Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam-Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới
Phân hạng thị trường là cách thức sắp xếp các thị trường chứng khoán (TTCK) vào
các nhóm phù hợp về các tiêu chí cơ bản như mức độ phát triển của nền kinh tế,
sự ổn định về chính trị, quy mô và tính thanh khoản của thị trường, hiệu quả vận
hành của thị trường, khả năng lưu chuyển dòng vốn Việc nghiên cứu và phân
hạng TTCK trên thế giới, ngoài mục tiêu xác định rõ vị trí của từng thị trường trong
bức tranh tổng thể, còn giúp xác định các điều kiện để các thị trường định hướng
phát triển trong tương lai, tiến tới nâng hạng thị trường nhằm thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, tăng tính thanh khoản của thị trường và cuối cùng là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Tính đến thời điểm hiện tại, cả ba tổ chức đánh giá phân hạng
thị trường gồm MSCI, FTSE và S&P đều xếp hạng Việt Nam ở mức thị trường cận
biên. Tuy nhiên, ở một số tiêu chí xếp hạng, TTCK Việt Nam đã có những cải thiện
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam-Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 219- Tháng 8. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới Trần Thị Xuân Anh Phạm Tiến Mạnh Trần Anh Tuấn Ngày nhận: 11/02/2020 Ngày nhận bản sửa: 21/02/2020 Ngày duyệt đăng: 17/03/2020 Phân hạng thị trường là cách thức sắp xếp các thị trường chứng khoán (TTCK) vào các nhóm phù hợp về các tiêu chí cơ bản như mức độ phát triển của nền kinh tế, sự ổn định về chính trị, quy mô và tính thanh khoản của thị trường, hiệu quả vận hành của thị trường, khả năng lưu chuyển dòng vốn Việc nghiên cứu và phân hạng TTCK trên thế giới, ngoài mục tiêu xác định rõ vị trí của từng thị trường trong bức tranh tổng thể, còn giúp xác định các điều kiện để các thị trường định hướng phát triển trong tương lai, tiến tới nâng hạng thị trường nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tăng tính thanh khoản của thị trường và cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tính đến thời điểm hiện tại, cả ba tổ chức đánh giá phân hạng thị trường gồm MSCI, FTSE và S&P đều xếp hạng Việt Nam ở mức thị trường cận biên. Tuy nhiên, ở một số tiêu chí xếp hạng, TTCK Việt Nam đã có những cải thiện Vietnam stock market classification- Issues raised in the near future Abstract: Market classification is method of arranging a stock market into a suitable group which is based on basic criteria such as the level of economics development, political stability, scale and liquidity of market as well as performance and capital flow of the market. The purposes of market research and classification market are realizing the current positions of the markets to help them upgrade in a higher market classification, attracting foreign capital, enhancing market liquidity and improving economy in the future. Up to now, MSCI, FTSE and S&P have ranked Vietnam at frontier market. However, in Vietnam stock market, some important criteria have been significantly improved recently, beside others needs to upgrade. This paper is going to insightful analyzed these current situations to find out the issues which are needed to be focused to improvement in near future to enhance Vietnam stock market classification. Keywords: market classification, stock market, frontier market, emerging market Anh Thi Xuan Tran Email: anhttx@hvnh.edu.vn Manh Tien Pham Email: manhpham@hvnh.edu.vn Tuan Anh Tran Email: trantuan@hvnh.edu.vn Organization of all: Faculty of Finance, Banking Academy of Vietnam Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 37Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đáng kể bên cạnh những tiêu chí chưa đủ đánh giá nâng hạng. Bài viết làm rõ về độ mở và mức độ tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như các hạn chế về quy và thanh khoản thị trường nhằm đưa ra những vấn đề cần chú trọng trong thời gian tới để TTCK Việt Nam đạt được mục tiêu nâng hạng. Từ khoá: phân hạng thị trường, thị trường chứng khoán, thị trường cận biên, thị trường mới nổi 1. Đặt vấn đề Việc phân hạng thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế giới hiện nay được thực hiện bởi ba tổ chức tài chính lớn gồm MSCI, FTSE Russell, S&P Down Jone. Đây là những tổ chức chuyên xây dựng các bộ chỉ số về TTCK với mục đích hỗ trợ các nhà đầu tư trên thế giới đánh giá các cơ hội đầu tư trên thị trường quốc tế. Các tổ chức này thường phân chia thị trường thành ba nhóm chính, đó là nhóm thị trường phát triển; thị trường mới nổi và thị trường cận biên. Mỗi một tổ chức lại dựa trên các cơ sở, quan điểm, phương pháp luận riêng biệt khi đưa ra các tiêu chí phân loại thị trường của mình, nhưng nhìn chung có một số tiêu chí chung trong phân hạng thị trường được các tổ chức này sử dụng, đó là: (1) Quy mô thị trường; (2) Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; (3) Khả năng tự do chuyển đổi ngoại tệ; (4) Phương thức thanh toán sau giao dịch; và (5) Giao dịch bán khống và cho vay chứng khoán trên thị trường. Việc phân hạng thị trường của từng tổ chức luôn có ý nghĩa nhất định đối với từng chủ thể tham gia thị trường trong việc theo đuổi và thực hiện các mục tiêu của mình. TTCK phát triển thường thuộc về các quốc gia đã phát triển. Đối với thị trường này, các điều kiện tài chính rất lý tưởng như có tính thanh khoản rất cao; hành lang pháp lý chặt chẽ, đầy đủ; quy mô thị trường vốn lớn; đặc biệt là người dân có mức thu nhập bình quân rất cao. Các quốc gia điển hình có TTCK được xếp hạng là phát triển như Mỹ, Canada, Đức, Anh, Australia, New Zealand, Nhật Bản Tuy nhiên trên thực tế, mỗi một quốc gia lại có những đặc thù TTCK riêng biệt, do đó trong một số trường hợp, một quốc gia có thể vừa được xếp hạng là thị trường phát triển, đồng thời được xếp hạng là thị trường mới nổi. Ví dụ, năm 2010 Hàn Quốc được xếp hạng là quốc gia có TTCK phát triển theo tiêu chuẩn của MSCI; nhưng nếu xét theo quy chuẩn của FTSE, quốc gia này lại được xếp vào TTCK mới nổi. Đối với TTCK mới nổi và thị trường cận biên, tiêu chuẩn để phân biệt có phần phức tạp hơn. Quốc gia có TTCK mới nổi, được hiểu là quốc gia đang trong quá trình tăng trưởng và phát triển nhanh, nhưng có mức thu nhập bình quân đầu người và mức độ phát triển của thị trường thấp hơn so với các quốc gia phát triển. Ví dụ như các nước trong nhóm BRICs, Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Thị trường cận biên được hiểu là thị trường bên trong (các tiêu chuẩn nhỏ hơn) của thị trường mới nổi. Có thể hiểu đơn giản, thị trường cận biên có thể là thị trường mới nổi, hoặc sắp trở thành thị trường mới nổi, nhưng thị trường mới nổi không thể là thị trường cận biên. Cụ thể hơn, thị trường cận biên có quy mô thị trường nhỏ hơn, có mức độ thanh khoản nhỏ hơn, có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn so với Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 các quốc gia phát triển, và cả với các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, do các quốc gia có TTCK được xếp hạng mức cận biên chưa trải qua các giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ nên có tiềm năng tăng trưởng rất lớn trong tương lai, vì thế rất được các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm quan tâm và đầu tư vào. Thị trường cận biên bao gồm các quốc gia nhóm CIVETS (Colombia, Indonesia, Việt Nam, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi) và các quốc gia khác như Nigeria, Bangladesh, Botswana. Cũng giống như sự khác biệt giữa những quốc gia có TTCK phát triển và các quốc gia có TTCK mới nổi, sự khác biệt giữa thị trường mới nổi truyền thống và thị trường cận biên có thể khác nhau dựa trên những yếu tố