 
không có việc làm (thất nghiệp và nội 
trợ). 
Sự chuyển đổi nghề nghiệp của người 
lao động có mối quan hệ với biến 
động đất đai. Các nghiên cứu trước 
đây về khu vực ven đô vùng mới đô 
thị hóa của TPHCM (Trần Đan Tâm, 
Nguyễn Vi Nhuận, 2001; Văn Thị 
Ngọc Lan, 2009) đều cho thấy mối 
quan hệ này. Bởi cơ cấu kinh tế - xã 
hội thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi 
của những mối quan hệ xã hội và cơ 
cấu giai tầng xã hội (số lượng nông 
dân giảm trong khi số lượng công 
nhân tăng). Dưới tác động của chính 
sách phát triển kinh tế - xã hội của 
quận 2, diện tích đất nông nghiệp của 
quận nói chung và của phường Cát 
Lái nói riêng bị thu hẹp dần. Hiện nay, 
diện tích nông nghiệp của quận chỉ 
chiếm 14,96% (750,82ha) trong tổng 
diện tích đất toàn quận. Phường Cát 
Lái là một trong bốn phường của quận 
2 có diện tích đất nông nghiệp giảm 
nhanh. Năm 2005, diện tích đất nông 
nghiệp của phường là 95ha, đến năm 
2012 chỉ còn lại 6,2ha. Do đó, lao 
động trong nông nghiệp giảm đáng kể 
và dịch chuyển sang các ngành nghề 
khác. Đối với nhóm lao động làm nông 
nghiệp của năm 2004 (74 trường hợp), 
đến thời điểm khảo sát năm 2014, 
nhìn chung đã có sự chuyển dịch với 
các ngành nghề khá đa dạng, như làm 
dịch vụ và buôn bán (21,9%), lao động 
giản đơn (18,1%), một bộ phận quá 
tuổi lao động và làm nội trợ. 
Kết quả khảo sát 696 người trong độ 
tuổi lao động (25 - 60 tuổi) cho thấy có 
đến 34,5% cá nhân có thay đổi việc 
làm trong 5 năm qua. Ở đây, yếu tố 
tuổi có ảnh hưởng đến tính ổn định 
hay sự chuyển đổi nghề nghiệp của 
người lao động. Người lao động ở 
nhóm tuổi thấp (25 - 34 tuổi) có tỷ lệ 
thay đổi việc làm cao hơn người lao 
động ở nhóm tuổi cao (40,9%). Người 
lao động tuổi càng cao càng có xu 
hướng ít thay đổi việc làm do tác động 
của độ ổn định công việc và tính chọn 
lọc của thị trường lao động. 
Kết quả phân tích cũng ghi nhận yếu 
tố học vấn có tác động đến sự thay 
đổi việc làm của người lao động. Sự 
thay đổi việc làm xảy ra phần lớn ở 
người lao động có trình độ học vấn 
tương đối cao và có tương quan với 
các cấp học vấn (ở cấp 2: 24,7%, cấp 
3: 25,9%, và cao đẳng - đại học: 21,3%). 
Những người có học vấn cao và tuổi 
trung bình tương đối thấp (25 - 39 tuổi) 
thường có cơ hội làm các công việc 
có chuyên môn, có tay nghề và làm 
công nhân. Ngược lại, những người 
có trình độ học vấn thấp và tuổi cao 
(40 - 60 tuổi) thường làm dịch vụ, 
buôn bán, lao động giản đơn hay làm 
nông nghiệp. 
Nhìn chung, sự chuyển đổi nghề 
nghiệp của cộng đồng dân cư phường 
Cát Lái chưa thể hiện xu hướng di 
HÀ THÚC DŨNG - LÊ THỊ MỸ – PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA| 
28
động theo chiều dọc rõ rệt. Sự di động 
nghề nghiệp chủ yếu vẫn là di động 
theo chiều ngang giữa các nhóm 
ngành nghề không đòi hỏi trình độ 
chuyên môn và học vấn cao. Tuy 
nhiên, một tỷ lệ nhỏ người lao động 
đã có bước thăng tiến trong bậc thang 
giai tầng xã hội xét theo tiêu chí nghề 
nghiệp. Đó là từ nông dân, lao động 
giản đơn – tầng lớp thấp nhất - chuyển 
sang lao động dịch vụ, buôn bán, thợ 
có kỹ thuật, công nhân – tầng lớp có 
thu nhập cao hơn hoặc trung lưu. 
5. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG 
ĐẾN THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO 
ĐỘNG 
Để tìm hiểu những yếu tố tác động 
đến thu nhập của các cá nhân có việc 
làm, chúng tôi sử dụng phương pháp 
phân tích hồi qui tuyến tính (xem Bảng 
4). 
Trong mô hình này, biến phụ thuộc là 
thu nhập của cá nhân có việc làm 
trong 12 tháng qua. Ba biến độc lập 
được đo lường như sau: giới tính (nữ 
= 1 và nam = 0); học vấn tính theo 
năm đi học; trình độ tay nghề (0 = 
không có tay nghề; 1 = việc làm cần 
một ít tay nghề; 2 = việc làm có tay 
nghề bậc trung; 3 = việc làm có tay 
nghề bậc cao). 
Kết quả từ mô hình hồi qui cho thấy 3 
biến số về mức học vấn, giới tính và 
trình độ tay nghề có thể giải thích gần 
29% trong tổng số biến thiên thu nhập 
của các cá nhân. Trong đó yếu tố trình 
độ tay nghề ảnh hưởng mạnh nhất 
đến thu nhập của người lao động 
(Beta = 0,281) và có ý nghĩa về mặt 
thống kê (0,000). Kế đến là trình độ 
học vấn cũng ảnh hưởng tích cực đối 
với thu nhập của người lao động 
(Beta = 0,194, mức ý nghĩa = 0,000). 
Riêng biến giới tính ảnh hưởng nghịch 
chiều với thu nhập của cá nhân, nam 
giới có thu nhập cao hơn nữ giới 
(Beta = - 0,146 và mức ý nghĩa = 
0,001). 
Như vậy, những cá nhân nào có trình 
độ học vấn cao, trình độ chuyên môn 
giỏi thì có nhiều khả năng nắm giữ 
những công việc quan trọng và có thu 
nhập cao, còn những người nào học 
vấn thấp, trình độ tay nghề không có 
thì sẽ làm những công việc nặng nhọc 
và thu nhập thấp. Ngoài ra, sự bất 
bình đẳng thu nhập giữa nam giới và 
nữ giới vẫn còn khá cao ở địa bàn. 
Bình quân thu nhập của nam giới có 
việc làm là 5.535.820 đồng, trong khi 
Bảng 4. Mô hình phân tích hồi quy tuyến tính về thu nhập của người lao động có việc 
làm 
Biến số 
Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Hệ số hồi quy chuẩn hóa 
Mức ý nghĩa 
B Sai số chuẩn Beta 
Giới tính -0,167 0,088 -0,146 0,001 
Lớp đã học 0,190 0,034 0,194 0,000 
Trình độ tay nghề 0,118 0,046 0,281 0,000 
R2 = 0,29, n = 623 
Nguồn: Hà Thúc Dũng, 2014. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
29 
của nữ là 4.138.699 đồng, chỉ bằng 
74,7% thu nhập của nam. 
KẾT LUẬN 
Từ những kết quả phân tích dữ liệu 
trên, chúng tôi có thể đưa ra một số 
kết luận như sau: Thứ nhất, quá trình 
đô thị hóa đã làm biến đổi cơ cấu dân 
số, cơ cấu kinh tế và cơ cấu nghề 
nghiệp của cư dân phường Cát Lái, 
ảnh hưởng đến sự chênh lệch mức 
sống giữa các nhóm dân cư. Sau 
mười năm thu nhập bình quân đầu 
người ở Cát Lái tăng đáng kể, nhưng 
sự chênh lệch mức sống giữa nhóm 
giàu và nhóm nghèo hầu như không 
thay đổi. Thứ hai, trình độ tay nghề, 
học vấn và giới tính là ba nhân tố tác 
động mạnh đến thu nhập của các cá 
nhân có việc làm ở địa bàn khảo sát. 
Quá trình đô thị hóa, dù có mở ra 
nhiều cơ hội việc làm và thu nhập, thì 
vẫn đang là nguyên nhân đẩy một bộ 
phận cư dân có trình độ học vấn thấp 
và không có tay nghề rơi vào nhóm 
nghèo của xã hội. Điều này đòi hỏi 
chính quyền phải có những bước đi 
đồng bộ về chính sách xã hội trong 
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa 
và hiện đại hóa.  
