Nút hóa chất động mạch gan kinh điển sau nút hóa chất với hạt tải thuốc trong điều trị ung thư gan nguyên phát

I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư biểu mô tế bào gan - Hepatocellular carcinoma (HCC) là ung thư phổ biến thứ 5 trên toàn cầu với ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm [1], tại Việt Nam ung thư biểu mô tế bào gan cùng với ung thư phổi là ung thư hay gặp nhất. Hệ thống phân độ ung thư gan Barcelona (BCLC) thường được sử dụng, kết hợp giữa đặc điểm của khối u và chức năng gan còn lại, với các lựa chọn điều trị dựa trên y học bằng chứng [2-4]. HCC ít khi được chẩn đoán sớm, thường được chẩn đoán khi ở giai đoạn trung gian (BCLC stage B) hoặc giai đoạn tiến triển (BCLC stage C), ở giai đoạn tiến triển phương pháp điều trị chỉ còn là các biện pháp điều trị giảm nhẹ, với thời gian sống thêm ngắn [5],[6]. Nút hóa chất động mạch gan kinh điển (cTACE) là phương pháp được đề nghị đối với các u lớn không có triệu chứng hoặc nhiều u nhỏ không kèm xâm lấn mạch máu hoặc di căn ngoài gan (BCLC stage B) [3]. cTACE sử dụng hóa chất (Doxorubicin, Epirupicin.) trộn với Lipiodol lỏng dạng dầu, cản quang tạo thành hỗn dịch khi được bơm vào nhánh động mạch cấp máu cho khối ung thư gan nguyên phát có tác dụng tắc mạch và tăng hiệu quả của hóa điều trị ung thư. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp là hội chứng sau nút mạch: đau bụng, sốt, buồn nôn, nôn, tăng men gan hay gặp, đặc biệt là các khối u có kích thước lớn, ngoài ra nồng độ hóa chất trong huyết thanh cao sau nút mạch. Nút hóa chất động mạch gan với hạt tải thuốc (DEB-TACE) sử dụng các hạt nút mạch có kích thước khác nhau khi trộn với hóa chất tạo thành các liên kết hóa học, các hạt khi đã được tải thuốc này sau khi bơm vào động mạch cấp máu cho khối u gan gây tắc mạch và giải phóng hóa chất từ từ làm tăng độ tập trung hóa chất vào khối u và giảm độc tính toàn thân so với cTACE,.

 

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nút hóa chất động mạch gan kinh điển sau nút hóa chất với hạt tải thuốc trong điều trị ung thư gan nguyên phát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nút hóa chất động mạch gan kinh điển sau nút hóa chất với hạt tải thuốc trong điều trị ung thư gan nguyên phát

Nút hóa chất động mạch gan kinh điển sau nút hóa chất với hạt tải thuốc trong điều trị ung thư gan nguyên phát
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
* Khoa chẩn đoán hình ảnh 
Bệnh viện Việt Đức, 
** Khoa chẩn đoán hình ảnh 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
*** Bộ môn chẩn đoán hình 
ảnh Trường Đại học Y Hà Nội
NÚT HÓA CHẤT ĐỘNG MẠCH GAN KINH 
ĐIỂN SAU NÚT HÓA CHẤT VỚI HẠT TẢI 
THUỐC TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ GAN 
NGUYÊN PHÁT
Sequential transcatheter arterial chemoembolization 
and chemoembolization with drug-eluting beads for 
the treatment of hepatocellular carcinoma
Lê Thanh Dũng*, Trần Việt Hùng**, Vũ Hoài Linh*, 
Nguyễn Duy Hùng*** , Đào Xuân Hải*, Nguyễn Mậu Định*, 
Phan Nhật Anh***, Thân Văn Sỹ*
Conventional transcatheter arterial chemoembolization (cTACE) and 
chemoembolization with drug-eluting beads (DEB-TACE) are increasingly 
being performed interchangeably in many centers throughout the world. 