nhất định, tuy nhiên đôi khi ranh giới giữa sự khác biệt này chưa rõ ràng. Ví dụ Colombia có thể được coi là thị trường mới nổi, trong khi đồng thời được một số tổ chức tài chính coi là thị trường cận biên. Với các nhóm nước thuộc phân hạng thị trường cận biên, việc cố gắng được nâng hạng lên nhóm thị trường mới nổi hoặc được đưa vào nhóm danh sách chờ nâng hạng luôn là cơ hội tốt để khẳng định vị trí trên thị trường tài chính quốc tế, song quan trọng hơn cả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường mức thanh khoản của thị trường nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn hỗ trợ phát triển kinh tế. Đây cũng chính là vấn đề đang đặt ra cho TTCK Việt Nam trong thời gian tới nhằm phát triển và đa dạng hoá nguồn vốn trung và dài hạn trong hệ thống tài chính, từ đó giảm gánh nặng đối với hệ thống ngân hàng thương mại. 2. Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam Tính đến thời điểm hiện tại, cả ba tổ chức đánh giá phân hạng thị trường gồm MSCI, FTSE và S&P đều xếp hạng Việt Nam ở mức thị trường cận biên. Tuy nhiên, ở một số tiêu chí xếp hạng, TTCK Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể bên cạnh những tiêu chí chưa đủ đánh giá nâng hạng. Cụ thể như sau: (1) Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam theo FTSE Russell Ngày 27/9/2018, FTSE Russell đưa TTCK Việt Nam vào danh sách theo dõi nâng hạng từ thị trường cận biên (Frontier Market) lên thị trường mới nổi hạng hai (Secondary Emerging Market). Đây được xem là tín hiệu tích cực phản ánh nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả TTCK Việt Nam. Trong nhóm các tiêu chí đánh giá đạt (9/21), hoạt động về giao dịch, lưu ký và thanh toán được đánh giá cao. Tuy nhiên vẫn còn 7/21 tiêu chí “hạn chế” và 3 tiêu chí không đạt gồm (FTSE, 2018): - Thanh toán- tự do chuyển nhượng chứng khoán - Cho phép bán khống - TTCK phái sinh phát triển. Tại kỳ đánh giá tháng 3/2019, FTSE Russell đánh giá 7/21 tiêu chí ở mức “Đạt”, 9/21 tiêu chí mức “Hạn chế”, 3/21 tiêu chí “Không đạt”, một tiêu chí giao dịch T+2 và một tiêu chí không có dữ liệu xác định (N/A). FTSE Russell đã có sự thay đổi về những tiêu chí đánh giá trị trường trong đợt này. Cụ thể về việc đánh giá theo từng tiêu chí như sau (FTSE, 2019): - Thị trường phái sinh phát triển: Thay đổi tích cực, chuyển từ trạng thái “Không đạt” sang “Hạn chế”. TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 39Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng - Tỉ lệ các giao dịch thất bại hiếm: Chuyển từ trạng thái “Đạt” sang “N/A” (Không có dữ liệu xác định do các thông lệ thị trường trong việc kiểm tra trước giao dịch. - Lưu kí: Quản lý tài khoản tách biệt có sẵn cho nhà đầu tư quốc tế: Hạ từ “Đạt” xuống “Hạn chế”. - Giao dịch ngoại hối: Tiêu chí này bị hạ từ “Hạn chế” xuống “Không đạt”. Như vậy, trong đợt đánh giá này, TTCK Việt Nam chỉ có sự cải thiện trong việc đánh giá thị trường phái sinh, nhưng lại “thụt lùi” về ba tiêu chí liên quan đến giao dịch, lưu kí. Trong kỳ đánh giá tháng 9/2019, Việt Nam tiếp tục được giữ lại trong danh sách theo dõi (Watch List) để phân loại. Như vậy, Việt Nam vẫn chưa được chính thức nâng hạng lên thị trường mới nổi loại hai trong kỳ đánh giá thường niên này do vẫn chưa có bất kỳ sự cải thiện lớn và rõ rệt nào nhằm khắc phục những thiếu sót của TTCK Việt Nam so với thời điểm FTSE đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi nâng hạng hồi tháng 9/2018, đặc biệt là khi Luật Chứng khoán sửa đổi đã được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ 8 diễn ra vào cuối tháng 11/2019). Theo kết quả của kỳ đánh giá và xem xét tạm thời diễn ra vào tháng 3/2019, Việt Nam đã thỏa mãn 7/9 điều kiện tiên quyết để được nâng hạng lên thị trường mới nổi loại hai. Hai tiêu chí còn lại là “Thanh toán- Ít có giao dịch thất bại” và “Thanh toán bù