Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường
Nghiên cứu nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab
ở phù hoàng điểm do đái tháo đường và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng. Nghiên cứu tiến cứu, can
thiệp lâm sàng trên 20 mắt có chỉ định tiêm bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. Mẫu thủy
dịch được lấy ngay trước và 1 tuần sau tiêm nội nhãn 1,25 mg Bevacizumab. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân
mạch trước tiêm là 464,88 ± 383,02pg/ml giảm xuống 20,29 ± 19,29pg/ml (p < 0,001)="" ở="" tất="" cả="" các="" mắt="">
tiêm 1 tuần. Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với tuổi, thời gian đái tháo
đường, đường máu, HbAa1C, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày, thể tích hoàng điểm. Nồng độ yếu tố tăng
sinh tân mạch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, nhóm tăng huỳnh quang
cao. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phân
loại theo hình thái học. Như vậy, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn
Bevacizumab ở phù hoàng điểm đái tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với
các thông số lâm sàng cho hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên
lượng bệnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường

TCNCYH 114 (5) - 2018 25 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC NỒNG ĐỘ YẾU TỐ TĂNG SINH TÂN MẠCH TRONG THỦY DỊCH TRƯỚC VÀ SAU TIÊM BEVACIZUMAB NỘI NHÃN ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG Nguyễn Tuấn Thanh Hảo1, Phạm Trọng Văn2, Vũ Tuấn Anh3 1Bệnh viện Mắt Đà Nẵng, 2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Mắt Trung ương Nghiên cứu nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab ở phù hoàng điểm do đái tháo đường và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng. Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng trên 20 mắt có chỉ định tiêm bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. Mẫu thủy dịch được lấy ngay trước và 1 tuần sau tiêm nội nhãn 1,25 mg Bevacizumab. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước tiêm là 464,88 ± 383,02pg/ml giảm xuống 20,29 ± 19,29pg/ml (p < 0,001) ở tất cả các mắt sau tiêm 1 tuần. Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với tuổi, thời gian đái tháo đường, đường máu, HbAa1C, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày, thể tích hoàng điểm. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, nhóm tăng huỳnh quang cao. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phân loại theo hình thái học. Như vậy, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn Bevacizumab ở phù hoàng điểm đái tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với các thông số lâm sàng cho hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên lượng bệnh. Từ khóa: phù hoàng điểm, đái tháo đường, VEGF, Bevacizumab Địa chỉ liên hệ: Phạm Trọng Văn, Bộ môn Mắt, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 19/4/2018 Ngày được chấp thuận: 18/7/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Phù hoàng điểm là biến chứng phổ biến và là nguyên nhân gây mù hàng đầu ở bệnh nhân mắc bệnh võng mạc do đái tháo đường. Phù hoàng điểm đái tháo đường có liên quan đến phá vỡ hàng rào máu võng mạc và rò dịch trong võng mạc từ những mao mạch bất thường quanh hoàng điểm hay những vi phình mạch. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch là yếu tố sinh mạch chủ chốt gây tăng tính thấm mạch/ phù hoàng điểm và tăng sinh tân mạch. Các nghiên cứu đã chứng minh nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch đóng vai trò chính trong tăng tính thấm mạch ở mắt bệnh nhân đái tháo đường và có mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn với phù hoàng điểm [1 - 3]. Nhiều nghiên cứu khác lại cho thấy nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn có thể không có mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng của phù hoàng điểm đái tháo đường [4]. Cơ chế bệnh sinh phức tạp còn chưa rõ ràng của bệnh có thể có liên quan đến các cytokine khác Bevacizumab (Avastin, Genentech Inc) là một trong những thuốc kháng nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thường được sử dụng, an toàn cho nhiều bệnh lý mạch máu võng mạc trong đó có bệnh võng mạc do đái tháo đường [5]. Bevacizumab tiêm nội nhãn được mong đợi làm giảm nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch gây thoái triển tân mạch võng mạc và 26 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC giảm thoát dịch trong phù hoàng điểm đái tháo đường [6 - 8]. Việt Nam đã có vài nghiên cứu về hiệu quả lâm sàng của Bevacizumab trong điều trị bệnh lý mạch máu võng mạc. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: 1. So sánh nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab điều trị bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường; 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với biến đổi võng mạc trên lâm sàng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Bệnh nhân được chẩn đoán xác định phù hoàng điểm do đái tháo đường có ý nghĩa lâm sàng, có chỉ định tiêm Bevacizumab nội nhãn đến khám tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2017. Tiêu chuẩn loại trừ: tiền sử bệnh tim mạch hay đột quỵ, dị ứng với Bevacizumab, có nhiễm trùng cấp tính tại mắt, đã tiêm các thuốc nội nhãn như Triamcinolone, thuốc ức chế nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch, đã laser võng mạc, đã phẫu thuật nội nhãn trong vòng 3 tháng trước khi nghiên cứu. Phương pháp - Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng, so sánh 2 giá trị trung bình trước và sau điều trị. - Các bước nghiên cứu + Khám sàng lọc xác định bệnh nhân có phù hoàng điểm do đái tháo đường có chỉ định tiêm Bevacizumab nội nhãn + Quy trình khám ghi nhận bệnh gồm: Đo thị lực có chỉnh kính, khám sinh hiển vi, chụp hình màu đáy mắt, chụp mạch huỳnh quang, chụp OCT hoàng điểm trước và sau tiêm 1 tuần. + Lấy mẫu bệnh phẩm thủy dịch ngay trước khi tiêm nội nhãn Bevacizumab và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab 1 tuần. + Đo nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm 1 tuần bằng phương pháp định lượng với kit ELISA DVE00 (R&D System). 3. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu được sự thông qua của Hội đồng chấm đề cương nghiên cứu của nghiên cứu sinh Trường Ðại học Y Hà Nội. Nghiên cứu được sự chấp nhận của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Y Hà Nội, của Ban giám đốc, Hội đồng khoa học, Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu của Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. Tất cả bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đều được giải thích, tư vấn kỹ về bệnh, hướng điều trị, tác dụng không mong muốn có thể gặp, mục đích của nghiên cứu. Chỉ đưa vào danh sách những bệnh nhân tự nguyện tham gia nghiên cứu. Các trường hợp không đồng ý tham gia nghiên cứu không bị phân biệt đối xử. Đối tượng nghiên cứu có thể từ chối tham gia nghiên cứu ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều được quyền điều trị và theo dõi. III. KẾT QUẢ Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 20 mắt của 14 bệnh nhân. TCNCYH 114 (5) - 2018 27 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 1. Đặc điểm mẫu bệnh nhân nghiên cứu Bệnh nhân nghiên cứu gồm 9 nam/5 nữ, tuổi trung bình 53, mắc bệnh đái tháo đường > 10 năm HbA1C cao và đa số có đường huyết điều chỉnh (bảng 1). Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Đặc điểm Trung bình ± Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất - lớn nhất Tuổi (năm) 53,86 ± 7,29 42 - 70 Giới tính (nam/nữ) 9/5 - Đái tháo đường (type 1/type 2) 2/12 - Thời gian mắc đái tháo đường (năm) 13,11 ± 5,08 4 - 20 Glucose máu đói (mmol/l) 9,78 ± 4,22 6,05 - 21,06 HbA1c (%) 8,06 ± 2,02 3,90 - 11,50 2. So sánh nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab Bảng 2. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm ở tất cả bệnh nhân nghiên cứu Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch (pg/ml) Trung bình ± độ lệch chuẩn p Trước tiêm 464,88 ± 383,02 < 0,001 Sau tiêm 20,29 ± 19,29 Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Biểu đồ 1. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm theo phân độ bệnh võng mạc đái tháo đường Ở cả 2 nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh và tăng sinh, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, (p < 0,001). 28 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 2. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm theo phân loại mức độ tăng huỳnh quang vùng hoàng điểm Ở cả 2 nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang thấp và tăng huỳnh quang cao, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, (p < 0,001). Biểu đồ 3. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm theo hình thái học phù hoàng điểm Với các hình thái phù hoàng điểm, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). 3. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch với biểu hiện lâm sàng Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch với tuổi, đường máu, HbAa1C, thời gian mắc đái tháo đường, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày võng mạc trung tâm và thể tích hoàng điểm (p > 0,05). TCNCYH 114 (5) - 2018 29 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 4. Khác biệt về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch theo phân độ bệnh võng mạc đái tháo đường Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh so với nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh (p < 0,001). Biểu đồ 5. Thay đổi nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch theo mức độ tăng huỳnh quang vùng hoàng điểm Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch giữa nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang cao và nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang thấp (p < 0,05). Biểu đồ 6. Khác biệt nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch theo hình thái phù hoàng điểm Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước tiêm giữa các hình thái phù hoàng điểm khác nhau (p > 0,05). 30 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Trước tiêm Thị lực: 20/150 VEGF: 475,1 pg/ml Độ dày: 650 µm Sau tiêm Thị lực: 20/60 VEGF: 30,6 pg/ml Độ dày: 198 µm Hình 1. Kết quả trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab của bệnh nhân nam, 56 tuổi, phù hoàng điểm do đái tháo đường IV. BÀN LUẬN Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch trước tiêm trung bình là 464,88 ± 383,02 pg/ml đã giảm xuống chỉ còn 20,29 ± 19,29 pg/ml sau tiêm nội nhãn 1 tuần. Tiêm nội nhãn Bevacizumab làm giảm nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch xuống gấp hơn 20 lần. Kết quả tương tự cũng đã được công bố bởi nhiều tác giả khác trên thế giới [4; 6; 8]. Sự khác biệt này cũng xảy ra ở từng nhóm bệnh nhân phân loại theo tình trạng bệnh võng mạc đái tháo đường, theo mức độ tăng huỳnh quang vùng hoàng điểm, theo hình thái học phù hoàng điểm (p < 0,001). Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch tăng cả trong dịch kính và thủy dịch ở bệnh phù hoàng điểm và bệnh võng mạc do đái tháo đường tiến triển [1; 9]. Nghiên cứu của chúng tôi đo nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch vì lấy mẫu thủy dịch thì dễ dàng và an toàn hơn nhiều so với lấy mẫu dịch kính. Những nghiên cứu khác trên thế giới cũng đã cho thấy tiêm nội nhãn thuốc kháng yếu tố tăng sinh tân mạch làm giảm đáng kể nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn [4; 6; 8]. Vai trò chính của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong sinh bệnh học của bệnh nên điều trị mục tiêu nhắm vào nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch đã trở thành chiến lược điều trị trong phù hoàng điểm do đái tháo đường. Tuy nhiên, phù hoàng điểm do đái tháo đường cũng như bệnh võng mạc đái tháo đường có cơ chế bệnh sinh là đa yếu tố và cực kỳ phức tạp. Do đó, nhiều nghiên cứu trên thế giới vẫn còn đang được tiến hành nhằm tìm hiểu mối liên quan trong cơ chế bệnh sinh phức tạp của bệnh. Nghiên cứu chúng tôi cho thấy không có mối liên quan giữa nồng đồ yếu tố tăng sinh tân mạch trước tiêm với các thông số tuổi, đường máu, HbAa1C, thời gian mắc đái tháo đường, thời gian nhìn mờ (p > 0,05). Mức glucose máu hay HbA1C ngay tại thời điểm nghiên cứu không phản ánh hết được thực sự quá trình kiểm soát đường máu của bệnh nhân trong suốt quá trình diễn tiến lâu dài gây ra biến chứng võng mạc do đái tháo đường. TCNCYH 114 (5) - 2018 31 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu khác trên thế giới [5 - 9] . Về mối tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với thị lực, bề dày võng mạc trung tâm, thể tích hoàng điểm, trên thế giới vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đa số báo cáo trước đây cho rằng nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn có tương quan với thị lực, bề dày võng mạc trung tâm [1 - 3]. Ngược lại, những kết quả công bố mới gần đây lại cho thấy không có mối tương quan giữa nồng độ yếu tố VEGF với thị lực, bề dày võng mạc trung tâm nhưng lại có mối tương quan giữa IL6, IL8, IL10, PDGF, với những thông số này [5 - 9]. Quan điểm mới trong cơ chế sinh bệnh học của bệnh phù hoàng điểm cần kể đến vai trò quan trọng của những cytokin gây viêm khác và đưa ra khuyến cáo điều trị triamcinolone nội nhãn cho một số trường hợp phù hoàng điểm dai dẳng có cơ chế bệnh sinh không đáp ứng điều trị với thuốc kháng nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch [5 - 9]. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh so với nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh (p < 0,001). Kết quả này rất phù hợp với hầu hết các nghiên cứu khác trên thế giới cho rằng nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn có liên quan với độ nặng của bệnh võng mạc đái tháo đường [1 - 3]. Nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch giữa nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang cao và nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang thấp (p < 0,05). Hiện tượng tăng huỳnh quang cao vùng hoàng điểm phản ánh sự dò rỉ huỳnh quang do hàng rào máu võng mạc bị phá vỡ. Sự tăng huỳnh quang thấp có thể là biểu hiện giai đoạn sớm, do đó giải thích có thể nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thấp ở giai đoạn sớm của bệnh là phù hợp [2; 3]. Báo cáo của Sonado và cộng sự năm (2014); của Kim và cộng sự (2015) đều cho thấy nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch không khác nhau giữa 3 loại hình thái học của phù hoàng điểm do đái tháo đường, chỉ có một số cytokine tiền viêm như IL6, IL8, PDGF có liên quan với hình thái học của phù hoàng điểm [7; 10]. Nghiên cứu này cũng cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phù hoàng điểm phân loại theo hình thái học (p < 0,001). V. KẾT LUẬN Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn Bevacizumab ở bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với các thông số lâm sàng giúp hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên lượng bệnh. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu xa hơn với cỡ mẫu lớn hơn để làm sáng tỏ vai trò của yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch trong cơ chế sinh bệnh học vẫn còn chưa rõ ràng của bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Bộ môn Mắt, Trường Đại học Y Hà Nội, Lãnh đạo Bệnh viện Mắt Đà Nẵng, tập thể khoa Đáy mắt Bệnh viện Mắt Đà Nẵng đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này. 32 TCNCYH 114 (5) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Funatsu H., Yamashita H., Noma H et al (2005). Aqueous humor levels of cytokines are related to vitreous levels and progression of diabetic retinopathy in diabetic patients. Graefes Arch Clin Exp Ophthalmol, 243, 3 - 8. 2. Funatsu H., Yamashita H., Nakamura S et al (2006). Vitreous levels of pigment epi- thelium-derived factor and care related to dia- betic macular edema. Ophthalmology, 113, 294 - 301. 3. Funatsu H., Noma H., Mimura T et al (2009). Association of vitreous inflammatory factors with diabetic macular edema. Ophthal- mology, 116, 73 - 79. 4. Costagliola C., Daniele A., dell'Omo R et al (2013). Aqueous humor levels of vascu- lar endothelial growth factor and adiponectin in patients with type 2 diabetes before and after intravitreal Bevacizumab injection. Exp Eye Res, 110, 50 - 54. 5. Krizova L., Kalousova M., Kubena A. A et al (2015). Correlation of Vitreous Vascu- lar Endothelial Growth Factor and Uric Acid Concentration Using Optical Coherence To- mography in Diabetic Macular Edema. J Oph- thalmol, 478509. 6. Funk M., Schmidinger G., Maar N et al (2010). Angiogenic and inflammatory markers in the intraocular fluid of eyes with diabetic macular edema and influence of therapy with Bevacizumab. Retina, 30, 1412 - 1419. 7. Kim M., Kim Y., and Lee S. J (2015). Comparison of aqueous concentrations of an- giogenic and in fl ammatory cytokines based on optical coherence tomography patterns of diabetic macular edema. Indian J Ophthalmol, 63, 312 - 317. 8. Roh M. I., Kim H. S., Song J. H et al (2009). Effect of intravitreal Bevacizumab in- jection on aqueous humor cytokine levels in clinically significant macular edema. Ophthal- mology, 116, 80 - 6. 9. Selim K. M., Sahan D., Muhittin T et al (2010). Increased levels of vascular endothe- lial growth factor in the aqueous humor of pa- tients with diabetic retinopathy. Indian J Oph- thalmol, 58, 375 - 9. 10. Sonoda S., Sakamoto T., Yamashita T et al (2014). Retinal morphologic changes and concentrations of cytokines in eyes with diabetic macular edema. Retina, 34, 741 - 748. Summary VASCULAR ENDOTHELIAL GROWTH FACTOR IN AQUEOUS HUMOR BEFORE AND AFTER INTRAVITREAL INJECTION OF BEVACIZUMAB TREATING DIABETIC MACULAR EDEMA To study the concentration of vascular endothelial growth factor (VEGF) from the aqueous hu- mor before and after intravitreal injection of Bevacizumab in eyes with diabetic macular edema (DME) and the correlation with the disease. In this prospective, interventional case series, 1.25 mg of Bevacizumab was injected into the vitreous cavity to treat DME in 20 eyes. Aqueous humor samples were obtained before intravitreal injection of Bevacizumab and 1 week after. VEGF con- centration from 464.88 ± 383.02pg/ml decreased to 20.29 ± 19.29 pg/ml (p < 0.001) at 1 week after injection. There was no correlation between VEGF concentration with the age, diabetic dura- tion, glycemia, HbA1C, vision loss time, best corrected visual acuity, central retinal thickness. TCNCYH 114 (5) - 2018 33 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC VEGF concentration was significantly higher in proliferative diabetic, hyperfluorescent DME. There were no differences in levels of VEGF between groups according to the morphologic pat- tern. