Phân loại ngành nghề: bất cập trong việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

TÓM TẮT

Bài báo này nghiên cứu về sự phát triển của các hệ thống phân loại ngành nghề chính trên thế

giới, từ đó so sánh với khung pháp lý quy định về phân loại ngành nghề ở Việt Nam. Tiếp đến,

thực trạng công bố thông tin về ngành nghề hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường

chứng khoán ở Việt Nam được tìm hiểu để xem xét thực trạng này có thuận tiện cho các nhà đầu

tư, các nhà nghiên cứu có thể nhận diện một công ty ở Việt Nam đang áp dụng chiến lược đa

dạng hóa liên quan hay đa dạng hóa không liên quan hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy

rằng quy định về phân loại ngành nghề ở Việt Nam khá giống với Hệ thống phân loại ngành nghề

theo tiêu chuẩn quốc tế về tất cả các hoạt động kinh tế (International Standard Industrial

Classification of All Economic Activities -ISIC) theo phiên bản sửa đổi lần thứ 4. Tuy nhiên thực

trạng công bố thông tin về lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trên thị

trường chứng khoán ở Việt Nam lại không có sự nhất quán với khung pháp lý quy định về phân

loại ngành nghề, và cũng không có sự thống nhất trong việc công bố thông tin về phân loại ngành

nghề giữa các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và trên Sở giao dịch

chứng khoán Hà Nội. Thực trạng này dẫn đến gây khó khăn cho các nhà đầu tư, và các nhà

nghiên cứu trong việc nhận diện về loại chiến lược đa dạng hóa ngành nghề mà các doanh nghiệp

Việt Nam áp dụng, từ đó ảnh hưởng đến các quyết định mà họ đưa ra.

Từ khóa: Hệ thống phân loại ngành nghề; Chiến lược đa dạng hóa; Việt Nam.