trừ”. Trong 2 tiêu chí này, chỉ có tiêu chí thứ 2 là Việt Nam được đánh giá là vẫn còn cần phải cải thiện, còn tiêu chí đầu tiên là tiêu chí mà FTSE cho rằng cần phải có thông tin để đánh giá chứ không phải là không đạt (FTSE, 2019). Cũng theo công bố của FTSE, danh sách theo dõi được duy trì cho cả vốn chủ sở hữu và thu nhập cố định nhằm theo dõi các điều kiện đầu tư và đảm bảo tính minh bạch của thị trường. (2) Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam theo MSCI Theo đánh giá của MSCI (2019), TTCK Việt Nam hiện đang được xếp hạng ở nhóm các thị trường sơ khai (Frontier market) cùng với các thị trường khác trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương như Sri Lanka và Bangladesh. Cụ thể, về nhóm tiêu chí định lượng, ngoại trừ nhóm tiêu chí A không cần điều kiện thì thị trường Việt Nam đã đáp ứng hoàn toàn đầy đủ các tiêu chí nhóm B- có ít nhất ba doanh nghiệp đạt được các điều kiện gồm: - Tổng quy mô vốn hoá đạt 1,375 triệu USD. - Vốn hoá tự do đạt 687 triệu USD. - Tỷ lệ giá trị giao dịch hằng năm đạt tối thiểu 15%. Đối với nhóm tiêu chí định tính, kết quả đánh giá của MSCI trong giai đoạn 2015- 2019 đối với TTCK Việt Nam cho thấy, từ 2015- 2017 thị trường Việt Nam có 10/17 tiêu chí cần phải cải thiện. Vì vậy Việt Nam cũng là thị trường có số tiêu chí cần phải cải thiện nhiều nhất trong nhóm thị trường sơ khai. Cụ thể, trong kỳ đánh giá tháng 6/2017, MSCI nhấn mạnh một số vấn đề chính của TTCK Việt Nam gồm: - Giới hạn sở hữu nước ngoài có một số cải thiện nhất định qua việc nới lỏng giới hạn sở hữu nhưng vẫn bị khống chế đối với việc sở hữu các doanh nghiệp trong nhóm ngành có điều kiện, nhạy cảm, đồng thời thị Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 trường cổ phiếu bị ảnh hưởng lớn bởi vấn đề giới hạn room nước ngoài. - Quyền công bằng đối với nhà đầu tư nước ngoài đã có thêm nhiều thông tin công bố trên sàn và trên trang web của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (VSD) có thể tìm thấy bằng tiếng Anh. Mặc dù vậy, thông tin Bảng 1. Kết quả đánh giá phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam của FTSE Russell Các tiêu chí đánh giá TTCK Việt Nam của FTSE Russell Đánh giá T9/2018 Đánh giá T3/2019 Đánh giá T9/2019 Thị trường và môi trường pháp lý Cơ quản quản lý TTCK chính thức chủ động giám sát thị trường (SEC, FSA, SFC) Đạt Đạt Đạt Đối xử công bằng với cổ đông thiểu số Hạn chế Hạn chế Hạn chế Không hạn chế hoặc hạn chế chọn lọc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài Hạn chế Hạn chế Hạn chế Không phản đối hoặc hạn chế đáng kể hoặc hình phạt áp dụng cho khoản đầu tư vốn hoặc rút vốn và thu nhập Đạt Đạt Đạt Thị trường vốn tự do và phát triển Hạn chế Hạn chế Hạn chế Thị trường ngoại hối tự do và phát triển Hạn chế Hạn chế Hạn chế Không có hoặc quá trình đăng ký đơn giản cho nhà đầu tư nước ngoài Hạn chế Hạn chế Hạn chế Lưu ký và thanh toán Tỷ lệ các giao dịch thất bại hiếm Đạt N/A N/A Lưu ký- cạnh tranh hiệu quả để đảm bảo dịch vụ lưu lý chất lượng cao Đạt Đạt Đạt Thanh toán- T+2/T+3 T+2 T+2 T+2 Thanh toán- Tự do chuyển nhượng chứng khoán Không đạt Không đạt Không đạt Lưu ký- quản lý tài khoản tách biệt có sẵn cho nhà đầu tư quốc tế Đạt Hạn chế Hạn chế Hoạt động giao dịch Môi giới- cạnh tranh hiệu quả để đảm bảo dịch vụ môi giới chất lượng cao Đạt Đạt Đạt Thanh khoản- giá trị giao dịch đủ cho đầu tư quốc tế Đạt Đạt Đạt Chi phí giao dịch- chi phí ngầm định và chính thức phải hợp lý và cạnh tranh Đạt Đạt Đạt Cho phép vay mượn cổ phiếu Hạn chế Hạn chế Hạn chế Cho phép bán khống Không đạt không đạt Không đạt Giao dịch ngoại hối Hạn chế Không đạt Không đạt Cơ chế giao dịch hiệu quả Hạn chế Hạn chế Hạn chế Tính minh bạch- thông tin chuyên sâu về thị trường, có tính hiển thị và báo cáo quá trình giao dịch kịp thời Đạt Đạt Đạt Phái sinh Thị trường phái sinh phát