The introduction of DEB-TACE brought more technical standardization 
and reduction of TACE related toxicity. However, there are several 
problems when perform DEB-TACE technique (requires super-selective 
embolization of the tumors, rate of abscess formation after DEB-TACE 
is higher than after conventional TACE,). At our center, Multi-detector 
computed tomography (MDCT) and magnetic resonance imaging (MRI) 
are usually used to evaluate treatment response after cTACE or DEB-TACE 
with the use of dynamic radiologic response evaluation criteria mRECIST. 
MDCT also show that the residual tumors are fed by several alternative 
arteries that are difficult or unable to be embolized superselectively. 
Therefore, at our department, we decided to use cTACE with the 
tumors which have enhancement on MDCT of MRI after DEB-TACE to 
reduce the risk of severe complications. The purpose of this article is to 
evaluate the efficiency and safety of this combined technique (cTACE after 
DEB-TACE).
Key words: Hepatocellular carcinoma (HCC), conventional TACE 
(cTACE), drug-eluting bead TACE (DEB-TACE), combined.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201920
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào gan - Hepatocellular 
carcinoma (HCC) là ung thư phổ biến thứ 5 trên toàn 
cầu với ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm [1], 
tại Việt Nam ung thư biểu mô tế bào gan cùng với ung 
thư phổi là ung thư hay gặp nhất. Hệ thống phân độ ung 
thư gan Barcelona (BCLC) thường được sử dụng, kết 
hợp giữa đặc điểm của khối u và chức năng gan còn 
lại, với các lựa chọn điều trị dựa trên y học bằng chứng 
[2-4]. HCC ít khi được chẩn đoán sớm, thường được 
chẩn đoán khi ở giai đoạn trung gian (BCLC stage B) 
hoặc giai đoạn tiến triển (BCLC stage C), ở giai đoạn 
tiến triển phương pháp điều trị chỉ còn là các biện pháp 
điều trị giảm nhẹ, với thời gian sống thêm ngắn [5],[6]. 
Nút hóa chất động mạch gan kinh điển (cTACE) là 
phương pháp được đề nghị đối với các u lớn không có 
triệu chứng hoặc nhiều u nhỏ không kèm xâm lấn mạch 
máu hoặc di căn ngoài gan (BCLC stage B) [3]. cTACE 
sử dụng hóa chất (Doxorubicin, Epirupicin...) trộn với 
Lipiodol lỏng dạng dầu, cản quang tạo thành hỗn dịch 
khi được bơm vào nhánh động mạch cấp máu cho 
khối ung thư gan nguyên phát có tác dụng tắc mạch và 
tăng hiệu quả của hóa điều trị ung thư. Tuy nhiên hạn 
chế của phương pháp là hội chứng sau nút mạch: đau 
bụng, sốt, buồn nôn, nôn, tăng men gan hay gặp, đặc 
biệt là các khối u có kích thước lớn, ngoài ra nồng độ 
hóa chất trong huyết thanh cao sau nút mạch. Nút hóa 
chất động mạch gan với hạt tải thuốc (DEB-TACE) sử 
dụng các hạt nút mạch có kích thước khác nhau khi 
trộn với hóa chất tạo thành các liên kết hóa học, các hạt 
khi đã được tải thuốc này sau khi bơm vào động mạch 
cấp máu cho khối u gan gây tắc mạch và giải phóng 
hóa chất từ từ làm tăng độ tập trung hóa chất vào khối 
u và giảm độc tính toàn thân so với cTACE,. Tuy nhiên 
DEB-TACE cũng có hạn chế như cần nút mạch siêu 
chọn lọc các nhánh cấp máu cho khối u để hạn chế 
biến chứng, đối với các nhánh động mạch nhỏ hay tuần 
hoàn ngoài gan cấp máu vào khối u không thể tiến hành 
nút mạch chọn lọc được.
Mục tiêu của nghiên cứu này là bước đầu đánh 
giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp cTACE 
sau khi nút hóa chất động mạch gan bằng DEB-TACE.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Việt 
Đức, từ 10/2015 đến 10/2017 gồm có 32 bệnh nhân 
đã được chẩn đoán HCC giai đoạn trung gian (BCLC 
stage B),xơ gan ở mức Child-Pugh A hoặc B, điều trị 
ban đầu với DEB-TACE, sau đó điều trị đợt tiếp theo 
bằng cTACE. Số liệu được thu thập hồi cứu từ hồ sơ 
bệnh án lưu trữ. C
Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh nhân có luồng thông 
từ động mạch gan về tĩnh mạch cửa, huyết khối thân 
chung tĩnh mạch cửa, di căn ngoài gan.
Quy trình nút mạch hóa chất bằng hạt tải thuốc 
(DEB-TACE)
Bước 1: Chụp động mạch gan và động mạch mạc 
treo tràng trên đánh giá tổng thể hệ thống mạch máu 
cấp máu cho gan bằng sonde 5F, kiểm tra các dấu hiệu 
của luồng thông động tĩnh mạch, xác định các nhánh 
động mạch cấp máu cho khối u.
Bước 2: Sử dụng vi ống thông cỡ 2.7-Fr (Progreat, 
Terumo) luồn chọn lọc vào các nhánh cấp máu cho khối u.
Bước 3: Tiêm chậm các hạt đã được tải hóa chất 
Doxorubicin/Epirubicin (75-100mg) đến khi mạch máu 
trong u được bít tắc hoặc thấy các dòng chảy rất chậm lại. 
Không tiến hành nút các tổn thương cấp máu từ 
các động mạch ngoài gan trong trường hợp này. Kích 
thước của hạt được lựa chọn dựa trên kích cỡ tổn 
thương, kích cỡ của mạch nuôi, độ giàu mạch. 
Quy trình nút mạch hóa chất động mạch gan kinh 
điển (cTACE)
Tiến hành giống như các bước của quy trình nút 
mạch DEB-TACE đến khi chọn lọc nhánh động mạch 
cấp máu khối u bằngvi ống thống, tuy vậy không yêu 
cầu phải nút mạch siêu chọn lọc. 
Bơm chậm hỗn hợp Lipiodol–Doxorubicin/
Epirubicin đến khi hết liều đã định hoặc đến khi tắc các 
nhánh mạch nuôi u. Các tổn thương được cấp máu từ 
các nhánh động mạch ngoài gan cũng được điều trị. 
Các bệnh nhân được tiêm với liều 50mg Doxorubicin/
Epirubicin kèm 3-10ml Lipiodol dựa vào kích thước 
phần khối u còn lại. 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đánh giá sau điều trị bằng MDCT
MDCT được chụp sau nút mạch DEB-TACE 4 
tuần; sau cTACE 1-3 tháng. MDCT được chụp qua 3 
pha tiêm thuốc trên máy chụp MDCT 64 dãy đầu thu 
(LightSpeed VCT và Optima CT660, GE, USA). Các 
thông số chụp CLVT bao gồm: 5-mm collimation; 5-mm/
sec table speed (pitch, 1.0) during a single breath-hold 
helical acquisition of 25–30s, depending on the size of 
the liver, and a 0.625mm reconstruction interval. Thì 
động mạch gan, tĩnh mạch cửa và thì muộn được thực 
hiện sau 30s, 60s, và 180s tiêm thuốc, lượng thuốc 
tiêm đường tĩnh mạch từ 80-100mL các thuốc cản 
quang không ion hóa (Ultravist, Omnipaque, Xenetix, 
Iopamiro), với tốc độ tiêm 4ml/giây bằng máy tiêm tự 
động. Các số đo được thống nhất bởi hai bác sỹ chẩn 
đoán hình ảnh khác nhau. 
Đánh giá hình ảnh gồm hai phần, đánh giá các 
biến chứng trên hình ảnh và đánh giá hiệu quả điều 
trị. Đánh giá biến chứng bằng cách tìm các dấu hiệu 
của: dịch ổ bụng, khí trong khối u, tụ dịch trong nhu mô, 
viêm túi mật, giãn đường mật, tràn dịch màng phổi và 
viêm tụy cấp. Đánh giá đáp ứng trên hình ảnh dựa vào 
hệ thống mRECIST (modified RECIST – The Response 
Evaluation Criteria in Solid Tumors – Tiêu chuẩn đánh 
giá đáp ứng đối với khối u đặc) [9]. 
Đánh giá an toàn
Theo dõi chức năng gan tại thời điểm ra viện (sau 
mỗi quy trình) kết hợp với hình ảnh trên MDCT tại các 
lần theo dõi. 
Theo dõi chức năng gan gồm các xét nghiệm 
bilirubin, aspartate aminotransferase (AST), alanine 
aminotransferase (ALT), và albumin máu. Xét nghiệm 
amylase máu được chỉ định trong trường hợp đau kéo 
dài (quá 3 ngày). Chúng tôi sử dụng hệ thống đánh giá 
tác dụng phụ theo viện nghiên cứu ung thư quốc gia 
Hoa Kỳ phiên bản 3.0 để đánh giá độ nặng của các biến 
chứng [10]. Độ 1 là các biến chứng nhẹ, không yêu cầu 
can thiệp, bao gồm cả các biến chứng không có triệu 
chứng. Độ 2 là các biến chứng nhẹ với yêu cầu nằm 
viện theo dõi và chỉ dùng thuốc. Độ 3 là các biến chứng 
nặng, cần can thiệp thủ thuật thêm. Độ 4 là các biến 
chứng đe dọa tính mạng và/hoặc để lại các di chứng 
mạn tính. Độ 5 là tử vong liên quan đến các biến chứng.
Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS phiên 
bản 16.0, với mức ý nghĩa thống kê đặt ở mức 0.05.
III. KẾT QUẢ
Các thông tin chung của bệnh nhân, bệnh lý gan kèm theo, đặc tính của khối HCC được mô tả trong Bảng 1
Bảng 1. Đặc điểm cơ bản của 32 bệnh nhân
Biến
Tuổi (trung bình ± độ lệch chuẩn) 57.94 ± 11.15 tuổi
Giới
 Nam
 Nữ
29/32 (90.6%)
3/32 (9.4%)
Bệnh kèm theo
 Viêm gan B
 Viêm gan B và C
 Gan nhiễm mỡ
29/32 (90.6%)
1/32 (3.1%)
1/32 (3.1%)
Chức năng gan
 Bilirubin máu
 Albumin máu (mean ± SD)
Phân độ Child-Pugh
 A
 B
14.35 ± 7.13 (µmol/L)
37.8 ± 4.5 (g/L)
31/32 (96.9%)
1/32 (3.1%)
Kích thước khối u 71.4 ± 29 mm
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201922
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đáp ứng sau điều trị sau 2 liệu trình của nút mạch 
dựa trên mRECIST. Kết quả được trình bày trong bảng 
2. Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trong nhóm 1 (kích thước 
khối u >50mm) là 22.22% (2/9), thấp hơn nhóm 2 – kích 
thước u <50mm là 34.78% (8/23).
Bảng 2. Đánh giá sau điều trị dựa vào mRECIST
Tổn thương đích (%) Toàn thể (%)
50 mm (n)
CR 10/32 (31.2%) 2 8 5/32 (15.6%)
PR 9/32 (28.1%) 4 5 10/32 (31.2%) 
SD 11/32 (34.4%) 2 9 10/32 (31.2%)
PD 2/32 (6.2%) 1 1 7/32 (21.9%)
Tổng 32/32 (100%) 9/32 23/32
mRECIST, modified Response Evaluation Criteria in 
Solid Tumors; CR, complete response – đáp ứng hoàn toàn; 
PR, partial response – đáp ứng một phần; SD, stable disease 
- bệnh ổn định; PD, progressive disease – bệnh tiến triển.
Phần hoại tử trung bình của khối u 74.3 ± 26.9% 
và 71.67 ± 28.6% lần lượt ở nhóm u >50mm và <50mm, 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0.805.
Bảng 3. Độ hoại tử sau nút mạch dựa vào kích thước u
Độ hoại tử p
Kích thước u
	>50mm (n = 23)
	<50mm (n = 9)
74.3 ± 26.9 %
71.67 ± 28.6 %
0.805
Bảng 4. Độ hoại tử sau mỗi lần nút mạch
Biến Sau đợt điều trị 1 Sau đợt điều trị 2 p
Độ hoại tử 55.8±24.5% 73.6±27.0 % <0.001
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có 3 bệnh 
nhân với khối u tồn dư còn được cấp máu bởi động 
mạch ngoài gan (2 bệnh nhân từ động mạch hoành 
dưới và 01 bệnh nhân từ động mạch thận phải). Cả 3 
bệnh nhân này đều đạt độ hoại tử 100% sau 2 chu trình 
nút mạch Một trong 3 bệnh nhân nói trên được phẫu 
thuật ghép gan, không tái phát sau 6 tháng kể từ lúc 
phẫu thuật.
Bảng 5. Tỉ lệ các biến chứng sau nút mạch
Biến chứng Tỉ lệ các biến chứng sau hai lần nút mạch
Độ 1 26/32 (81.2%)
Độ 2 6/32 (18.8%)
Độ > 3 0%
Tất cả các bệnh nhân được nút mạch siêu chọn lọc ở 
lần đầu tiên với hạt tải thuốc và nút mạch không chọn lọc ở 
lần thứ hai. Tuy vậy không có biến chứng lớn nào xảy ra sau 
nút mạch (bao gồm viêm túi mật, áp-xe gan, suy gan,...). 
Hội chứng sau nút mạch (sốt, đau bụng, buồn 
nôn..) là tác dụng phụ hay gặp nhất sau nút mạch hóa 
chất; tất cả các biến chứng nói trên đều được điều trị 
bằng thuốc hoặc theo dõi không dùng thuốc giảm đau 
hạ sốt. Mức độ biến chứng của nhóm bệnh nhân trong 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nghiên cứu được trình bày trong bảng 4. Giá trị trung 
bình men gan cao nhất sau lần nút mạch thứ hai là AST: 
197.5 ± 183.3U/L, ALT: 119.5 ± 127.6U/L. 
IV. BÀN LUẬN
Sử dụng hệ thống đánh giá mRECIST, đáp ứng 
hoàn toàn tổng thể chỉ đạt được ở 5/32 bệnh nhân 
(15.6%), bệnh lý tiến triển trong 7/32 bệnh nhân 
(21.9%). Trong khi đó, đáp ứng hoàn toàn đối với tổn 
thương đích của nút mạch đạt được là 10/32 bệnh 
nhân (31.2%). Trong số 7 bệnh nhân có bệnh lý tiến 
triển, chỉ có 2 bệnh nhân là có phần bắt thuốc phát triển 
tại tổn thương đích. 5 bệnh nhân còn lại bệnh lý tiến 
triển được đánh giá là do có nốt mới hoặc có huyết khối 
mới trong tĩnh mạch cửa. Tỉ lệ đạt đáp ứng hoàn toàn 
(CR) của tổn thương đích trong nghiên cứu này cũng 
tương đương trong một vài thử nghiệm khác về cTACE 
cũng như DEB-TACE. Nicolini và cộng sự (2013) báo 
cáo tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn là 36.8% với DEB-TACE và 
28% với cTACE [11]. Như vậy kỹ thuật kết hợp áp dụng 
ở đây đưa đến một kết quả chấp nhận được với bệnh 
nhân không có nguy cơ xâm lấn u vào tĩnh mạch cửa 
hoặc vào các phần khác của gan.
Mặt khác, tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trong nhóm với 
u kích thước >50mm (34.8%) cao hơn nhóm có kích 
thước u <50mm, tuy vậy sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (p = 0.491). Đồng thời độ hoại tử u giữa hai 
nhóm cũng có sự khác biệt không đáng kể (74.3 ± 26.9 
% and 71.67 ± 28.6 %; p = 0.805). Như chúng tôi đã đề 
cập ở phần trên, chúng tôi nút mạch siêu chọn lọc khi 
nút với hạt tải thuốc và nút không chọn lọc với Lipiodol. 
Với các u càng lớn thì việc nút mạch chọn lọc với hạt 
tải thuốc thường sẽ còn phần ngoại vi cấp máu bởi các 
nhánh mạch nhỏ nhiều, không đạt được hiệu quả hoại 
tử u ngoại vi. Do đó lần nút mạch thứ hai không dùng hạt 
tải thuốc đem lại kết quả tương đối tốt với hóa chất và 
Lipiodol. Tuy vậy trong nghiên cứu này cỡ mẫu còn nhỏ, 
chưa phát hiện được khác biệt có ý nghĩa thống kê. 3 
bệnh nhân có phần khối u tồn dư được cấp máu từ động 
mạch ngoài gan (hai ca từ động mạch dưới hoành phải 
và một ca từ động mạch thận phải). Sau khi chụp mạch 
để đánh giá các mạch máu cấp máu cho tổn thương thấy 
rằng có những vòng nối nhỏ không thể nút mạch được 
với hạt tải thuốc. Bệnh nhân đã được nút mạch không 
chọn lọc sau đó, và cả 3 bệnh nhân đều đạt được đáp 
ứng hoàn toàn theo mRECIST sau lần nút mạch thứ 2 
mà không có biến chứng đáng kể nào. Kỹ thuật này theo 
chúng tôi có thể áp dụng với các tình huống tương tự, 
tuy vậy kỹ thuật này cần thiết phải được kiểm chứng với 
nghiên cứu thử nghiệm lớn với với các khối u tồn dư cấp 
máu từ hệ thống động mạch ngoài gan. 
Tác dụng phụ duy nhất sau hai chu trình nút mạch 
hóa chất trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi đó là 
hội chứng sau nút mạch. Hội chứng sau nút mạch 
(Postembolization syndrome - PES) là một tình trạng 
gồm sự kết hợp của các triệu chứng đau bụng bên phải, 
sốt, mệt mỏi, buồn nôn và nôn [12]. Hiện tại không có 
tiêu chuẩn chẩn đoán chính xác hội chứng này, do đó 
PES được ghi lại với các tỉ lệ rất khác nhau giữa các 
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng. Malagari và cộng sự 
báo cáo gặp hội chứng sau nút mạch trên tất cả các 
bệnh nhân tuy vậy vẫn không có định lượng về độ nặng 
của các tổn thương [13]. Trong nghiên cứu của Varela 
và cộng sự, hội chứng này được báo cáo trong 10 trên 
27 bệnh nhân (37%), và đáp ứng rất tốt với paracetamol. 
Cũng theo Varela, sau hai lần nút mạch, 18% bệnh nhân 
có hội chứng sua nút mạch: 32% đau bụng nhẹ và 14% 
nôn – buồn nôn, các triệu chứng hết sau một tuần [14]. 
Hội chứng sau nút mạch thấy được trên 27 bệnh nhân 
trong nhóm nghiên cứu của Poon với DC Bead (77.1%) 
và các triệu chứng đều được mô tả ở mức nhẹ [15]. 
