Nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 6-24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang năm 2012
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn trong 6 tháng đầu góp phần làm
giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em. Có nhiều yếu tố liên quan đến thực hành nuôi
con bằng sữa mẹ. Việc nghiên cứu tình hình NCBSM và một số yếu tố liên quan
là cần thiết nhằm xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về
NCBSM và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành
về NCBSM. Nghiên cứu thực hiện trên 300 bà mẹ tại huyện Phú Tân, trong thời
gian từ tháng 11/2012 đến tháng 8/2013.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ bà mẹ có kiến thức về NCBSM tốt là 59%,
thái độ tích cực/ tốt về NCBSM là 76,7%. Tỉ lệ các bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh
(BSSS) trong vòng 1 giờ đầu là 75,7%, tỉ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn là 25,3%.
Nơi cư ngụ, trình độ học vấn, kiến thức chung về NCBSM có liên quan đến thái độ
NCBSM của các bà mẹ. Thái độ cho trẻ bú sớm sau sinh liên quan đến thực hành
cho trẻ bú sớm sau sinh. Trình độ học vấn, qui mô gia đình, kinh tế gia đình và kiến
thức chung về NCBSM liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn của các bà mẹ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 6-24 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang năm 2012
5 NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ TRONG 6 THÁNG ĐẦU CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON TỪ 6-24 THÁNG TUỔI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG NĂM 2012 Nguyễn Thị Tâm, Văn Hiển Tài Trung tâm Truyền thông GDSK tỉnh An Giang Tóm tắt nghiên cứu Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn trong 6 tháng đầu góp phần làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em. Có nhiều yếu tố liên quan đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ. Việc nghiên cứu tình hình NCBSM và một số yếu tố liên quan là cần thiết nhằm xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về NCBSM và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành về NCBSM. Nghiên cứu thực hiện trên 300 bà mẹ tại huyện Phú Tân, trong thời gian từ tháng 11/2012 đến tháng 8/2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ bà mẹ có kiến thức về NCBSM tốt là 59%, thái độ tích cực/ tốt về NCBSM là 76,7%. Tỉ lệ các bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh (BSSS) trong vòng 1 giờ đầu là 75,7%, tỉ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn là 25,3%. Nơi cư ngụ, trình độ học vấn, kiến thức chung về NCBSM có liên quan đến thái độ NCBSM của các bà mẹ. Thái độ cho trẻ bú sớm sau sinh liên quan đến thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh. Trình độ học vấn, qui mô gia đình, kinh tế gia đình và kiến thức chung về NCBSM liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn của các bà mẹ. 1. Đặt vấn đề Một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em là thực hành NCBSM, nhất là việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Theo thống kê của Viện Dinh dưỡng, cả nước có 61,7% trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh; 19,6% trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu [10]. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã khuyến cáo các bà mẹ cho trẻ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú mẹ kéo dài đến 24 tháng hoặc lâu hơn [5], [6], [8], [10]. Các công trình nghiên cứu đều cho rằng sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, hiện nay các chương trình quảng cáo, tiếp thị về sữa công thức đang được đẩy mạnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, làm ảnh hưởng đến nhận thức và thực hành của các bà mẹ về NCBSM. Do vậy nghiên cứu tình hình NCBSM trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 6-24 tháng tuổi và 6 một số yếu tố liên quan tại huyện Phú Tân - tỉnh An Giang nhằm góp phần cung cấp thông tin cho chương trình phòng chống suy dinh dưỡng tại địa phương. 2. Mục tiêu nghiên cứu 1. Xác định tỉ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ và thực hành đúng về NCBSM trong 6 tháng đầu tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang năm 2012. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành về NCBSM trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang năm 2012. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1 . Đối tượng nghiên cứu: Bà mẹ có con từ 6 đến dưới 24 tháng tuổi có hộ khẩu thường trú ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. 3.2 . Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. 3.3 . Cỡ mẫu: Áp dụng công thức: n = Z2 .p.(1-p)/d2. Trong đó: n: là số bà mẹ được phỏng vấn. Z: là giới hạn khoảng tin cậy ở mức xác suất 95%, tương ứng với giá trị: Z = 1,96. p: tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu năm 2010 là 0,13 [3] d = 0,04 (sai số cho phép). Thay vào công thức tính được: n = 271, tăng 10% hao hụt, lấy tròn số ta được n = 300. 3.4 . Chọn mẫu: Huyện Tân Phú có tất cả 18 xã/thị trấn. Trong đó đã chọn được 4 xã trong huyện như sau: - 02 xã đã được thực hiện mô hình tăng cường thực hành NCBSM tại cộng đồng là xã Phú Thọ và Bình Thạnh Đông. - 02 xã chưa được thực hiện mô hình tăng cường thực hành NCBSM tại cộng đồng (theo phương pháp ngẫu nhiên). - Đối tượng chọn theo phương pháp ngẫu nhiên dựa trên danh sách các bà mẹ được lấy theo sổ theo dõi sinh tại trạm y tế xã. 3.5 . Địa điểm: Huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. 3.6 . Thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2012 đến tháng 08/2013. 3.7 . Xử lý số liệu: Số liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ tại hộ gia đình. Dữ liệu được xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. Sử dụng kiểm định khi bình phương để so sánh tỉ lệ các yếu tố liên quan đến kiến thức, 7 thái độ và thực hành NCBSM của các bà mẹ, đo lường mức độ kết hợp bằng tỉ suất chênh OR. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Trong số 300 đối tượng nghiên cứu, 68% đối tượng có độ tuổi từ 20 đến 30 tuổi; 100% là người dân tộc kinh. 86,3% các bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Chỉ 15% các bà mẹ làm nông nghiệp. 63,3% bà mẹ còn sống theo gia đình truyền thống (nhiều thế hệ). có 56,7% bà mẹ có từ hai con trở lên. 13,3% đối tượng nghiên cứu thuộc hộ nghèo. 4.2. Kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ về NCBSM Bảng 1: Kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ về NCBSM (n=300) Nội dung Tần số Tỉ lệ (%) Biết cần phải cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh 281 93,7% Kiến thức chung tốt về cho trẻ bú sớm sau sinh 164 54,7 Hiểu đúng khái niệm NCBSM hoàn toàn 249 83,0% Kiến thức chung tốt về NCBSM hoàn toàn 154 51,3 Kiến thức chung tốt về NCBSM 177 59,0 Thái độ tốt về cho trẻ bú sớm sau sinh 279 93,0 Thái độ tốt về NCBSM hoàn toàn 240 80 Thái độ chung tốt về NCBSM 230 76,7 Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh 226 75,3 Thực hành NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu 76 25,3 Tỉ lệ bà mẹ có kiến thức chung tốt về cho trẻ bú sớm sau sinh là 54,7%, kiến thức chung tốt về NCBSM hoàn toàn là 51,3%, kiến thức chung tốt về NCBSM là 59%. Tỉ lệ bà mẹ đồng ý cho trẻ bú sớm sau sinh là 93%, tỉ lệ bà mẹ đồng ý NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 80% và thái độ chung tốt (có đồng ý cả 2 nội dung trên) là 76,7%. Tỉ lệ các bà mẹ cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 75,7%, tỉ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn là 25,3%. Nghiên cứu cũng cho thấy lý do chính khiến bà mẹ không cho con bú ngay sau sinh là do mẹ mệt/ sinh mổ (49,3%), lý do được bà mẹ nêu ra nhiều nhất khi 8 không NCBSM hoàn toàn là sợ bé khát nước (58,9%), 6,3% cho rằng nuôi trẻ bằng sữa ngoài tốt hơn. 4.3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành về NCBSM Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến kiến thức chung về NCBSM (n=300) Đặc điểm KT chung tốt KT chung chưa tốt OR p Nơi cư ngụ Xã điểm 125 (69,1%) 56 (30,9%) 2,876 0,001 Không xã điểm 52 (43,7%) 67 (56,3%) Trình độ học vấn Từ THPT trở lên 36 (87,8%) 5 (12,2%) 6,026 0,001 Từ THCS trở xuống 141 (54,4%) 118 (45,6%) Nghề nghiệp Nông dân 12 (26,7%) 33 (73,3%) 0,198 0,001 Nghề khác 165 (64,7%) 90 (35,3%) Nơi cư ngụ và trình độ học vấn có liên quan đến kiến thức chung về NCBSM của các bà mẹ, sự khác biệt về kiến thức chung tốt của bà mẹ giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (OR>1; p<0,05). Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố nghề nghiệp có liên quan đến kiến thức chung về NCBSM có ý nghĩa thống kê, cụ thể người làm nghề nông nghiệp sẽ có kiến thức thấp hơn người làm nghề khác như công nhân, buôn bán, cán bộ (OR=0,198; p = 0,001). Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thái độ (TĐ) chung về NCBSM (n=300) Đặc điểm TĐ chung tốt TĐ chung chưa tốt OR p Nơi cư ngụ Xã điểm 153 (84,5%) 28 (15,5%) 2,981 0,001 Không xã điểm 77 (64,7%) 42 (35,3%) Trình độ học vấn Từ THPT trở lên 37 (90,2%) 4 (9,8%) 3,163 0,027 Từ THCS trở xuống 193 (74,5%) 66 (25,5%) Nghề nghiệp Nông dân 28 (62,2%) 17 (37,8%) 0,432 0,013 Nghề khác 202 (79,2%) 53 (20,8%) KT chung NCBSM Tốt 169 (95,5%) 8 (4,5%) 21,471 0,001 Chưa tốt 61 (49,6%) 62 (50,4%) 9 Các bà mẹ sống tại các xã điểm (xã có triển khai mô hình tăng cường NCBSM) có thái độ chung về NCBSM tốt hơn các bà mẹ sống tại xã không triển khai mô hình này, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 2,98; p= 0,001). Trình độ học vấn, nghề nghiệp và kiến thức NCBSM cũng có mối liên quan đến thái độ chung về NCBSM của các bà mẹ, sự khác biệt về tỉ lệ giữa các nhóm có thái độ chung tốt có ý nghĩa thống kê (OR>1; p<0,05). Bảng 4: Liên quan giữa thái độ với thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh (n=300) Đặc điểm Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm OR p TĐ với việc cho trẻ BSSS Đồng ý 223 (79,9%) 56 (20,1%) 16,924 0,001 Không đồng ý 4 (19,0%) 17 (81,0%) Có sự khác biệt giữa bà mẹ có thái độ tốt về bú sớm sau sinh (BSSS) với thực hành BSSS: các bà mẹ có thái độ tốt về BSSS cho trẻ BSSS cao gấp gần 17 lần các bà mẹ có thái độ không tốt (p<0,05). Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa kinh tế gia đình, kiến thức về BSSS với thực hành BSSS. Bảng 5: Liên quan các yếu tố với thực hành NCBSM hoàn toàn (n=300) Đặc điểm NCBSM hoàn toàn Không NCBSM hoàn toàn OR p Trình độ học vấn Từ THPT trở lên 25 (61%) 16 (39%) 6,373 0,001 Từ THCS trở xuống 51 (19,7%) 208 (80,3%) Qui mô gia đình GĐ truyền thống 59 (31,1%) 131 (68,9%) 2,464 0,003 GĐ hạt nhân 17 (15,5%) 93 (84,5%) Kinh tế gia đình Không nghèo 73 (28,1%) 187 (71,9%) 4,815 0,005 Nghèo 3 (7,5%) 37 (92,5%) KT chung NCBSM hoàn toàn Tốt 62 (40,3%) 92 (59,7%) 6,354 0,001 Chưa tốt 14 (9,6%) 132 (90,4%) 10 Theo kết quả bảng 5, trình độ học vấn, qui mô gia đình, kinh tế gia đình và kiến thức chung NCBSM hoàn toàn có liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn của các bà mẹ (OR>1; p<0,05). 5. Bàn luận 5.1. Kiến thức, thái độ, thực hành về NCBSM của bà mẹ Các bà mẹ biết phải cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 93,7%, kiến thức chung tốt của các bà mẹ về cho trẻ bú sớm sau sinh là 54,7%, tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu của Trương Hoàng Mối (51%) [2]. Các bà mẹ cũng hiểu đúng khái niệm NCBSM hoàn toàn là 83%, tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Phạm Thị Sơn năm 2010 là 63% [7], của Huỳnh Văn Nên năm 2011 là 70,5% [4]. Tỉ lệ bà mẹ hiểu đúng thời gian bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 91,3%, kiến thức chung tốt (đạt từ 7-12 điểm) của các bà mẹ về NCBSM hoàn toàn là 51,3%. Tỉ lệ bà mẹ đồng ý việc cho trẻ BSSS sẽ tốt cho sự phát triển của trẻ đạt là 80%, đồng ý NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu tốt cho sự phát triển của trẻ là 93%. Thái độ chung tốt (đồng ý cả 2 nội dung trên) là 76,7%, tỉ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Trương Hoàng Mối (51%) [2]. Tỉ lệ các bà mẹ cho trẻ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 75,7%, cao hơn nghiên cứu của Huỳnh Văn Nên (74,5%) [4], Huỳnh Thảo Trường và Huỳnh Trường Khải (25%) [9], Nguyễn Văn Kỳ và Nguyễn Thị Bài (67%) [1], Phạm Thị Sơn năm 2012 (55,5%) [7]. Tỉ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn là 25,3%. Tỉ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của Huỳnh Văn Nên năm 2011 (27,50 [4], nhưng cao hơn của Phạm Thị Sơn năm 2010 (7%) [7]. 5.2. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về NCBSM 5.2.1. Các yếu tố liên quan đến kiến thức NCBSM của các bà mẹ Nơi cư ngụ của mẹ có liên quan đến kiến thức NCBSM của bà mẹ. Tỉ lệ bà mẹ ở xã điếm có kiến thức chung tốt về NCBSM là 69,1% cao hơn so với bà mẹ ở nơi không phải là xã điểm là 43,7%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=2,876; p<0,05). Trình độ học vấn của mẹ có liên quan đến kiến thức chung NCBSM của bà mẹ. Tỉ lệ bà mẹ trình độ học vấn từ THPT trở lên có kiến thức chung tốt về NCBSM là 87,8% cao hơn so với bà mẹ trình độ học vấn từ THCS trở 11 xuống là 54,4%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=6,026; P<0,05). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thảo Trường và Huỳnh Trường Khải [10]. 5.2.2. Các yếu tố liên quan đến thái độ NCBSM của các bà mẹ Nơi cư ngụ của mẹ có liên quan đến thái độ chung về NCBSM của bà mẹ. Tỉ lệ bà mẹ ở xã điểm có thái độ chung tốt về NCBSM là 84,5% cao hơn so với bà mẹ ở nơi không phải là xã điểm là 64,7%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=2,981; p<0,05). Trình độ học vấn của mẹ có liên quan đến thái độ chung NCBSM của bà mẹ. Tỉ lệ bà mẹ trình độ học vấn từ THPT trở lên có thái độ chung tốt là 90,2%, cao hơn so với bà mẹ trình độ học vấn từ THCS trở xuống là 74,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=3,163; p<0,05). Kiến thức chung về NCBSM của bà mẹ có liên quan đến thái độ chung về NCBSM của bà mẹ. Tỉ lệ bà mẹ ở nhóm kiến thức chung NCBSM tốt có thái độ chung tốt là 95,5%, cao hơn nhiều so với bà mẹ ở nhóm kiến thức chung NCBSM chưa tốt là 49,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=21,471; p<0,05). 5.2.3. Các yếu tố liên quan đến thực hành NCBSM Có mối liên quan giữa thái độ cho trẻ bú sớm sau sinh của mẹ với thực hành cho trẻ BSSS. Tỉ lệ bà mẹ đồng ý cho trẻ BSSS thực hành cho trẻ BSSS là 79,9%, cao hơn so với bà mẹ không đồng ý cho trẻ BSSS là 19,0%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=16,924; p<0,05). Trình độ học vấn của mẹ có liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn. Tỉ lệ bà mẹ có trình độ từ THPT trở lên thực hành NCBSM hoàn toàn là 61,0%, cao hơn so với bà mẹ có trình độ từ THCS trở xuống là 19,7%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=6,373; P<0,05). Điều này cho thấy những bà mẹ có trình độ học vấn cao hơn sẽ tiếp nhận thông tin, thay đổi nhận thức và hành vi về NCBSM hoàn toàn tốt hơn các bà mẹ có trình độ học vấn thấp. Quy mô gia đình có liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn. Tỉ lệ bà mẹ ở gia đình truyền thống NCBSM hoàn toàn là 31,1%, cao hơn so với bà mẹ ở gia đình hạt nhân là 15,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=2,464; p<0,05). 