triển Không đạt Không đạt Không đạt Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ FTSE 2018-2019 TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 41Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng doanh nghiệp có liên quan không phải lúc nào cũng được cung cấp bản tiếng Anh. - Mức độ tự do trên thị trường ngoại hối vẫn chưa được cải thiện do thiếu thị trường giao dịch ngoại hối tại nước ngoài (offshore currency market) gây khó khăn trong vi ... hòa Séc, Hungary vào danh sách theo dõi nâng hạng từ thị trường mới nổi lên thị trường phát triển. Như vậy, về cơ bản, Việt Nam đã thỏa mãn các điều kiện định lượng liên quan tới quy mô thị trường và quy mô giao dịch. Các điều kiện định tính là những rào cản cuối cùng để MSCI cũng như các tổ chức phân loại thị trường khác như FTSE và S&P cân nhắc khả năng nâng hạng. Ở kịch bản thuận lợi nhất, Việt Nam có thể được MSCI nâng hạng lên thị trường mới nổi vào năm 2020, trước đó cần ít nhất 1 năm để MSCI xin ý kiến tư vấn đánh giá từ cộng đồng đầu tư quốc tế, và thêm 1 năm để các quỹ đầu tư chuẩn bị cho các thay đổi và tái cơ cấu các danh mục đầu tư. Theo lịch định kỳ, tháng 6/2020 sẽ là thời điểm MSCI công bố kết quả đánh giá phân loại thị trường hàng năm và chuẩn bị danh sách các thị trường cần tư vấn đánh giá cho kỳ tiếp theo. 3. Những vấn đề đặt ra Trong thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để cải thiện các hạn chế của thị trường dựa trên các đánh giá của MSCI, FTSE Russell và S&P Dow Jones. Dù một số tiêu chí đã được cải thiện song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội nâng hạng thị trường trong thời gian tới. Một là, mức độ mở cửa của TTCK Việt Nam chưa tương xứng với quy mô thị trường và còn khá thấp so với các nước trong khu vực. Nhóm nghiên cứu Trần Thị Xuân Anh (2019) khảo sát về mức độ mở cửa hội nhập của TTCK Việt Nam với các thị trường trong khu vực ASEAN và Châu Á, trong đó thị trường Thái Lan được chọn là benchmark cho khu vực ASEAN và thị trường Nhật Bản là benchmark cho khu vực Châu Á khi tính hệ số beta (beta coefficient) và beta hội tụ (beta convergence). Kết quả cho thấy thước đo hệ số beta (beta coefficient) là thước đo được kỳ vọng có giá trị ước lượng xấp xỉ 1 thể hiện mức độ mở cửa hội nhập cao của thị trường trái phiếu quốc gia nghiên cứu với thị trường khu vực, tuy nhiên hệ số beta ước lượng được cho các quốc gia được khảo sát, gồm cả Việt Nam, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, chỉ đạt từ -0,5 tới 0,6 hàm ý mức độ mở cửa hội nhập ở mức thấp và trung bình (Biểu đồ 1). Mặc dù vậy, kể từ năm 2014, sau một giai đoạn (2011- 2013) duy trì ổn định quanh ngưỡng hội nhập thấp (-0,5 tới 0,2), mức độ mở cửa hội nhập thị trường trái phiếu của các quốc gia đã thể hiện xu hướng tăng rõ rệt, thể hiện triển vọng về giai đoạn hội nhập sâu rộng hơn của thị trường trái phiếu khu vực. Biểu đồ 1 cho thấy giá trị ước lượng hệ số beta của Việt Nam giai đoạn 2014- 2018 duy trì quanh ngưỡng 0 và 0,2, cho thấy mức độ mở cửa hội nhập tài chính với khu vực ở khía cạnh thị trường trái phiếu tương đối yếu và thấp nhất trong số các quốc gia nghiên cứu. Thậm chí, đánh giá mức độ mở cửa hội nhập của thị trường trái phiếu Việt Nam với thị trường Châu Á (đại diện bởi thị trường trái phiếu Nhật Bản) không đem lại kết quả có ý nghĩa thống kê, nghĩa là gần như không có sự liên kết với thị trường Châu Á. Kết quả ước lượng về hệ số beta và beta hội tụ cho thấy thị trường cổ phiếu của các nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 Philippines, Thái Lan, Singapore, Việt Nam) trong nghiên cứu có mức độ mở cửa hội nhập, nhìn chung khả quan hơn mức độ mở cửa hội nhập của thị trường trái phiếu, ở mức trung bình tới cao so với thị trường cổ phiếu khu vực Châu Á và thế giới (Biểu đồ 2 & 3). Với trường hợp của Việt Nam, mặc dù thị trường