Phân rã năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam theo loại hình sở hữu

Nghiên cứu áp dụng phân rã mở rộng của phân rã động của Olley - Pakes được đề xuất bởi Melitz

và Polanec (2015) cho nhiều nhóm doanh nghiệp để tính toán đồng thời hiệu quả phân bổ trong một nhóm và giữa các nhóm chia theo loại hình sở hữu, ngoài ra còn tính toán sự đóng góp của các doanh

nghiệp sống sót, gia nhập và rút lui đến sự thay đổi năng suất gộp của ngành. Sử dụng số liệu cấp độ doanh

nghiệp của ngành chế tác của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2016, kết quả tính toán cho thấy ảnh hưởng

giữa các nhóm loại hình sở hữu là tiêu cực trong tất cả các năm nghiên cứu. Trong giai đoạn nghiên cứu,

hiệu quả phân bổ bên trong nhóm của các doanh nghiệp nhà nước là lớn nhất; các doanh nghiệp gia nhập

có đóng góp âm còn các doanh nghiệp rút lui có đóng góp dương đến năng suất gộp đối với cả ba nhóm sở

hữu trong đó sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI gia nhập là nhỏ nhất.

pdf 9 trang phuongnguyen 6360
Bạn đang xem tài liệu "Phân rã năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam theo loại hình sở hữu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân rã năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam theo loại hình sở hữu

Phân rã năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam theo loại hình sở hữu
1. Đặt vấn đề 
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là năng suất 
trung bình có trọng số ở cấp độ doanh nghiêp. Tăng 
trưởng TFP luôn là chủ đề nhận được nhiều sự quan 
tâm của các nghiên cứu. Các nghiên cứu gần đây 
đưa ra quan điểm rằng sự phân bổ nguồn năng suất 
giữa các doanh nghiệp hay giữa các ngành là một lý 
do chính dẫn đến sự tăng trưởng TFP gộp (Restuccia 
và Rogerson, 2008, Hsieh và Klenow, 2009, 
Bartelsman và cộng sự, 2013, Collard-Wexler và De 
Loecker, 2015). Họ lập luận rằng sự thay đổi trong 
các nguồn lực sản xuất từ nơi kém hiệu quả đến nơi 
hiệu quả hơn làm tăng TFP gộp và hiệu quả phân bổ 
nguồn lực là rất quan trọng để giải thích sự tăng 
trưởng TFP gộp của các ngành, các quốc gia. Điều 
này còn được giải thích do sự năng động của các 
doanh nghiệp có thể tối ưu hóa phân bổ nguồn lực 
và do đó thúc đẩy năng suất (Hopenhayn, 1992, 
Ericson và Pakes, 1995). Sự năng động của doanh 
nghiệp chính là đề cập đến các quá trình tiến hóa của 
doanh nghiệp trong thị trường bao gồm sự gia nhập, 
tăng trưởng và rút lui. Các doanh nghiệp với năng 
suất thấp ít có khả năng sống sót và phát triển hơn 
các đối thủ hiệu quả của họ. Như một hệ quả, các 
doanh nghiệp năng suất hơn sẽ được hưởng nhiều 
thị phần hơn thông qua hoặc thị phần thị trường thay 
đổi giữa các doanh nghiệp đương nhiệm hoặc thông 
qua sự gia nhập và rút lui. Các nghiên cứu thực 
nghiệm trải rộng trên nhiều quốc gia khác nhau, 
nhiều ngành và các khoảng thời gian đã chỉ ra rằng 
cơ chế này là một chất xúc tác quan trọng của sự 
thay đổi năng suất tổng hợp. 
Vì vậy phát triển một thước đo phù hợp của hiệu 
quả phân bổ và việc điều tra lý thuyết cũng như thực 
nghiệm về các nguồn gây ra phân bổ lệch là rất quan 
trọng để thực hiện các chính sách kinh tế tốt hơn. Và 
để làm rõ nguồn gốc của tăng trưởng năng suất, một 
vài phương pháp được khám phá để phân rã năng suất 
tổng hợp thành các thành phần khác nhau bao gồm 
ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp, ảnh hưởng giữa 
các doanh nghiệp, ảnh hưởng của các doanh nghiệp 
gia nhập và ảnh hưởng của các doanh nghiệp rút lui 
(Baily và cộng sự, 1992, Griliches và Regev, 1995, 
Foster và cộng sự, 2001, Melitz và Polanec, 2015). 
57
?