Bên cạnh các dấu hiệu lâm sàng, người ta cho rằng 
tăng men gan là một tiêu chuẩn biểu hiện của hội chứng 
sau nút mạch. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu 
của chúng tôi đều có hội chứng sau nút mạch ở mức 
nhẹ, 6/32 bệnh nhân cần điều trị NSAID và đáp ứng 
tốt. Nguyên nhân của tình trạng này được cho là có liên 
quan đến sự hoại tử của khối u và là một dấu hiệu tiên 
lượng tốt trong đáp ứng điều trị tại chỗ. Trong các bệnh 
nhân nghiên cứu này, chúng tôi nút mạch không chọn 
lọc với lần nút mạch thứ 2, tuy vậy liều Lipiodol dùng 
không cao, có thể dự đoán rằng tỉ lệ hội chứng sau nút 
mạch cao là do hoại tử u hơn là do nhiễm độc gan.
V. KẾT LUẬN
cTACE tiến hành sau DEB-TACE ở các bệnh 
nhân ung thư gan giai đoạn trung gian (BCLC stage B) 
là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả, tăng 
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/201924
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
mức độ tập trung của hóa chất vào khối u, tăng mức 
độ hoại tử khối u và giảm hội chứng sau nút mach, tuy 
nhiên cần nghiên cứu với số lượng bệnh nhân lớn và 
thời gian theo dõi dài hơn.
Bệnh án minh họa
Nữ 62 tuổi, HBV, khối u gan phải, AFP:593.3ng/
ml, DEB-TACE: DC Bead 100-300µ, kiểm tra sau nút 
AFP186.6ng/ml, còn tổ chức u ngoại vi. cTACE: động 
mạch dưới hoành phải cấp máu vào phần u còn lại, 
cTACE: lắng đọng Lipiodol, AFP sau 4 tuần giảm còn 
5.3 ng/ml.
REFERENCE
1. K. Hagymasi andZ. Tulassay (2008), “[Epidemiology, risk factors and molecular pathogenesis of primary liver 
cancer]”, Orv Hetil, 149(12), tr. 541-8.
2. W. Sieghart, F. Hucke andM. Peck-Radosavljevic (2015), “Transarterial chemoembolization: modalities, 
indication, and patient selection”, J Hepatol, 62(5), tr. 1187-95.
3. A. Forner, M. E. Reig, C. R. de Lope et al. (2010), “Current strategy for staging and treatment: the BCLC update 
and future prospects”, Semin Liver Dis, 30(1), tr. 61-74.
4. A. Sangiovanni andM. Colombo (2016), “Treatment of hepatocellular carcinoma: beyond international 
guidelines”, Liver Int, 36 Suppl 1, tr. 124-9.
5. Liver European Association For The Study Of The, Research European Organisation For andCancer Treatment 
Of (2012), “EASL-EORTC clinical practice guidelines: management of hepatocellular carcinoma”, J Hepatol, 
56(4), tr. 908-43.
6. J. Bruix, M. Sherman andDiseases American Association for the Study of Liver (2011), “Management of 
hepatocellular carcinoma: an update”, Hepatology, 53(3), tr. 1020-2.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 35 - 08/2019 25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
7. A. Facciorusso, R. Licinio, N. Muscatiello et al. (2015), “Transarterial chemoembolization: Evidences from the 
literature and applications in hepatocellular carcinoma patients”, World J Hepatol, 7(16), tr. 2009-19.
8. A. Toro, G. Bertino, M. C. Arcerito et al. (2015), “A lethal complication after transarterial chemoembolization 
with drug-eluting beads for hepatocellular carcinoma”, Case Rep Surg, 2015, tr. 873601.
9. R. Lencioni andJ. M. Llovet (2010), “Modified RECIST (mRECIST) assessment for hepatocellular carcinoma”, 
Semin Liver Dis, 30(1), tr. 52-60.