cổ phiếu Việt Nam đạt được mức độ hội nhập so với thị trường khu vực và thị trường thế giới cao hơn tương đối so với mức độ hội nhập của thị trường trái phiếu, mức độ hội nhập thị trường cổ phiếu Việt Nam vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với các thị trường khác trong khu vực. Ngoài ra, xét trong khung hội nhập của Quinn, Schindler và Toyoda (2011), Việt Nam thuộc về “nhóm quốc gia có chính sách mở cửa tài chính (thể hiện qua chỉ số KAOPEN) tuy nhiên lượng vốn luân chuyển thực tế thấp”. Đây cũng chính là đặc thù của các quốc gia kém phát triển với cơ sở hạ tầng kinh tế- tài chính chưa đủ mạnh để hấp thụ hiệu quả lợi ích của việc mở cửa hội nhập thị trường tài chính. Chính vì vậy, việc duy trì ổn định các cân đối vĩ mô đang được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện tốt, giúp tạo niềm tin cho cộng đồng đầu tư quốc tế. Quan trọng hơn, thị trường ngoại hối cần được tổ chức linh hoạt hơn để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển dòng vốn của nhà đầu tư ra vào lãnh thổ Việt Nam, từ đó góp phần tăng cường độ mở TTCK. Hai là, khả năng tiếp cận TTCK Việt Nam -.6 -.4 -.2 .0 .2 .4 .6 I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I II III IV I II III 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_Malaysia_Indonesia Beta_Philippines_Indonesia Beta_Singapore_Indonesia1 Beta_Thailand_Indonesia Beta_Vietnam_Indonesia Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) Biểu đồ 1. Hệ số beta (Beta Coefficient): Hội nhập thị trường trái phiếu khu vực TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 45Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đối với nhà đầu tư nước ngoài. Theo MSCI (2019), thị trường Việt Nam dù đã có cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế đối với khả năng thâm nhập và tiếp cận thị trường dành cho khối ngoại. Hiện tại nhà đầu tư nước ngoài đã có thể tìm kiếm thông tin về TTCK, các quy định giao dịch và thông tin trên trang web của VSD bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Bên cạnh đó, các báo cáo quan trọng như báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, công bố thông tin giao dịch của doanh nghiệp bằng tiếng Anh cũng đã được nhiều doanh nghiệp chú trọng hơn. Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp tuân thủ việc công bố các văn bản bằng tiếng Anh vẫn chưa thể gọi là nhiều. Trong năm 2017, số lượng doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo thường niên bằng tiếng Anh đạt 40 doanh nghiệp, tăng trưởng mạnh so với các năm trước đó. Dù vậy con số này vẫn còn khá ít nếu so với quy mô thị trường Việt Nam hiện tại. Nhằm cải thiện yếu tố này, thị trường Việt Nam đã có nhiều sự thay đổi lớn chỉ trong thời gian qua. Có thể kể đến như việc gia tăng khả năng tiếp cận cơ hội đầu tư dành cho khối ngoại thông qua kênh sản phẩm đầu tư Chứng quyền có bảo đảm giúp khối ngoại không bị giới hạn room nắm giữ chứng quyền trên tài sản cơ sở là các cổ phiếu thuộc nhóm Bluechip VN30. Điều này tạo ra lợi thế đầu tư so với nắm giữ cổ phiếu vốn bị giới hạn bởi quy định room ngoại. Sự ra đời của thị trường phái sinh trong tháng 8/2019 với sản phẩm đầu tư -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.2 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_China_MSCIAsia Beta_Indonesia_MSCIAsia Beta_S.Korea_MSCIAsia Beta_Malaysia_MSCIAsia Beta_Philippines_MSCIAsia Beta_Singapore_MSCIAsia Beta_Thailand_MSCIAsia Beta_Vietnam(HNX)_MSCIAsia Beta_Vietnam(VNI)_MSCIWorld Biểu đồ 2. Hệ số beta: Hội nhập thị trường cổ phiếu khu vực Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 đầu tiên là Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu VN30-Index đã chính thức tạo cơ hội cho nhà đầu tư kiếm lời theo chiều giá giảm. Tuy nhiên quy mô của thị trường phái sinh vẫn còn rất hạn chế, do đó trong thời gian