Sè 130/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
PHÂN RÃ NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ PHÂN BỔ 
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH CHẾ TÁC 
CỦA VIỆT NAM THEO LOẠI HÌNH SỞ HỮU 
Vũ Thị Huyền Trang 
Trường Đại học Thương mại 
Email: trang.vth@tmu.edu.vn
Ngày nhận: 15/04/2019 Ngày nhận lại: 16/05/2019 Ngày duyệt đăng: 28/05/2019 
Nghiên cứu áp dụng phân rã mở rộng của phân rã động của Olley - Pakes được đề xuất bởi Melitz và Polanec (2015) cho nhiều nhóm doanh nghiệp để tính toán đồng thời hiệu quả phân bổ trong một 
nhóm và giữa các nhóm chia theo loại hình sở hữu, ngoài ra còn tính toán sự đóng góp của các doanh 
nghiệp sống sót, gia nhập và rút lui đến sự thay đổi năng suất gộp của ngành. Sử dụng số liệu cấp độ doanh 
nghiệp của ngành chế tác của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2016, kết quả tính toán cho thấy ảnh hưởng 
giữa các nhóm loại hình sở hữu là tiêu cực trong tất cả các năm nghiên cứu. Trong giai đoạn nghiên cứu, 
hiệu quả phân bổ bên trong nhóm của các doanh nghiệp nhà nước là lớn nhất; các doanh nghiệp gia nhập 
có đóng góp âm còn các doanh nghiệp rút lui có đóng góp dương đến năng suất gộp đối với cả ba nhóm sở 
hữu trong đó sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI gia nhập là nhỏ nhất.
Từ khóa: phân rã năng suất, hiệu quả phân bổ, doanh nghiệp sống sót, doanh nghiệp gia nhập, doanh 
nghiệp rút lui.
?Tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ đánh giá được 
tất cả các ảnh hưởng đó ở trong một nhóm các doanh 
nghiệp và chưa đo lường được hiệu quả phân bổ 
giữa các nhóm. Chính vì vậy, nghiên cứu này đã áp 
dụng mở rộng của phân rã năng suất động cho nhiều 
nhóm doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam 
trong giai đoạn từ 2010 - 2016, cụ thể các doanh 
nghiệp ngành chế tác được chia thành ba nhóm theo 
loại hình sở hữu gồm các doanh nghiệp nhà nước 
(DNNN), các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và các 
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 
(DNFDI) để thấy rõ ảnh hưởng của các doanh 
nghiệp đang tồn tại, các doanh nghiệp gia nhập và 
các doanh nghiệp rút lui trong từng loại hình sở hữu 
đến năng suất tổng hợp và thấy được ảnh hưởng 
giữa ba nhóm loại hình sở hữu này. Bài viết được bố 
cục thành 5 phần. Phần 2 trình bày cơ sở lý luận và 
tổng quan nghiên cứu, phần 3 trình bày phương 
pháp nghiên cứu, phần 4 phân tích và thảo luận kết 
quả nghiên cứu và phần 5 là kết luận và hướng tiếp 
tục nghiên cứu. 
2. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu 
Khi mà quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp trở 
nên đạt hiệu quả kỹ thuật, vấn đề về hiệu quả phân 
bổ sẽ phát sinh (Chukwuji và cộng sự, 2006). Cũng 
có rất nhiều cách xem xét khác nhau về hiệu quả 
phân bổ. Nhưng với mục đích tập trung vào nghiên 
cứu sâu hiệu quả phân bổ và các vấn đề liên quan, 
trong các nghiên cứu gần đây, có hai loại độ đo thực 
nghiệm của hiệu quả phân bổ được sử dụng: 
- Sự phân tán của năng suất cấp độ doanh nghiệp 
(Hsieh và Klenow, 2009) 
- Hiệp phương sai giữa thị phần và năng suất của 
một doanh nghiệp (Olley và Pakes, 1996, Collard-
Wexler và cộng sự, 2011, Melitz và Polanec, 2015, 
Hashiguchi, 2015) 
Theo Bartelsman và cộng sự (2013), phương 
pháp hiệp phương sai là một phương pháp về lý 
thuyết và thực nghiệm vững chắc để đo hiệu quả 
phân bổ và đánh giá ảnh hưởng của phân bổ sai. Độ 
đo hiệu quả phân bổ ban đầu được đề xuất bởi Olley 
và Pakes (1996) (về sau viết là OP). Năng suất tổng 
hợp của ngành được đo là trung bình có trọng số của 
năng suất cấp độ doanh nghiệp với tỷ trọng đầu ra là 
trọng số. Nghiên cứu đã phân rã năng suất tổng hợp 
thành hai thành phần là trung bình không trọng số ở 
cấp độ doanh nghiệp và hiệp phương sai (cov) giữa 
thị phần và năng suất. Số hạng cov này là đại diện 
cho giá trị của hiệu quả phân bổ được giải thích là 
do cov tăng vì những doanh nghiệp năng suất hơn có 
thị phần cao hơn và cov giảm vì những doanh 
nghiệp kém hơn lại có thị phần cao hơn. OP đã sử 
dụng dữ liệu mảng cấp độ doanh nghiệp cho nền 
công nghiệp thiết bị viễn thông của Mỹ từ năm 1974 
đến năm 1987 để ước lượng năng suất doanh nghiệp 
cho ngành công nghiệp và sau đó dùng để tính phân 
rã OP. Họ thấy rằng năng suất trung bình không 
trọng số μt không thay đổi nhiều từ năm 1975 nhưng 
số hạng covt tăng từ 0.01 năm 1974 lên 0.32 năm 
1987. Họ kết luận rằng có một yếu tố phân bổ lại 
xuất hiện từ những doanh nghiệp năng suất thấp 
sang những doanh nghiệp năng suất cao hơn. 