12 Kinh tế gia đình có mối liên quan đến thực hành NCBSM hoàn toàn. Tỉ lệ bà mẹ ở gia đình không nghèo NCBSM hoàn toàn là 28,1%, cao hơn so với bà mẹ ở gia đình nghèo là 7,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=4,815; p<0,05). Kiến thức chung về NCBSM hoàn toàn: có mối liên quan giữa kiến thức chung về NCBSM hoàn toàn của mẹ và thực hành NCBSM hoàn toàn. Tỉ lệ bà mẹ có kiến thức chung tốt thực hành NCBSMHT là 40,3%, cao hơn so với bà mẹ có kiến thức chung chưa tốt là 9,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=6,354; p<0,05). Nghiên cứu của Trương Hoàng Mối cũng tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi [2]. 6. Kết luận Kiến thức chung tốt về NCBSM của các bà mẹ là 59%, thái độ chung tốt là 76,7%, tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh là 75,7%, tỉ lệ bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 25,3%. Nơi cư ngụ, trình độ học vấn của bà mẹ có liên quan đến kiến thức NCBSM của các bà mẹ. Nơi cư ngụ, trình độ học vấn, kiến thức NCBSM có liên quan đến thái độ NCBSM của các bà mẹ. Thái độ cho trẻ bú sớm sau sinh có liên quan đến thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh của các bà mẹ. Trình độ học vấn, qui mô gia đình, kinh tế gia đình và kiến thức chung về NCBSM có liên quan đến NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ. 7. Khuyến nghị Tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về NCBSM đến các đối tượng, đặc biệt cần lưu ý đối với đối tượng là gia đình nghèo, bà mẹ có trình độ học vấn thấp. Cần đa dạng hóa các hình thức truyền thông để giúp các bà mẹ thuận lợi trong tiếp nhận thông tin về NCBSM. Duy trì công tác truyền thông của cán bộ y tế và mạng lưới cộng tác viên ở xã. Tăng cường công tác truyền thông gián tiếp như chuyên mục sức khỏe, tọa đàm trên đài truyền hình... Tổ chức các lớp tập huấn về kiến thức, kỹ năng truyền thông cho nhân viên y tế, đặc biệt là cán bộ chuyên trách dinh dưỡng tuyến cơ sở, lực lượng cộng tác viên và tổ y tế để nâng cao hiệu quả tham vấn của bà mẹ về NCBSM. 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Kỳ, Nguyễn Thị Bài và cộng sự (2008), Tình hình dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang năm 2006, tài liệu hội thảo khoa học kỹ thuật khu vực Đồng bằng sông Cửu Long lần III, tr. 16 - 20. 2. Trương Hoàng Mối, Võ Thị Kim Hoàn và Trương Thị Kim Hoàn (2012), Khảo sát kiến thức và thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con rạ điều trị tại khoa nhi bệnh viện An Giang, Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang. 3. Huỳnh Văn Nên (2010), Báo cáo kết quả mô hình tăng cường thực hành nuôi con bằng sữa mẹ dựa vào cộng đồng năm 2010, Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe An Giang. 4. Huỳnh Văn Nên (2012), Đánh giá kết quả mô hình tăng cường thực hành nuôi con bằng sữa mẹ dựa vào cộng đồng năm 2011, Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe An Giang. 5. Quỹ nhi đồng liên hợp quốc, Tổ chức y tế thế giới và Tổ chức khoa học và văn hóa liên hợp quốc (2003), Những điều cần cho cuộc sống, tr. 39-59. 6. Quỹ nhi đồng liên hợp quốc và Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe trung ương (2009), Giáo trình tuyền thông thay đổi hành vi về chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, tr. 27 – 32. 7. Phạm Thị Sơn (2010), Điều tra hộ gia đình về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ tại 4 huyện dự án Bạn hữu trẻ em tỉnh An Giang năm 2010, Sở Y tế An Giang, tr. 31-34, 54-62. 8. Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh (1992), Bài giảng nhi khoa tập I, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 35-47. 9. Huỳnh Thảo Trường, Huỳnh Trường Khải (2008), Kiến thức, thái độ, thực hành về chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con suy dinh dưỡng tại Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh An Giang, tài liệu hội thảo khoa học kỹ thuật khu vực Đồng bằng sông Cửu Long lầm III, tr. 5 - 15. 10. Viện Dinh dưỡng (2009), Tài liệu hội nghị dinh dưỡng toàn quốc năm 2009, tr. 45-47.
File đính kèm:
nuoi_con_bang_sua_me_trong_6_thang_dau_cua_cac_ba_me_co_con.pdf