tới cần tiếp tục phát triển đa dạng thêm các sản phẩm phái sinh nhằm tăng sức hút của thị trường cũng như tạo các cơ hội để nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hiện các chiến lược đầu tư khác nhau. Ba là, vấn đề về thanh toán bù trừ. Hiện nay Việt Nam vẫn là thị trường tiền mặt, nghĩa là phải có tiền trong tài khoản mới được giao dịch (pre-funding). Theo FTSE Russell, Việt Nam cần theo thông lệ quốc tế là thực hiện nhận cổ phiếu thì trả tiền (Delivery vs Payment - DvP), tức là chỉ cần kiểm tra số dư tiền vào ngày T+2 rồi thực hiện chuyển giao cổ phiếu và thanh toán, thay vì việc kiểm tra tài khoản và trừ tiền ngay tại thời điểm T+0. Nếu thay đổi được điểm này, TTCK Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế. Bốn là, vấn đề quy mô và thanh khoản thị trường. Theo số liệu từ VSD, tổng số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam hiện nay vào khoảng hơn 2,23 triệu tài khoản, chỉ chiếm khoảng 2% dân số, đây được coi là tỷ lệ khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, hiện nay số lượng các tài khoản do các nhà đầu tư cá nhân chiếm đa số (lên đến 99,4%, tính đến tháng 01/2019), sự tham gia của các nhà đầu tư cổ chức, đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm còn hạn chế (Phạm Tiến Mạnh, 2019). Một điều đáng lưu tâm đó là tỷ trọng giao dịch của các -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Beta_Indonesia_S&PGlobal100 Beta_Malaysia_S&PGlobal100 Beta_Philippines_S&PGlobal100 Beta_Singapore_S&PGlobal100 Beta_Thailand_S&PGlobal100 Beta_Vietnam(HNX)_S&PGlobal100 Beta_Vietnam(VNI)_S&PGlobal100 Biểu đồ 3. Hệ số beta: Hội nhập thị trường cổ phiếu thế giới Nguồn: Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019) TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN ANH TUẤN 47Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng nhà đầu tư nước ngoài luôn thấp hơn rất nhiều so với toàn bộ thị trường. Đơn cử số liệu giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE), tại năm 2011 tỷ lệ khối lượng mua chỉ đạt 13,68% (tương đương 23,37% giá trị), tỷ lệ khối lượng bán chỉ đạt 9,22% (tương đương 22,36% về giá trị); trong khi đó tỷ lệ mua-bán tương ứng tại HNX là 1,26% khối lượng mua (tương ứng 1,29% giá trị) và 1,23% khối lượng bán (tương ứng 1,28% giá trị); tại UPCOM là 1,08% khối lượng mua (tương ứng 2,03% giá trị) và 1,53% khối lượng bán (tương ứng 2,24% giá trị). Đến năm 2018, tại HOSE tỷ lệ khối lượng mua chỉ đạt 10,18% (tương đương 19,1% giá trị), tỷ lệ khối lượng bán chỉ đạt 6,77% (tương đương 19,44% về giá trị); trong khi đó tỷ lệ mua- bán tương ứng tại HNX là 2,45% khối lượng mua (tương ứng 3,79% giá trị) và 3,78% khối lượng bán (tương ứng 4,44% giá trị); tại UPCOM 6,99% khối lượng mua (tương ứng 15,64% giá trị) và 9,09% khối lượng bán (tương ứng 15,36% giá trị). Như vậy trong giai đoạn từ 2010- 2018, tỷ lệ về khối lượng và giá trị giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài tại TTCK Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, vì thế vấn đề cần thiết đặt ra là thu hút hơn nữa được đối tượng nhà đầu tư nước ngoài, nhằm nâng cao tính thanh khoản của TTCK Việt Nam. Đối với vấn đề quy mô thị trường, theo số liệu từ World Bank, tỷ lệ vốn hoá TTCK Việt Nam so với GDP có sự tăng trưởng khá nhanh qua các năm, từ mức 19,15% năm 2011, đã tăng lên 54,1% năm 2018, Biểu đồ 4. Tỷ trọng mua-bán của nhà đầu tư nước ngoài so với toàn thị trường tại HOSE Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp Biểu đồ 5. Tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán so với GDP (%) của Việt Nam1 Nguồn: Data.worldbank.org (2020) 1 Số liệu do WB thống kê chỉ bao gồm giá trị vốn hóa thị trường của những công ty nội địa đang niêm yết trên SGDCK Phân hạng thị trường chứng khoán Việt Nam- Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 và 78,6% năm 2019. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, tỷ lệ vốn hóa thị trường so với GDP ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn; ví dụ tại Malaysia là 160,25% năm 2010, 127,1% năm 2015 và 111% năm 2018; tại Ấn Độ, vốn hóa thị trường của những công ty trong nước niêm yết trên TTCK đã đạt 72,08% GDP vào năm 2015, tăng lên 76,63% năm 2018. Như vậy, muốn gia tăng vốn hóa thị trường, Việt Nam cần thiết khuyến khích, thúc đẩy các công ty niêm yết trên TTCK, đặc biệt cần đẩy nhanh và mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, như Agribank, Vinachem, Mobifone, Viecm, Genco 1, Genco 2 Như vậy, trong thời gian qua, mặc dù TTCK Việt Nam đã có sự cố gắng rất nhiều trong việc cải thiện các chỉ số với mục đích nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi; tuy nhiên thực tế cho thấy, TTCK Việt Nam vẫn còn rất nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, có thể kể đến đó là mức độ hội nhập về cổ phiếu của Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực; lượng vốn luân chuyển vẫn còn thấp, trong khi đó thị trường ngoại hối vẫn chưa cho thấy mức độ sôi động cần thiết khi so sánh với các quốc gia đã đạt được mức thị trường mới nổi. Ngoài ra, mức độ tiếp cận của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường còn hạn chế, đặc biệt vấn đề tiếp cận thông tin về công ty niêm yết về ngôn ngữ tiếng Anh. Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam còn nhiều hạn chế đối với thị trường phái sinh, khi sản phẩm còn chưa phong phú, đa dạng, chưa thực sự trở thành một kênh phòng chống rủi ro cho các nhà đầu tư; quy mô của thị trường và tính thanh khoản, đặc biệt là sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài so với tổng chung toàn thị trường vẫn còn nhiều hạn chế ■ Tài liệu tham khảo 1. Burnham, Gakidis, Wurgler- Investing in the Presence of Massive Flows: The case of MSCI Country Reclassifications- NBER Working Papers 2017 2. Databank.worldbank.org/source/world-development-indicators# 3. Dulieu.mbs.com.vn/vi/TransactionsForeign 4. FTSE Russell (2018)- FTSE Country Classification Process- March 2018 5. FTSE Russel (2019), FTSE Equity Country Classification Process 6. MSCI (2010) - MSCI Global Investable Market Indices Methodology – May 2010 7. MSCI (2015-2019) Global Market Accessibility Review 8. FTSE Russel (2017-2019), FTSE Equity Country Classification, Annual Report 9. MSCI (2019) Market Classification Framework 10. Nguyễn Quang Long (2015), Xếp hạng thị trường chứng khoán và giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ủy Ban, Ủy Ban chứng khoán Nhà nước. 11. Pham Tien Manh (2019), Venture Capital Worldwide and Policy Implication for Vietnam, International Journal of Advanced Engineering and Management Research, 4(02), pp. 39-45. 12. S&P Dow Jones Indicates (2017), S&P Dow Jones Indicates’ 2017 Country Classification Consultant Results 13. S&P Dow Jones Indicates (2018), S&P Dow Jones Indicates’ 2018 Country Classification Consultant Results 14. S&P Dow Jones Indicates (2019), Country Classification Methodology 15. S&P Dow Jones Indicates (2019), S&P Dow Jones Indicates’ 2019 Country Classification Consultant Results 16. S&P Dow Jones Indicates (2019), S&P Emerging Markets Core Index Methodology 17. S&P Dow Jones Indicates (2020), S&P Frontier Indicates Methodology 18. Saidi, Prasad, Naik- From frontier to emerging: Does market reclassification matter- SSRN Electric Journal 2010 19. Standard &Poor’s- Country Classification Methodology- August 2019 20. Trần Thị Xuân Anh và cộng sự (2019), Đánh giá định lượng mức độ hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam và hàm ý chính sách giai đoạn 2017-2020, Đề tài cấp ngành ĐTNN 012/18, NHNN
File đính kèm:
- phan_hang_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_nhung_van_de_dat_r.pdf