CHÚ THÍCH 
(1) Bài viết sử dụng nguồn số liệu của các đề tài nghiên cứu sau: 
Hà Thúc Dũng. Đề tài cấp viện 2014. Phân tầng mức sống của cộng đồng dân cư TPHCM 
trong quá trình đô thị hóa (Nghiên cứu trường hợp phường Cát Lái, quận 2). Viện Khoa học 
xã hội vùng Nam Bộ. 
Lê Thị Mỹ. Đề tài cấp viện 2014. Biến đổi cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư 
TPHCM trong quá trình đô thị hóa (Nghiên cứu trường hợp phường Cát Lái, quận 2). Viện 
Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
(Xem thêm bài Biến đổi xã hội trong tiến trình đô thị hóa tại quận 2, TPHCM - nhìn từ các số 
liệu thống kê của Trần Đan Tâm và Nguyễn Thị Cúc Trâm cùng trong số tạp chí này). 
Trần Đan Tâm và cộng sự. 2004. Khảo sát tình hình kinh tế xã hội ở cộng đồng dân cư 
phường Cát Lái, quận 2, TPHCM. Trung tâm Xã hội học, Viện Khoa học xã hội tại TPHCM. 
(2) Chuẩn nghèo dưới dưới 16.000.000đ/người/năm là hộ nghèo, từ 16.000.000đ/người/năm 
đến dưới 21.000.000đ/người/năm là hộ cận nghèo. 
(3) Chúng tôi chọn các cá nhân từ 25 đến 60 tuổi để phân tích sự biến đổi nghề nghiệp của 
cộng đồng dân cư Cát Lái trong 10 năm (2004 - 2014). Bởi vì, đối với những người trong 
năm 2014 được 25 tuổi thì trước đó 10 năm – năm 2004 - họ được 15 tuổi, bắt đầu bước 
vào tuổi lao động; còn những người 60 tuổi trở xuống thì hiện nay đang trong độ tuổi lao 
động. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Cục Thống kê TPHCM. 2013. Niên giám thống kê TPHCM. 
2. Hà Thúc Dũng. 2009. Bất bình đẳng thu nhập giữa các nhóm dân cư trong quá trình 
độ thị hóa. Luận văn thạc sĩ. 
3. Hà Thúc Dũng. Đề tài cấp viện 2014. Phân tầng mức sống của cộng đồng dân cư 
HÀ THÚC DŨNG - LÊ THỊ MỸ – PHÂN TẦNG MỨC SỐNG GIỮA| 
30
TPHCM trong quá trình đô thị hóa (Nghiên cứu trường hợp phường Cát Lái, quận 2). 
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
4. Lê Thanh Sang. 2008. Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới 
1979 - 1989 và 1989 - 1999. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
5. Lê Thị Mỹ. Đề tài cấp viện 2014. Biến đổi cơ cấu nghề nghiệp của cộng đồng dân cư 
TPHCM trong quá trình đô thị hóa (Nghiên cứu trường hợp phường Cát Lái, quận 2). 
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
6. Trần Đan Tâm và cộng sự. 2004. Khảo sát tình hình kinh tế - xã hội ở cộng đồng dân 
cư phường Cát Lái, quận 2, TPHCM. Trung tâm Xã hội học, Viện Khoa học xã hội tại 
TPHCM (nay là Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ). 
7. Trần Đan Tâm và Nguyễn Vi Nhuận. 2000. Những biến đổi xã hội ở vùng ven đô 
TPHCM dưới áp lực đô thị hóa. Tạp chí Xã hội học, số 1/2000. 
8. Tương Lai. 1995. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã 
hội. 
9. Văn Thị Ngọc Lan. 2009. Cộng đồng cư dân ngoại thành TPHCM trong quá trình đô 
thị hóa. Luận án tiến sĩ, Viện Xã hội học, Hà Nội. 
10. Ủy ban Nhân dân phường Cát Lái. 2013. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát 
triển kinh tế - xã hội năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014. 
11. Ủy ban Nhân dân TPHCM. 2014. Quyết định số: 03/2014/QĐ-UBND Ban hành 
chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo thành phố áp dụng cho giai đoạn 2014 - 2015. 

File đính kèm:

  • pdfphan_tang_muc_song_giua_cac_nhom_dan_cu_trong_qua_trinh_do_t.pdf