pdf 11 trang phuongnguyen 520
Bạn đang xem tài liệu "Phân loại ngành nghề: bất cập trong việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân loại ngành nghề: bất cập trong việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Phân loại ngành nghề: bất cập trong việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
91 
PHÂN LOẠI NGÀNH NGHỀ: BẤT CẬP TRONG VIỆC CÔNG BỐ 
THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
INDUSTRY TAXONOMY: INADEQUACIES IN THE DISCLOSURE OF INFORMATION 
ON VIETNAM’S STOCK MARKET 
Ngày nhận bài: 04/03/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 27/03/2020 
Nguyễn Thị Xuân Trang 
TÓM TẮT 
Bài báo này nghiên cứu về sự phát triển của các hệ thống phân loại ngành nghề chính trên thế 
giới, từ đó so sánh với khung pháp lý quy định về phân loại ngành nghề ở Việt Nam. Tiếp đến, 
thực trạng công bố thông tin về ngành nghề hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường 
chứng khoán ở Việt Nam được tìm hiểu để xem xét thực trạng này có thuận tiện cho các nhà đầu 
tư, các nhà nghiên cứu có thể nhận diện một công ty ở Việt Nam đang áp dụng chiến lược đa 
dạng hóa liên quan hay đa dạng hóa không liên quan hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
rằng quy định về phân loại ngành nghề ở Việt Nam khá giống với Hệ thống phân loại ngành nghề 
theo tiêu chuẩn quốc tế về tất cả các hoạt động kinh tế (International Standard Industrial 
Classification of All Economic Activities -ISIC) theo phiên bản sửa đổi lần thứ 4. Tuy nhiên thực 
trạng công bố thông tin về lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trên thị 
trường chứng khoán ở Việt Nam lại không có sự nhất quán với khung pháp lý quy định về phân 
loại ngành nghề, và cũng không có sự thống nhất trong việc công bố thông tin về phân loại ngành 
nghề giữa các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và trên Sở giao dịch 
chứng khoán Hà Nội. Thực trạng này dẫn đến gây khó khăn cho các nhà đầu tư, và các nhà 
nghiên cứu trong việc nhận diện về loại chiến lược đa dạng hóa ngành nghề mà các doanh nghiệp 
Việt Nam áp dụng, từ đó ảnh hưởng đến các quyết định mà họ đưa ra. 
Từ khóa: Hệ thống phân loại ngành nghề; Chiến lược đa dạng hóa; Việt Nam. 
ABSTRACT 
This paper examines the development of major industry taxonomies in the world, and then 
compares to the regulatory framework for industry classification in Vietnam. Next, the factual 
publication of information about the industry classification of listed companies in Vietnam is found 
out to check whether this publication can help investors and researchers to identify the type of 
diversification strategies (related or unrelated) the companies are applying. The results show that 
the regulations on industry taxonomy in Vietnam are rather similar to International Standard 
Industrial Classification of All Economic Activities version 4th (ISIC, Rev.4). However, the factual 
publication of information about the business activities of companies listed on the stock market in 
Vietnam is not consistent with the legal framework for industry classification. Additionally, there is 
also no consensus on the disclosure of industry classification information between companies 
listed on the Ho Chi Minh Stock Exchange and on the Hanoi Stock Exchange in this country. This 
situation makes it difficult for investors, and researchers to identify which type of diversification 
strategy that the companies in Vietnam apply before making their decisions. 
Keywords: Industry taxonomy; Diversification strategy; Vietnam. 
1. Giới thiệu 
Thuật ngữ đa dạng hóa (diversification) 
xuất hiện từ năm 1957 trong nghiên cứu của 
Ansoff (1957). Ansoff (1957) đề xuất rằng đa 
dạng hóa là một trong những chiến lược sản 
phẩm – thị trường cho sự tăng trưởng của 
doanh nghiệp khi nó có sự kết hợp của cả 