Rất nhiều các nghiên cứu trải rộng trên các quốc 
gia và các ngành khác nhau đã áp dụng phân rã OP 
để tính hiệu quả phân bổ và nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng đến hiệu quả phân bổ. Bên cạnh đó cũng 
có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thay đổi trong 
năng suất tổng hợp không phải chỉ do sự thay đổi 
thành phần giữa các doanh nghiệp hay sự thay đổi 
thị phần giữa các doanh nghiệp đang tồn tại mà còn 
do sự gia nhập của các nhà sản xuất mới và sự rút lui 
của một số nhà sản xuất khác (Foster và cộng sự, 
2001, Bartelsman và cộng sự, 2013). Tuy nhiên 
phương pháp phân rã của OP thì không đánh giá 
được sự đóng góp của các doanh nghiệp mới gia 
nhập thị trường và của các doanh nghiệp rút lui tới 
sự thay đổi năng suất doanh nghiệp. Chính vì vậy, 
Melitz và Polanec (2015) đã mở rộng phân rã OP 
thành phiên bản động, được gọi là phân rã OP động 
(về sau gọi là DOP). Phương pháp phân rã này dựa 
trên việc theo dõi các nhà sản xuất cá nhân từ một 
giai đoạn đến giai đoạn kế tiếp; theo dõi trong thị 
phần của họ và năng suất của họ. Họ chỉ ra rằng, sự 
khác biệt trong logarit của TFP gộp ở thời điểm 1 và 
2 (ΔΦ=Φ2-Φ1) có thể được phân rã thành ba thành 
phần như sau: TFP không trọng số của các doanh 
nghiệp đang hiện hữu; số hạng cov OP của các 
doanh nghiệp đang hiện hữu và sự đóng góp của các 
doanh nghiệp gia nhập và rút lui trong giai đoạn 
nghiên cứu. Melitz và Polanec (2015) đã sử dụng số 
liệu mảng cấp doanh nghiệp của ngành công nghiệp 
chế tạo Slovenian từ 1995-2000 để ước lượng tham 
số của hàm sản xuất cho ngành và sau đó tính phân 
rã DOP. Họ tìm thấy rằng sự thay đổi trong logarit 
của TFP gộp (ΔΦ) từ 1995 đến 2000 là 0.4013 và 
được phân rã vào năng suất trung bình không trọng 
Sè 130/201958
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
số của các doanh nghiệp đang hiện hữu (Δμs = 
0.2758), sự chênh lệch cov (Δcovs = 0.0955) và sự 
đóng góp của các doanh nghiệp gia nhập và rút lui 
tương ứng (ent = 0.0021, ext = 0.0279). Ngoài ra họ 
còn chỉ ra rằng sự cải thiện trong năng suất phân bổ 
thêm 10 điểm phần trăm sẽ dẫn đến tăng trưởng TFP 
gộp trong 5 năm. 
Một nhược điểm của phân phối OP cũng như 
phân phối DOP là không tính toán được hiệu quả 
phân bổ giữa các nhóm (ví dụ như các ngành hẹp, 
các nhóm sở hữu hay các vùng ...) mà chỉ tính toán 
được hiệu quả phân bổ trong một nhóm. Nghiên cứu 
của Hashiguchi (2015) đã mở rộng phân rã OP và 
phân rã DOP thành phiên bản nhiều nhóm đề đồng 
thời tính toán mức độ của hiệu quả phân bổ trong 
một nhóm, giữa các nhóm và song song với việc 
tính toán được phần đóng góp của các doanh nghiệp 
vào và ra. Các tác giả đã sử dụng dữ liệu doanh 
nghiệp chế tạo Trung Quốc từ năm 2004 đến 2007 
và chia ra thành các nhóm với 2 định nghĩa nhóm 
như sau: phân theo loại ngành công nghiệp thứ 3 và 
phân theo 3 nhóm sở hữu. Các kết quả chính của 
nghiên cứu như sau: Các doanh nghiệp vào và ra 
không đóng góp đáng kể vào sự gia tăng trong tăng 
trưởng TFP gộp của ngành chế tạo. Sự phân bổ lệch 
trong các ngành được tìm thấy là tăng theo thời gian 
và hiệu quả phân bổ trong một ngành được thấy là 
tệ hơn trong các ngành mà sử dụng nhiều vốn hơn 
và có tỷ lệ các doanh nghiệp nhà nước tương đối cao 
hơn. Ngoài ra hiệu quả phân bổ trong ba yếu tố sở 
hữu (DNNN, DNTN và DNFDI) có khuynh hướng 
cải thiện trong các ngành mà trong đó thị phần di 
chuyển từ khu vực nhà nước năng suất kém hiệu quả 
sang khu vực tư nhân năng suất hiệu quả hơn. 
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về hiệu quả phân bổ 
còn rất ít, nhất là với các nghiên cứu tính toán hiệu 
quả phân bổ theo cách tiếp cận của OP. Như trong 
nghiên cứu của Nguyễn và Nguyễn (2018) đã áp 
dụng phương pháp phân rã DOP cho các doanh 
nghiệp ngành chế tác Việt Nam trong giai đoạn 2000 
- 2013 để xem xét sự đóng góp của các công ty gia 
nhập, rút lui và sống sót đến năng suất gộp. Đồng 
thời nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tự do hóa thương 
mại và kiểm soát tham nhũng làm giảm phân bổ sai 
nguồn lực và tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp 
sống sót tới năng suất gộp và năng suất nhân tố tổng 
hợp giảm tương ứng 44% và 28% trong cả giai đoạn 
2000 - 2013. 
Trong một nghiên cứu khác của Phùng và 
Nguyễn (2018) tập trung nghiên cứu đo lường hiệu 
ứng cạnh tranh từ các doanh nghiệp công nghệ cao 
và từ các doanh nghiệp thị phần tăng trong quá trình 
phân bổ lại của các doanh nghiệp ngành chế tác Việt 
Nam giai đoạn 2012 - 2016, các tác giả đã áp dụng 
phân rã OP và DOP để thấy sự rút lui của các doanh 
nghiệp gây thiệt hại nhất tới tăng trưởng năng suất 
gộp của ngành. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu dựa vào các phân rã năng suất tổng 
hợp để tính toán hiệu quả phân bổ trong một nhóm 
và giữa các nhóm của các doanh nghiệp ngành chế 
tác phân theo loại hình sở hữu (gồm DNNN, DNTN 
và DNFDI). Đồng thời tính toán được sự đóng góp 
của các doanh nghiệp gia nhập và doanh nghiệp rút 
lui trong từng nhóm loại hình sở hữu để có sự so 
sánh với nhau 
3.1. Phương pháp phân rã năng suất OP tĩnh 
và OP động 
Phương pháp phân rã OP tĩnh được đề xuất bởi 
Olley và Pakes (1996), năng suất gộp Φt được định 
nghĩa là năng suất trung bình có trọng số ở cấp độ 
doanh nghiệp 
Trong đó: sit là tỷ trọng đầu ra của doanh nghiệp 
i tại thời điểm t; sit > 0; ∑sit = 1 
φit= log(TFPit) 
OP đã chỉ ra rằng năng suất gộp có thể được phân 
rã thành hai thành phần như sau: 
Với μt là năng suất trung bình không trọng số. 
covtOP là hiệp phương sai giữa thị phần và năng 
suất, đại diện cho giá trị của hiệu quả phân bổ giữa 
các doanh nghiệp hiện có. 
Khi đó những thay đổi trong năng suất gộp qua 
thời gian Δϕ đơn giản được cho bởi thay đổi trong 
trung bình không trọng số Δμ và thay đổi trong hiệp 
phương sai ΔcovtOP 
Sau đó Melitz và Polanec (2015) đã mở rộng 
phân rã OP để tính toán sự đóng góp của các doanh 
nghiệp gia nhập và rút lui trong một giai đoạn tới 
năng suất gộp, phân rã này được gọi là phân rã OP 
59
?
Sè 130/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
?động (DOP). Trong đó một doanh nghiệp mới gia 
nhập được hiểu là một doanh nghiệp có thị phần 
tăng lên từ 0; còn một doanh nghiệp rút lui được 
hiểu là một doanh nghiệp có thị phần giảm đến 0. 
Với ký hiệu S, E và X là tập hợp các doanh 
nghiệp đang hiện hữu, doanh nghiệp mới gia nhập 
và doanh nghiệp rút lui, các tác giả đã phân tích 
được sự khác biệt trong năng suất như sau: 
Hay ΔΦ=ΔμS + ΔcovS + ent + ext 
Trong đó: ΔμS = μ2S - μ1S 
 ΔcovS = cov2S - cov1S 
 ent = s2E (Φ2E - Φ2S) 
 ext=s1X (Φ1S - Φ1X) 
ΔμS: sự chênh lệch của logarit TFP trung bình 
không trọng số của các doanh nghiệp đang hiện hữu. 
ΔcovS: sự chênh lệch trong hiệp phương sai 
tương ứng với sự thay đổi về lượng của hiệu quả 
phân bổ của các doanh nghiệp đang hiện hữu. 
Sự đóng góp của các doanh nghiệp vào và ra 
xuất hiện trong ent và ext và chúng được đánh giá 
trong sự so sánh với năng suất của các doanh nghiệp 
hiện hữu như sau: 
ent ≤ 0 (>) khi Φ2E ≤ Φ2S (>) 
ext ≤ 0 (>) khi Φ1S ≤ Φ1X (>) 
Do vậy phương pháp phân rã DOP cho phép 
chúng ta xác định sự đóng góp của các doanh nghiệp 
vào và ra. 
3.2. Phân rã mở rộng của phân rã năng suất 
OP tĩnh và OP động 
Phân rã OP và DOP cho phép chúng ta tính toán 
mức độ hiệu quả phân bổ trong một nhóm. 
Hashguchi (2015) đã mở rộng lên phiên bản nhiều 
nhóm để đồng thời tính toán mức hiệu quả phân bổ 
trong một nhóm và giữa các nhóm. 
Giả sử số nhóm là J, năng suất gộp được tính như sau: 
Trong đó: 
 ωjt là thị phần đầu ra của nhóm j ở thời điểm t. 
 : là trung bình có trọng số của log 
TFP của nhóm j. 