10. National Cancer Institute (U.S.) (2009), Common terminology criteria for adverse events (CTCAE), Rev., NIH 
publication, U.S. Dept. of Health and Human Services, National Institutes of Health, National Cancer Institute, 
Bethesda, Md., 194 p.
11. D. Nicolini, G. Svegliati-Baroni, R. Candelari et al. (2013), “Doxorubicin-eluting bead vs conventional 
transcatheter arterial chemoembolization for hepatocellular carcinoma before liver transplantation”, World J 
Gastroenterol, 19(34), tr. 5622-32.
12. X. Li, G. S. Feng, C. S. Zheng et al. (2003), “Influence of transarterial chemoembolization on angiogenesis 
and expression of vascular endothelial growth factor and basic fibroblast growth factor in rat with Walker-256 
transplanted hepatoma: an experimental study”, World J Gastroenterol, 9(11), tr. 2445-9.
13. K. Malagari, K. Chatzimichael, E. Alexopoulou et al. (2008), “Transarterial chemoembolization of unresectable 
hepatocellular carcinoma with drug eluting beads: results of an open-label study of 62 patients”, Cardiovasc 
Intervent Radiol, 31(2), tr. 269-80.
14. M. Varela, M. I. Real, M. Burrel et al. (2007), “Chemoembolization of hepatocellular carcinoma with drug eluting 
beads: efficacy and doxorubicin pharmacokinetics”, J Hepatol, 46(3), tr. 474-81.
15. R. T. Poon, W. K. Tso, R. W. Pang et al. (2007), “A phase I/II trial of chemoembolization for hepatocellular 
carcinoma using a novel intra-arterial drug-eluting bead”, Clin Gastroenterol Hepatol, 5(9), tr. 1100-8.
TÓM TẮT
 Điều trị nút hóa chất động mạch gan kinh điển (cTACE) và nút hóa chất động mạch với hạt tải thuốc (DEB-TACE) đang 
được tiến hành ngày càng phổ biến tại Việt Nam nhiều trung tâm trên toàn thế giới. Việc sử dụng DEB-TACE làm giảm các biến 
chứng toàn thân sau nút mạch liên quan đến nhiễm độc hóa chất. Tuy vậy cũng có những vấn đề về kỹ thuật khi sử dụng kỹ thuật 
DEB-TACE (cần thiết nút mạch siêu chọc lọc, tỉ lệ biến chứng như áp-xe gan cao hơn cTACE, hội chứng sau nút mạch mức độ 
nặng hơn). Tại bệnh viện Việt Đức, chụp cắt lớp vi tính đa dãy đầu dò (MDCT) và chụp cộng hưởng từ (MRI) thường được dùng 
để đánh giá hiệu quả sau điều trị cTACE hoặc DEB-TACE với tiêu chuẩn đánh giá mRECIST. MDCT cũng chỉ ra nhưng phần khối 
u còn ngấm thuốc được cấp máu bởi các nhánh động mạch nhỏ khác, rất khó khăn hoặc đôi khi không thể nút mạch siêu chọn lọc. 
Do đó sử dụng cTACE trên các khối u còn phần ngấm thuốc thấy được trên MDCT hoặc MRI sau DEB-TACE đã được 
tiến hành với mục đích giảm nguy cơ của các biến chứng nặng. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá bước đầu tính hiệu 
quả và an toàn của kỹ thuật kết hợp giữa nút hóa chất động mạch gan kinh điển và nút hóa chất động mạch gan với hạt tải thuốc 
(cTACE sau DEB-TACE).
Từ khóa: ung thư tế bào gan, nút mạch gan
Ngày nhận bài: 30.5.2019. Ngày chấp nhận đăng: 15.7.2019
Người liên hệ: Lê Thanh Dũng,trung tâm CĐHA bệnh viện hữu nghị Việt Đức, Email: [email protected]

File đính kèm:

  • pdfnut_hoa_chat_dong_mach_gan_kinh_dien_sau_nut_hoa_chat_voi_ha.pdf