phát triển sản phẩm và phát triển thị trường 
với những yêu cầu mới về kỹ năng và máy 
móc thiết bị của doanh nghiệp. 
Nguyễn Thị Xuân Trang, Trường Đại học Kinh tế 
- Đại học Đà Nẵng 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
92 
Đối với chiến lược đa dạng hóa ngành 
nghề, thật cần thiết để các nhà đầu tư có thể 
nhận diện được dấu hiệu một công ty đang áp 
dụng chiến lược đa dạng hóa liên quan hay đa 
dạng hóa không liên quan trước khi họ đưa ra 
các quyết định phù hợp. Nhìn chung, chiến 
lược đa dạng hóa không liên quan xảy ra khi 
một công ty hoạt động ở nhiều hơn một phân 
khúc hoặc một nhóm ngành nghề được mã 
hóa bằng hai chữ số trong hệ thống phân loại 
ngành công nghiệp tiêu chuẩn (Standard 
Industrial Classification – SIC) của Hoa Kỳ 
hoặc trong hệ thống phân loại ngành công 
nghiệp tiêu chuẩn quốc tế của tất cả các hoạt 
động kinh tế (International Standard Industrial 
Classification of All Economic Activities – 
ISIC) của Liên hợp quốc; và và ngược lại, nếu 
tất cả các ngành nghề mà công ty hoạt động 
đều nằm trong một phân khúc hoặc một nhóm 
ngành nghề được mã hóa bằng hai chữ số 
trong các hệ thống phân loại trên thì công ty 
được xem là đang áp dụng chiến lược đa dạng 
hóa ngành nghề liên quan. 
Bài báo này đầu tiên sẽ đi vào giới thiệu 
về chiến lược đa dạng hóa ngành nghề. Tiếp 
đến, bài báo tóm tắt sự phát triển của ba hệ 
thống phân loại ngành nghề chính trên thế 
giới, trình bày các quy định về phân loại 
ngành nghề ở Việt Nam và chỉ ra những 
điểm tương đồng cũng như sự khác biệt giữa 
quy định phân loại ngành nghề ở Việt Nam 
và các hệ thống phân loại ngành nghề phổ 
biến trên thế giới. Sau đó, bài báo mô tả thực 
trạng công bố thông tin về lĩnh vực hoạt động 
kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị 
trường chứng khoán tại Việt Nam, để cho 
thấy thực trạng này có thuận tiện cho các nhà 
đầu tư trong việc nhận diện chiến lược đa 
dạng hóa ngành nghề mà công ty áp dụng 
hay không. 
2. Cơ sở lý thuyết và khung nghiên cứu 
2.1. Khái niệm về chiến lược đa dạng hóa 
ngành nghề 
Ansoff (1957) đã đề xuất bốn loại chiến 
lược hoạt động khi xét mối quan hệ giữa sản 
phẩm cung cấp và thị trường hoạt động cho 
mục đích tăng trưởng kinh doanh, cụ thể đó 
là chiến lược thâm nhập thị trường (market 
penetration strategy), chiến lược phát triển 
thị trường (market development strategy), 
chiến lược phát triển sản phẩm (product 
development strategy) và chiến lược đa dạng 
hóa (diversification strategy). Cách phân loại 
này được thể hiện rõ ở hình 1. Theo Ansoff 
(1957), chiến lược đa dạng hóa được áp dụng 
khi có sự kết hợp của cả phát triển thị trường 
và phát triển sản phẩm với các yêu cầu mới 
về kỹ năng, kỹ thuật và phương tiện. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
93 
Ramanujam & Varadaraja (1989) đã đưa ra 
định nghĩa về đa dạng hóa tương tự với 
nghiên cứu của Ansoff (1957) khi họ đề cập 
trong nghiên cứu của họ rằng đa dạng hóa là 
sự thâm nhập của một công ty hoặc một đơn 
vị kinh doanh vào các hoạt động mới thông 
qua các quá trình phát triển kinh doanh nội bộ 
hoặc thông qua tái cấu trúc với sự thay đổi 
trong cấu trúc quản trị, trong các hệ thống 
hoạt động và trong các quy trình quản lý khác. 
Phát triển từ định nghĩa về đa dạng hóa của 
Ansoff (1957), một số lượng lớn các nhà nghiên 
cứu tiếp theo, như Amit & Livnat (1988), Berger 
& Ofek (1995), Anderson et al. (2000), Kim & 
Chen (2010) và Lien & Li (2013), tiếp tục phân 
chia đa dạng hóa thành hai loại khác nhau bao 
gồm đa dạng hóa liên quan (related 
diversification) và đa dạng hóa không liên quan 
(unrelated diversification). Ví dụ, Berger & 
Ofek (1995) cho rằng đa dạng hóa không liên 
quan được áp dụng trong một công ty có nhiều 
bộ phận kinh doanh khác nhau khi công ty có từ 