Áp dụng phân rã OP, ta viết được: 
Bài báo định nghĩa số hạng thứ nhất và thứ hai 
tương ứng là các ảnh hưởng “within-effect” (ảnh 
hưởng bên trong nhóm) và “between - effect” (ảnh 
hưởng giữa các nhóm) 
Sau đó μjt lại có thể được phân rã như sau: 
μ = μjt+covjt 
Và thu được mở rộng của phân rã OP như sau: 
Số hạng đầu trong phương trình trên là năng suất 
trung bình không trọng số 
covjt; (cov)t tương ứng là mức độ hiệu quả phân 
bổ trong nhóm j và giữa các nhóm 
Lấy sai phân của phương trình trên ta được: 
Còn đối với phân rã động DOP sẽ được mở rộng 
như sau: 
Trong đó: 
Δcovjs là sự chênh lệch hiệu quả phân bổ của các 
doanh nghiệp đang hiện hữu trong nhóm j. 
Δ(cov) là sự thay đổi hiệu quả phân bổ giữa 
các nhóm. 
entj; extj tương ứng là sự đóng góp của các doanh 
nghiệp gia nhập và rút lui. 
Để áp dụng phương pháp phân rã ... 30/201960
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
 ~ 
~
 ~
 ~
cho biết hiệu quả liên nhóm trong từng năm của giai 
đoạn nghiên cứu để đưa ra những nhận xét về phân 
bổ sai giữa các loại hình sở hữu. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Mô tả số liệu 
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu là số liệu hỗn 
hợp dựa trên điều tra doanh nghiệp hàng năm của 
Tổng cục Thống kê (GSO) của ngành chế tác từ năm 
2010 đến năm 2016 với tổng số 62.438 doanh 
nghiệp. Nguồn số liệu này có đầy đủ các biến quan 
trọng như mã ngành công nghiệp (lấy theo tiêu 
chuẩn VSIC 2 chữ số), loại hình sở hữu, số lao động, 
lượng vốn, doanh thu, lợi nhuận, khấu hao, chi phí 
lao động, tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, Các 
đầu vào và đầu ra đã được giảm phát. Trong nghiên 
cứu này, giá trị gia tăng (VA) được sử dụng để ước 
lượng TFP ở cấp độ doanh nghiệp bằng phương 
pháp bán tham số dựa theo cách tiếp cận của 
Levinsohn và Petrin (2003). Dữ liệu về giá trị gia 
tăng không sẵn có và được đo lường dựa trên cách 
tiếp cận thu nhập. 
Các doanh nghiệp được chia theo 3 hình thức sở 
hữu là DNNN, DNTN và DNFDI với giá trị trung 
bình của các biến quan trọng như K (vốn), L (số lao 
động), VA, lnTFP của từng loại hình sở hữu trong cả 
giai đoạn và trong năm đầu và năm cuối giai đoạn 
nghiên cứu như sau (Bảng 1): 
Ta thấy trong giai đoạn nghiên cứu, số lượng 
DNNN giảm rất đáng kể đặc biệt là năm 2013. Tuy 
nhiên các doanh nghiệp rút lui là những doanh 
nghiệp quy mô nhỏ và vốn ít, những doanh nghiệp 
tồn tại đến năm 2016 là những doanh nghiệp lớn 
hơn, số lao động trung bình khoảng 187 người với 
số vốn trung bình cao nhất trong cả 3 loại hình sở 
hữu là 294.227,6 triệu đồng. Các DNTN có số lượng 
doanh nghiệp tăng lên nhiều nhất (gấp hơn 2 lần) 
nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô vừa và 
nhỏ. Các DN FDI có số lượng doanh nghiệp tăng lên 
khoảng 1,5 lần; đều là các doanh nghiệp quy mô lớn 
với số lượng lao động rất cao so với hai loại hình sở 
hữu còn lại và đến năm 2016, các DNFDI có số vốn 
trung bình xấp xỉ các DNNN. Trong cả giai đoạn và 
trong từng năm,các DNFDI có đầu ra và TFP về 
trung bình là cao nhất trong ba loại hình sở hữu. 
Ngoài ra các doanh nghiệp còn được chia thành 
3 loại: doanh nghiệp sống sót, doanh nghiệp gia 
nhập và doanh nghiệp rút lui, trong đó: 
- Doanh nghiệp sống sót bao gồm các doanh 
nghiệp tồn tại từ năm 2010 đến 2016 
- Doanh nghiệp gia nhập bao gồm các 
doanh nghiệp gia nhập sau năm 2010 và tồn tại 
cho đến 2016. 
- Doanh nghiệp rút lui bao gồm các doanh 
nghiệp tồn tại trước năm 2016. 
Ta có bảng thống kê mô tả của một số biến đối 
với 3 loại doanh nghiệp này như sau (Bảng 2): 
Bảng 2 cho thấy trong giai đoạn 2010 - 2016, 
quy mô trung bình của doanh nghiệp (đo bằng số lao 
61
?
Sè 130/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1: Thống kê mô tả các doanh nghiệp ngành chế tác Việt Nam theo loại hình sở hữu 
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê 
1ăP 2010 - 2016 2010 2016 
BiӃn DNNN DNTN DNFDI DNNN DNTN DNFDI DNNN DNTN DNFDI 
Sӕ qs 19.051 144.782 18.831 5.396 13.759 2.216 869 28.461 3.313 
Mean 
K 
95.648,33 37.592,29 230.390,2 44.181,61 33.616,84 163.844,4 294.247,6 40.366,31 291.868,3 
Mean 
L 
85,019 74,082 629,644 62,758 91,993 551,442 186,611 65,877 657,349 
Mean 
VA 
15.500,64 7.371,172 72.204,65 6641,525 5876,906 42.275,83 61.735,71 8.297,794 96.160,71 
Mean 
lnTFP 
1,276 1,356 2,121 1,229 1,375 2,036 1,518 1,377 2,284 
?động) lớn nhất đối với doanh nghiệp sống sót 
(khoảng 222 lao động), tiếp đến là doanh nghiệp gia 
nhập (khoảng 77 lao động). Quy mô nhỏ nhất là 
doanh nghiệp rút lui (khoảng 37 lao động). Các 
doanh nghiệp tồn tại suốt 7 năm của giai đoạn 
nghiên cứu thường là các doanh nghiệp lớn, còn các 
doanh nghiệp gia nhập và rút lui chủ yếu là doanh 
nghiệp vừa và nhỏ với số lao động ít hơn 100. 
Lượng vốn trung bình cao nhất thuộc về các doanh 
nghiệp sống sót, là 105.482,4 triệu đồng; tiếp đến là 
doanh nghiệp gia nhập (39.524,6 triệu đồng) và 
doanh nghiệp rút lui với số vốn trung bình ít nhất là 
15.861,68 triệu đồng. VA trung bình và TFP trung 
bình của các doanh nghiệp sống sót, gia nhập và rút 
lui cũng cho kết quả tương tự. Nhìn chung, các 
doanh nghiệp có mức vốn, số lao động và giá trị gia 
tăng cao thì có nhiều khả năng tồn tại hơn những 
doanh nghiệp có mức vốn, lao động và giá trị gia 
tăng thấp. 
4.2. Phân tích kết quả phân rã năng suất 
Sử dụng mở rộng phân giã DOP cho giai đoạn 
2010 - 2016 ta được kết quả (bảng 3): 
Trong giai đoạn 2010-2016, ta thấy sự thay đổi 
trong năng suất gộp đối với nhóm sở hữu nhà nước 
là lớn nhất và do sự đóng góp chính bởi hiệu quả 
phân bổ giữa các doanh nghiệp sống sót của nhóm 
này mặc dù số lượng DNNN đã giảm đi chỉ còn 1/6 
so với năm 2010. Sau đó đến nhóm DNTN và nhóm 
DNFDI có năng suất tổng hợp là ổn định nhất. 
Tương tự, nghiên cứu cũng chia nhỏ giai đoạn 
nghiên cứu thành các giai đoạn một năm một, sử 
dụng mở rộng phân rã OP và DOP trong từng năm 
của giai đoạn nghiên cứu, ta thấy nhìn chung khi xét 
sự đóng góp của các doanh nghiệp đang tồn tại tới 
Sè 130/201962
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 2: Bảng thống kê mô tả một số biến của từng loại doanh nghiệp 
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Tên biӃn Trung bình cho cҧ JLDLÿRҥn 2010 - 2016 
 Sӕ quan sát Mean Std. dev 
Doanh nghiӋp sӕng sót 
K 81.212 105.482,4 804.068,9 
L 81.212 222,4243 1155,381 
VA 81.212 26.916,23 173.247,6 
lnTFP 81.212 1,63542 0.9653 
Doanh nghiӋp rút lui 
K 41.116 15.861,68 100.404,3 
L 41.116 36,92251 153,123 
VA 41.116 2.551,457 28.398,62 
lnTFP 41.116 1,19384 1,0614 
Doanh nghiӋp gia nhұp 
K 60.336 39.524,6 286.324,4 
L 60.336 76,58187 414,2664 
VA 60.336 7.149,543 49.763,02 
lnTFP 60.336 1,30377 1,06654 
năng suất gộp của từng nhóm sở hữu thì nhóm 
DNNN có sự đóng góp của hiệu quả phân bổ giữa 
các doanh nghiệp sống sót lớn hơn gấp nhiều lần so 
với năng suất trung bình không trọng số, điều này là 
tương tự đối với nhóm sở hữu tư nhân. Riêng đối với 
nhóm DNFDI, sự đóng góp của trung bình không 
trọng số lại đa số lớn hơn (và có nhiều năm là lớn 
hơn rất nhiều) sự đóng góp của hiệu quả phân bổ. 
Điều đó cho thấy giữa các DNFDI có năng suất 
tương đối đồng đều và sự phân bổ lại giữa các doanh 
nghiệp sống sót là ít. Ngoài ra, trong 3 nhóm loại 
hình sở hữu, nhóm DNNN có hiệu quả phân bổ giữa 
các doanh nghiệp sống sót là cao nhất. Các DNNN 
quy mô nhỏ và năng suất thấp hầu như bị rút lui khỏi 
thị trường. Nên thị phần của các doanh nghiệp này 
được chuyển lại cho các doanh nghiệp ở lại. 
Ngoài ra, sự thay đổi trong từng thành phần của 
phân rã trong giai đoạn 2010 - 2016 đối với từng 
nhóm sở hữu được phân tích cụ thể hơn để thấy 
thêm được sự đóng góp của các doanh nghiệp gia 
nhập và rút lui như sau (hình 1): 
Kết quả phân rã cho thấy sự chênh lệch hiệu quả 
phân bổ giữa các doanh nghiệp sống sót trong nhóm 
DNFDI và nhóm DNTN là xấp xỉ nhau (tương ứng 
là 0.717765 và 0.715043), còn đối với nhóm 
DNNN con số này là 0.526104. Đối với cả 3 nhóm 
doanh nghiệp thì sự đóng góp của các doanh nghiệp 
đang tồn tại đến năng suất gộp là chủ yếu, còn các 
doanh nghiệp gia nhập đều có ảnh hưởng tiêu cực 
trong cả 3 nhóm doanh nghiệp (ảnh hưởng tiêu cực 
này của 2 nhóm DNNN và DNFDI là xấp xỉ nhau 
khoảng -0.12; còn với nhóm DNTN khoảng -0.1), 
mặc dù ảnh hưởng này không lớn. Như vậy các 
doanh nghiệp gia nhập đều là các doanh nghiệp có 
năng suất thấp hơn các doanh nghiệp đang tồn tại. 
Các doanh nghiệp rút lui tuy có ảnh hưởng tích cực 
đến năng suất gộp nhưng ảnh hưởng này rất nhỏ 
63
?
Sè 130/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 3: Kết quả mở rộng phân rã DOP cho giai đoạn 2010 - 2016 
Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Within- ffe ect
0,1480472 0,526104 -0,1216512 0,09615
-0,3184486 0,715043 -0,0981656 0,06135
-0,357499 0,717765 -0,1264329 0,02395
Between
25
38
03
DNNN 0,5363479 0,6486525
DNTN 0,247478 0,3597826
DNFDI 0,1454788 0,2577834
Tәng 0,309769 0,422074 -0,1759668 0,652971 -0,1154166 0,0604855 -0,112305
Chú ý: 1 = DNNN; 2 = DNTN; 3 = DNFDI 
Hình 1: Kết quả phân rã của within - effect 
theo loại hình sở hữu trong giai đoạn 2010 - 2016 
bằng phân rã mở rộng của DOP
-.4
-.2
.0
.2
.4
.6
.8
1 2 3
MUYS COVS ENT EXT 
?(lớn nhất ở nhóm DNNN là 0.0961525; sau đó đến 
nhóm DNTN là 0.0613538 và cuối cùng là nhóm 
FDI là 0.0239503). Điều này có thể giải thích là các 
doanh nghiệp rút lui có năng suất nhỏ hơn rất nhiều 
so với năng suất của các doanh nghiệp tồn tại trong 
cả giai đoạn. 
Đồng thời mở rộng phân rã DOP cho phép ta tính 
được hiệu quả phân bổ giữa 3 nhóm loại hình sở hữu 
theo từng năm như sau (hình 2): 
Kết quả phân rã cho thấy trong cả 6 năm của giai 
đoạn nghiên cứu, hiệu quả phân bổ liên nhóm đều 
âm nhưng về độ lớn thì có xu hướng tăng dần. Và 
tính trong cả giai đoạn nghiên cứu thì sự chênh lệch 
hiệu quả phân bổ liên nhóm giữa các hình thức sở 
hữu là -0.112305. Như vậy, giữa các nhóm loại hình 
sở hữu thì không phải chắc chắn doanh nghiệp có 
năng suất cao thì sẽ có thị phần nhiều hơn hay có 
một sự phân bổ lệch giữa các loại hình sở hữu. 
5. Kết luận và hướng tiếp tục nghiên cứu 
Nghiên cứu đã thực hiện phân rã mở rộng của 
phân rã OP và DOP cho các doanh nghiệp ngành chế 
tác của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2016 được chia 
thành 3 nhóm doanh nghiệp theo loại hình sở hữu. 
Đồng thời các doanh nghiệp cũng được phân ra 
thành các nhóm doanh nghiệp sống sót, doanh 
nghiệp gia nhập và doanh nghiệp rút lui để thực hiện 
các phân rã động. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Thứ 
nhất, trong sự đóng góp đến sự thay đổi của năng 
suất gộp thì nhóm DNNN có đóng góp lớn nhất. 
Nhóm này cũng có hiệu quả phân bổ của các doanh 
nghiệp sống sót là cao nhất, sau đó đến nhóm sở hữu 
tư nhân và cuối cùng là nhóm các DN FDI. Trong 
giai đoạn nghiên cứu, đánh dấu sự rút lui của phần 
lớn các DNNN quy mô nhỏ và năng suất thấp. Thứ 
hai, trong giai đoạn nghiên cứu, đối với cả ngành 
chế tác nói chung và đối với từng hình thức sở hữu, 
các doanh nghiệp gia nhập đều có ảnh hưởng tiêu 
cực trong khi các doanh nghiệp rút lui đều có ảnh 
hưởng tích cực mặc dù ảnh hưởng này rất nhỏ (và 
nhỏ nhất đối với DNFDI). Thứ ba, trong tất cả các 
năm của giai đoạn nghiên cứu thì hiệu quả phân bổ 
liên nhóm của ba loại hình sở hữu đều âm và có xu 
hướng tăng về độ lớn, chứng tỏ có một sự phân bổ 
sai giữa các nhóm sở hữu. Tuy nhiên nghiên cứu 
chưa chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phân 
bổ sai đó và nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự chênh 
lệch về hiệu quả phân bổ bên trong mỗi nhóm. Vì 
vậy, các hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả sẽ đi 
sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả 
phân bổ và nguyên nhân dẫn đến phân bổ sai.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. BAILY, M. N., HULTEN, C., CAMPBELL, 
D., BRESNAHAN, T. & CAVES, R. E. 1992, 
Productivity dynamics in manufacturing plants, 
Brookings papers on economic activity. 