hai bộ phận kinh doanh trở lên với các mã Phân 
loại công nghiệp tiêu chuẩn (SIC) chứa hai chữ 
số khác nhau; Ngược lại, nếu tất cả các bộ phận 
kinh doanh của công ty nằm trong cùng một mã 
SIC hai chữ số, điều đó có nghĩa là công ty đang 
thực hiện chiến lược đa dạng hóa liên quan. 
Hình 2 được sử dụng để chỉ ra vị trí của 
chiến lược đa dạng hóa trong các dạng chiến 
lược công ty khác nhau theo ý kiến của 
Wheelen & Hunger (2006). Wheelen & 
Hunger (2006) đã định nghĩa chiến lược công 
ty (corporate strategy) là một chiến lược nêu 
rõ hướng đi chung của công ty về thái độ 
chung của nó đối với sự tăng trưởng và việc 
quản lý các dòng sản phẩm và các mảng kinh 
doanh khác nhau. Họ cho rằng chiến lược 
công ty được thể hiện bằng ba chiến lược cụ 
thể, đó là chiến lược định hướng (directional 
strategy) thể hiện định hướng chung của 
công ty, chiến lược danh mục đầu tư 
(portfolio strategy) xác định ngành và/hoặc 
thị trường mà công ty hoạt động và chiến 
lược quản lý (parenting strategy) thể hiện 
cách quản lý trong việc điều phối các hoạt 
động và chia sẻ tài nguyên giữa các dòng sản 
phẩm và đơn vị kinh doanh. Tiếp theo, chiến 
lược định hướng có thể đi theo ba định 
hướng khác nhau: tăng trưởng (growth), ổn 
định (stability) hoặc chống lại 
(retrenchment). Theo phân loại này, chiến 
lược đa dạng hóa sẽ là một dạng chiến lược 
tăng trưởng cụ thể thuộc về chiến lược định 
hướng (Hình 2). 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
94 
Trong khi với chiến lược tập trung, công 
ty chỉ tập trung vào khai thác trong một 
ngành công nghiệp vì tiềm năng tăng trưởng 
của nó, công ty lại có xu hướng áp dụng 
chiến lược đa dạng hóa để tiếp cận các 
ngành công nghiệp khác khi ngành công 
nghiệp hiện tại trưởng thành. Một công ty 
theo đuổi chiến lược tập trung cần đưa ra lựa 
chọn giữa tăng trưởng dọc và tăng trưởng 
ngang. Chiến lược tăng trưởng theo chiều 
dọc xảy ra khi công ty đảm nhận chức năng 
của các đơn vị khác trong chuỗi cung ứng 
của mình như nhà cung cấp hoặc nhà phân 
phối để có thể giảm chi phí, nâng cao chất 
lượng đầu vào hoặc thiết lập mối quan hệ với 
khách hàng. Trong khi đó, chiến lược tăng 
trưởng theo chiều ngang đề cập đến việc giới 
thiệu các sản phẩm hiện tại cho các thị 
trường khác và/hoặc tăng phạm vi chủng loại 
sản phẩm trong thị trường hiện tại. Mỗi loại 
tăng trưởng dẫn đến mức độ hợp nhất khác 
nhau tùy thuộc vào quyền sở hữu chuỗi giá 
trị trong trường hợp tăng trưởng theo chiều 
dọc hoặc quyền sở hữu để có quyền truy cập 
vào các thị trường khác trong trường hợp 
tăng trưởng theo chiều ngang. Về chiến lược 
đa dạng hóa, nó có thể là chiến lược đa dạng 
hóa liên quan nếu công ty mở rộng hoạt động 
sang các ngành liên quan dựa trên vị thế cạnh 
tranh hiện tại cùng với các nguồn lực sẵn có 
(chẳng hạn như kiến thức sản phẩm, năng lực 
sản xuất hoặc kỹ năng tiếp thị), hoặc có thể là 
chiến lược đa dạng hóa không liên quan khi 
công ty đa dạng hóa vào các ngành công 
nghiệp mới mà không liên quan đến các 
ngành công nghiệp cốt lõi của nó. 
Một điều đáng chú ý là tất cả các chiến 
lược tăng trưởng này có thể được thực hiện 
thông qua mở rộng các hoạt động ở trong 
nước và toàn cầu, hoặc các hoạt động sáp 
nhập, mua lại hoặc liên minh chiến lược 
(Wheelen & Hunger, 2006). 
Ngoài ra, chiến lược đa dạng hóa cũng có 
thể được phân loại thành: đa dạng hóa công 
nghiệp và đa dạng hóa toàn cầu như một số 
tác giả Jiraporn và các cộng sự (2006) hoặc 
Salama và Putnam (2013) đề xuất. Jiraporn 
và các cộng sự (2006) đã thu thập 1862 mẫu 
quan sát từ các doanh nghiệp của Mỹ vào 
năm 1993, 1995 và 1998 từ tệp Research 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
95 
Insight COMPUSTAT Industrial Segment 
(CIS) và tệp Geographic Segment (CGS), và 
họ phân loại chiến lược đa dạng hóa thành 
bốn chế độ khác nhau (Tập trung, Chỉ đa 