Microeconomics, 1992, 187-267. 
2. BARTELSMAN, E., HALTIWANGER, J. & 
SCARPETTA, S. 2013, Cross-country differences in 
productivity: The role of allocation and selection, 
American Economic Review, 103, 305-34. 
3. CHUKWUJI, C. O., INONI, O. E. & 
OYAIDE, W. J. 2006, A quantitative determination 
of allocative efficiency in broiler production in 
Delta State, Nigeria, Agriculturae Conspectus 
Scientificus, 71, 21-26. 
4. COLLARD-WEXLER, A., ASKER, J. & DE 
LOECKER, J. 2011, Productivity volatility and the 
misallocation of resources in developing economies, 
National Bureau of Economic Research. 
Sè 130/201964
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Hình 2: Hiệu quả phân bổ liên nhóm 
trong từng năm 
-.20
-.16
-.12
-.08
-.04
.00
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
COVNGA
5. COLLARD-WEXLER, A. & DE LOECKER, 
J. 2015, Reallocation and technology: Evidence 
from the US steel industry, American Economic 
Review, 105, 131-71. 
6. ERICSON, R. & PAKES, A. 1995, Markov-per-
fect industry dynamics: A framework for empirical 
work, The Review of economic studies, 62, 53-82. 
7. FOSTER, L., HALTIWANGER, J. C. & 
KRIZAN, C. J. 2001, Aggregate productivity 
growth: Lessons from microeconomic evidence, 
New developments in productivity analysis. 
University of Chicago Press. 
8. GRILICHES, Z. & REGEV, H. 1995, Firm 
productivity in Israeli industry 1979-1988, Journal 
of econometrics, 65, 175-203. 
9. HASHIGUCHI, Y. 2015, Allocation efficiency 
in China: an extension of the dynamic Olley-Pakes 
productivity decomposition, Institute of Developing 
Economies, Japan External Trade Organization 
(JETRO). 
10. HOPENHAYN, H. A. 1992, Entry, exit, and 
firm dynamics in long run equilibrium, 
Econometrica: Journal of the Econometric Society, 
1127-1150. 
11. HSIEH, C.-T. & KLENOW, P. J. 2009, 
Misallocation and manufacturing TFP in China and 
India, The Quarterly journal of economics, 124, 
1403-1448. 
12. LEVINSOHN, J. & PETRIN, A. 2003, 
Estimating production functions using inputs to 
control for unobservables, The Review of Economic 
Studies, 70, 317-341. 
13. MELITZ, M. J. & POLANEC, S. 2015, 
Dynamic Olley Pakes productivity decomposition 
with entry and exit, The Rand journal of economics, 
46, 362-375. 
14. NGUYỄN, M. K. & NGUYỄN, P. T. 2018, 
Các nhân tố giảm phân bổ sai và tái phân bổ nguồn 
lực tại khu vực chế tác Việt Nam, Kinh tế và Phát 
triển, 251, 10. 
15. OLLEY, G. S. & PAKES, A. 1996, The 
Dynamics of Productivity in the 
Telecommunications Equipment Industry, 
Econometrica, 64, 1263-1297. 
16. PHÙNG, M. L. & NGUYỄN, K. M. 2018, Đo 
lường tác động của lan tỏa công nghệ, phân bổ lại và 
cạnh tranh đến năng suất các doanh nghiệp ngành 
chế tác Việt Nam, Kinh tế và Phát triển, 254, 10. 
17. RESTUCCIA, D. & ROGERSON, R. 2008, 
Policy distortions and aggregate productivity with 
heterogeneous establishments, Review of Economic 
dynamics, 11, 707-720. 
Summary 
This study applied the extended decomposition 
of Olley- Pakesdynamic decomposition introduced 
by Melitz and Polanec (2015) for many business 
groups to simultaneously calculate the distribution 
efficiency within a group and among groups classi-
fied by ownership categories;moreover, calculating 
the contribution of surviving, joining and withdraw-
ing businesses to the sector's changes in gross pro-
ductivity. Using the enterprise-level data of 
Vietnamesecraftmanship sector in the period of 
2010-2016, the calculation results show that the 
influence among groups of ownership types is neg-
ative in all years of research. In the research phase, 
the greatest allocation efficiency is within the state-
owned enterprisegroup; joining firms contribute 
negatively while withdrawing businesses contribute 
positively to gross productivity of all three owner-
ship groups, in which the participation of FDI firms 
accounts for the smallest. 
65Sè 130/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfphan_ra_nang_suat_va_hieu_qua_phan_bo_cua_cac_doanh_nghiep_n.pdf