dạng hóa công nghiệp, Chỉ đa dạng hóa toàn 
cầu và Kết hợp đa dạng hóa công nghiệp và 
toàn cầu) tùy thuộc vào số lượng phân khúc 
mà một công ty đã báo cáo trong tệp CIS 
cùng với báo cáo về doanh số bán hàng nước 
ngoài trong tệp CGS (Hình 3). Hình 3 cho 
thấy theo Jiraporn và các cộng sự (2006), 
chiến lược đa dạng hóa toàn cầu trong một 
công ty sẽ xảy ra khi công ty có ít nhất một 
phân khúc kinh doanh hoạt động bên ngoài 
quốc gia. Được cập nhật nhiều hơn nghiên 
cứu của Jiraporn và các cộng sự (2006), 
Salama và Putnam (2013) đã sử dụng một 
mẫu gồm 5985 quan sát năm từ các công ty ở 
Mỹ từ năm 2002 đến năm 2006, được thu 
thập từ COMPUSTAT và cơ sở dữ liệu của 
Corporate Library. Salama và Putnam (2013) 
cũng phân loại một công ty là công ty đa 
dạng hóa toàn cầu nếu có ít nhất một phân 
khúc nước ngoài, nhưng tổng doanh số bán 
hàng nước ngoài của nó cần phải lớn hơn 0. 
2.2. Các cách phân loại ngành công nghiệp 
phổ biến trên thế giới 
Ngày nay, có ba hướng phân loại ngành 
công nghiệp chính được áp dụng trên thế 
giới. Cách phân loại đầu tiên là Phân loại 
ngành công nghiệp tiêu chuẩn (Standard 
Industrial Classification-SIC) được thiết lập 
bởi Chính phủ Hoa Kỳ vào năm 1937 và sau 
đó được thay thế bởi Hệ thống phân loại 
ngành công nghiệp Bắc Mỹ (North American 
Industrial Classification System-NAICS) do 
Chính phủ Hoa Kỳ, Mexico và Canada ban 
hành năm 1997. Cho đến nay NAICS đã 
được cập nhật ba lần với các phiên bản mới 
(NAICS 2002, NAICS 2007 và NAICS 
2012). Cách phân loại thứ hai được Liên Hợp 
Quốc thông qua là Phân loại công nghiệp tiêu 
chuẩn quốc tế cho tất cả các hoạt động kinh 
tế (International Standard Industrial 
Classification of All Economic Activities-
ISIC) được phát hành năm 1948 và được sửa 
đổi theo thời gian. Bản sửa đổi thứ tư của 
ISIC (ISIC, Rev.4) được ban hành năm 2008 
vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. Cuối 
cùng, cách phân loại thứ ba là Tiêu chuẩn 
phân loại công nghiệp toàn cầu (Global 
Industry Classification Standard-GICS) do 
Standard & Poor dòng và MSCI giới thiệu 
năm 1999 với mục đích tạo ra một tiêu chuẩn 
toàn cầu để phân loại các công ty niêm yết 
thành các ngành và nhóm ngành khác nhau. 
Cấu trúc GICS đã được cập nhật và thay đổi 
hàng năm kể từ năm 2002 cùng với sự phát 
triển của môi trường đầu tư toàn cầu. Các chi 
tiết về lịch sử và sự phát triển của các cách 
phân loại ngành công nghiệp chính này được 
minh họa trong Hình 4. 
Bảng 1: 
ISIC Rev. 4 và cách phân loại ngành công nghiệp 
ở Việt Nam 
 ISIC 
Rev. 
4 
Cách phân 
loại ngành 
công nghiệp 
ở Việt Nam 
Số lượng ngành cấp 1 với 
mã theo bảng chữ cái 
21 21 
Số lương ngành cấp 2 với 
mã hai chữ số 
88 88 
Số lương ngành cấp 3 với 
mã ba chữ số 
238 242 
Số lương ngành cấp 4 với 
mã bốn chữ số 
419 437 
Số lương ngành cấp 5 với 
mã năm chữ số 
0 642 
Nguồn: do tác giả lập 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
96 
2.3. Các quy định về phân loại ngành công 
nghiệp ở Việt Nam 
Vào ngày 23 tháng 01 năm 2007, Việt 
Nam đã ban hành một quy định chính thức 
liên quan đến việc phân loại ngành công 
nghiệp. Đó là quyết định số 10/2007/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc công 
bố hệ thống các ngành kinh tế tại Việt Nam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
97 
Sau quyết định này, ngày 10 tháng 4 năm 
2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã 
đưa ra quyết định số 337/QĐ-BKH về việc 
ban hành quy định nội dung trong hệ thống 
các ngành kinh tế tại Việt Nam. Hai tài liệu 
này vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. 
Theo quy định của các tài liệu trên, cách 
phân loại ngành kinh tế ở Việt Nam cho thấy 
sự tương đồng với cách Phân loại công 
nghiệp tiêu chuẩn quốc tế về tất cả các hoạt 
động kinh tế (ISIC)-bản sửa đổi lần thứ tư 
(ISIC Rev. 4). Theo đó, hệ thống các ngành 
kinh tế cũng bao gồm 21 nhóm ngành được 
gọi là Ngành cấp 1, được mã hóa theo thứ tự 
bảng chữ cái từ A đến U, và được phân loại 
chi tiết thành 88 Ngành cấp 2 thông qua bộ 
mã gồm hai chữ số. Bảng 1 cho thấy các 
phân loại công nghiệp theo quy định của 
ISIC Rev. 4 và theo các quyết định số 
10/2007/QĐ-TTg và số 337/QĐ-BKH về hệ 
thống các ngành kinh tế tại Việt Nam. 
Có thể thấy trong Bảng 1 rằng ISIC Rev. 
4 và cách phân loại ngành kinh tế của Việt 
Nam có sự tương đồng về cách nhận biết liệu 
một công ty có đa dạng hóa không liên quan 
hay không bằng cách xem xét liệu công ty có 
hoạt động trong nhiều ngành được mã hóa 
bởi 2 chữ số hay không. Tuy nhiên, xét về 
cách nhận diện chiến lược đa dạng hóa liên 
quan thì có một vài khác biệt giữa hai hệ 
thống phân loại này. Số lượng nhóm ngành 
và ngành chi tiết trong hệ thống phân loại 
ngành kinh tế của Việt Nam nhiều hơn so với 
hệ thống phân loại ngành công nghiệp trong 
ISIC Rev. 4. Cụ thể là, có 242 nhóm ngành 
(gồm các ngành cấp 1, cấp 2, và cấp 3) và 
437 ngành chi tiết (gồm các ngành cấp 4 và 
cấp 5) trong hệ thống phân loại ngành kinh tế 
của Việt Nam so với 238 nhóm ngành và 419 
ngành chi tiết trong ISIC Rev. 4. Sự khác biệt 
này có thể xuất phát từ việc chính phủ Việt 
Nam muốn việc phân loại chi tiết hơn phù 
hợp với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. 
Ví dụ, có sự phân loại chi tiết hơn trong 
nhóm ngành mã 45 “Bán, sửa chữa ô tô, mô 
tô, xe máy và xe có động cơ khác” tại Việt 
Nam so với cách phân loại trong ISIC Rev. 4 
(Bảng 2). 
Bảng 2: 
Hệ thống các ngành chi tiết trong nhóm ngành 
mã số 45 
ISIC Rev. 4 Hệ thống phân loại 
ngành ở Việt Nam 
Ngành mã 45: Bán 
buôn, bán lẻ và sửa 
chữa xe cơ giới và xe 
máy 
Ngành mã 45: Bán, sửa 
chữa ô tô, mô tô, xe máy 
và xe có động cơ khác 
Ngành mã 451: Bán 
xe cơ giới 
Ngành mã 451: Bán ô tô 
và xe có động cơ khác 
Ngành mã 4510: Bán 
xe cơ giới 
Ngành mã 4511: Bán 
buôn ô tô và xe có động 
cơ khác 
Ngành mã 4512: Bán lẻ 
ô tô con (loại 12 chỗ 
ngồi trở xuống) 
Ngành mã 4513: Đại lý 
ô tô và xe có động cơ 
khác 
Nguồn: ISIC Rev. 4 và Quyết định số 
10/2007/QĐ-TTg vào ngày 23 tháng 01 năm 
2007) 
Hơn nữa, trong hệ thống phân loại ngành 
kinh tế của Việt Nam, các ngành mã hóa 4 
chữ số lại tiếp tục được chia thành các ngành 
với mã 5 chữ số. Điều này không tồn tại 
trong ISIC Rev. 4. Ví dụ, Bảng 3 minh họa 
các ngành chi tiết trong nhóm ngành Xây 
dựng tại Việt Nam. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
98 
Bảng 3: 
Hệ thống các ngành chi tiết trong nhóm ngành Xây dựng tại Việt Nam 
F Xây dựng 
 41 410 4100 41000 Xây dựng nhà các loại 
 42 Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng 
 421 4210 Xây dựng công trình đường sắt và đường bộ 
 42101 Xây dựng công trình đường sắt 
 42102 Xây dựng công trình đường bộ 
 422 4220 42200 Xây dựng công trình công ích 
 429 4290 42900 Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác 
 43 Hoạt động xây dựng chuyên dụng 
 431 Phá dỡ và chuẩn bị mặt bằng 
 4311 43110 Phá dỡ 
 4312 43120 Chuẩn bị mặt bằng 
 432 Lắp đặt hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước và lắp đặt xây dựng khác 
 4321 43210 Lắp đặt hệ thống điện 
 4322 Lắp đặt hệ thống cấp, thoát nước, lò sưởi và điều hoà không khí 
 43221 Lắp đặt hệ thống cấp, thoát nước 
 43222 Lắp đặt hệ thống lò sưởi và điều hoà không khí 
 4329 43290 Lắp đặt hệ thống xây dựng khác 
 433 4330 43300 Hoàn thiện công trình xây dựng 
 439 4390 43900 Hoạt động xây dựng chuyên dụng khác 
Nguồn: ISIC Rev. 4 và Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg vào ngày 23 tháng 01 năm 2007 
3. Thực trạng công bố thông tin về lĩnh 
vực hoạt động kinh doanh của các công ty 
niêm yết trên thị trường chứng khoán ở 
Việt Nam 
Mặc dù Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg 
của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã chỉ ra 
hệ thống mã ngành cụ thể cho các ngành từ 
cấp 1 đến cấp 5 nhưng thực tế, đối với các 
công ty niêm yết trên thị trường chứng 
khoán, hệ thống mã này chỉ được sử dụng khi 
công ty đăng ký các ngành, nghề kinh doanh 
với Sở Kế hoạch và Đầu tư ở thành phố hoặc 
tỉnh nơi nó sẽ hoạt động hoặc đang hoạt 
động. Ví dụ, trong lần đăng ký thứ 4 để thay 
đổi lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công 
ty Cổ phần Bia Hà Nội - Hải Phòng (Mã 
chứng khoán: BHP) vào ngày 7 tháng 8 năm 
2013, các hoạt động kinh doanh của nó được 
liệt kê với các mã tương ứng như bảng 4. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
99 
Bảng 4: 
Các ngành kinh doanh được Công ty Bia Hà Nội 
(BHP) đăng ký với Sở Kế Hoạch và Đầu Tư từ 
ngày 7 tháng 8 năm 2013 
TT Tên ngành Mã ngành 
1 
Khai thác, xử lý và 
cung cấp nước 
36000 (Chính) 
2 
Sản xuất nước 
khoáng, nước tinh 
khiết đóng chai 
11041 
3 
Vận tải hàng hóa 
bằng đường bộ 
4933 
4 Khách sạn 55101 
5 
Nhà hàng, quán ăn, 
hàng ăn uống 
56101 
6 
Sản xuất nước uống 
có cồn và không cồn: 
bia các loại, rượu, 
nước ngọt 
Ngành, nghề chưa 
khớp mã với Hệ 
thống ngành kinh tế 
Việt Nam 
Nguồn: https://biahaiphong.vn/thong-bao-thay-
doi-giay-chung-nhan-dang-ky-kinh-doanh/ 
Trong khi đó, hai thị trường chứng khoán 
(Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh và 
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội) lại tuân 
theo các nguyên tắc phân loại ngành kinh tế 
khác với quy định của Quyết định số 
10/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ. 
Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh 
(HOSE) đã áp dụng Tiêu chuẩn phân loại 
công nghiệp toàn cầu (GICS) để phân loại 
ngành trên thị trường chứng khoán này thông 
qua 10 lĩnh vực (Năng lượng, Nguyên vật 
liệu, Công nghiệp, Hàng tiêu dùng thiết yếu, 
Mặt hàng tiêu dùng, Chăm sóc sức khỏe, Tài 
chính, Công nghệ thông tin, Dịch vụ viễn 
thông và Dịch vụ tiện ích ). Tuy nhiên, 
HOSE đã không trình bày mã chi tiết của 
GICS cho mỗi công ty niêm yết. Nó chỉ xác 
định lĩnh vực nào trong số 10 lĩnh vực trên 
mà công ty tham gia. Ví dụ, thông tin về các 
lĩnh vực kinh doanh của Công ty Cổ phần 
Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí 
Minh (Mã chứng khoán: CII) được ghi trên 
sàn như bảng 5. 
Bảng 5: 
Thông tin cơ bản của Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh ở HOSE 
 CII - Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 
Mã ISIN VN000000CII6 
Mã FIGI BBG000PM3W81 
Nhóm ngành Công nghiệp | Vận tải 
Vốn hóa thị trường (VND) 4,919,589,897,700 
Số cổ phiếu niêm yết (cổ phiếu) 283,168,152 
Số cổ phiếu lưu hành (cổ phiếu) 247,838,282 
Nguồn:  vào ngày 1 tháng 5 năm 2020 
Đối với Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội 
(HNX), HNX lại không tuân theo cách phân 
loại ngành kinh tế trên thế giới nào, cũng như 
không tuân theo cách phân loại của Quyết 
định số 10/2007/QĐ-TTg ở Việt Nam. HNX 
phân loại ngành, nghề hoạt động theo 10 lĩnh 
vực, khác với cách phân loại của HOSE. Cụ 
thể, 10 lĩnh vực gồm: Công nghiệp; Hoạt 
động chuyên môn, khoa học và công nghệ, 
hành chính và dịch vụ hỗ trợ; Hoạt động kinh 
doanh bất động sản; Khai khoáng và Dầu 
khí; Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản; 
Tài chính; Thông tin, truyền thông và các 
hoạt động khác; Thương mại và dịch vụ lưu 
trú, ăn uống; Vận tải kho bãi; và Xây dựng. 
Khi giới thiệu thông tin cơ bản của một công 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
100 
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán 
HNX, nội dung lĩnh vực kinh doanh của công 
ty này được trình bày theo một nhóm ngành 
chính trong danh sách 10 nhóm ngành kể 
trên. Bảng 6 thể hiện thông tin cơ bản của 
Công ty Cổ phần Sông Đà 6 (Mã chứng 
khoán: SD6) được hiển thị trên HNX. 
Bảng 6: 
Thông tin cơ bản của Công ty Cổ phần Sông Đà 6 (SD6) ở HNX 
 Tên công ty Công ty Cổ phần Sông Đà 6 (SD6) 
Mã đăng ký kinh doanh 4400135552 
Tên ngành Xây dựng 
Vốn điều lệ (VND) 347,716,110,000 
Số cổ phiếu niêm yết (cổ phiếu) 34,771,611 
Số cổ phiếu lưu hành (cổ phiếu) 34,771,611 
Nguồn:  vào ngày 1 tháng 5 năm 2020
4. Kết luận 
Bài báo này đã trình bày các hệ thống 
phân loại ngành nghề cho các doanh nghiệp 
trên thế giới và ở Việt Nam, và thực trạng 
công bố thông tin về phân loại ngành nghề 
của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy rằng quy định về 
phân loại ngành nghề ở Việt Nam khá giống 
với hệ thống phân loại ngành nghề theo tiêu 
chuẩn quốc tế về tất cả các hoạt động kinh tế 
(ISIC) theo phiên bản sửa đổi lần thứ 4 do cả 
hai hệ thống này đều bao gồm 21 phân khúc 
và 88 nhóm ngành trong hệ thống phân loại 
của chúng. Hai hệ thống phân loại này chỉ có 
một vài khác biệt về số lượng ngành chi tiết 
trong các nhóm ngành phản ánh sự đa dạng 
hóa liên quan mà doanh nghiệp áp dụng. 
Về mặt công bố thông tin về lĩnh vực hoạt 
động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm 
yết trên thị trường chứng khoán, có thể thấy 
rằng không có sự thống nhất trong việc công 
bố thông tin về phân loại ngành nghề của các 
công ty niêm yết giữa Sở giao dịch chứng 
khoán Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng 
khoán Hà Nội. Hơn nữa, cách phân loại 
ngành nghề mà hai sở giao dịch chứng khoán 
lựa chọn đều không nhất quán với quy định 
về phân loại ngành nghề theo quy định hiện 
hành của Việt Nam (cụ thể là theo quyết định 
số 10/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ). Điều này dẫn đến gây khó khăn cho các 
nhà đầu tư, và các nhà nghiên cứu trong việc 
nhận diện về loại chiến lược đa dạng hóa 
ngành nghề mà các doanh nghiệp Việt Nam 
áp dụng, từ đó ảnh hưởng đến các quyết định 
mà họ đưa ra. 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Đại học Đà Nẵng 
trong đề tài có mã số B2018-ĐN04-16 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(01) - 2020 
101 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Amit, R. & Livnat, J. (1988), Diversification strategies, business cycles and economic 
performance, Strategic Management Journal, 9, 99–110. 
Anderson, R. C., Bates, T. W., Bizjak J. M. & Lemmon, M. L. (2000), Corporate 
governance and firm diversification, Financial Management, 5-22. 
Ansoff, H. I. (1957), Strategies for diversification, Harvard Business Review, 35(5), 113-124. 
Berger, P. G. & Ofek, E. (1995), Diversification’s effect on firm value, Journal of Financial 
Economics, 37(1), 39–65. 
Jiraporn, P., Kim, Y. S., Davidson, W. N. & Singh, M. (2006), Corporate governance, 
shareholder rights and firm diversification: An empirical analysis, Journal of Banking 
and Finance, 30(3), 947-963. 
Kim, B. G. & Chen, K. C. (2010), The relationships among corporate governance structure, 
business diversification and corporate value: Evidence from Korean firms, Journal of 
Emerging Markets, 15(1), 7-22. 
Lien, Y. C. & Li, S. (2013), Does diversification add firm value in emerging economies? 
Effect of corporate governance, Journal of Business Research, 66, 2425–2430. 
Ramanujam, V. & Varadaraja, P. (1989), Research on corporate diversification: A synthesis, 
Strategic Management Journal, 10, 523-551. 
Salama, F. M. & Putnam, K. (2013), The impact of corporate governance on the financial 
outcomes of global diversification, The International Journal of Accounting, 48, 364–389. 
Wheelen, T. L. & Hunger, J. D. (2006), Strategic Management and Business Policy (Tenth 
Edition), United States of America: Pearson Prentice Hall. 

File đính kèm:

  • pdfphan_loai_nganh_nghe_bat_cap_trong_viec_cong_bo_thong_tin_tr.pdf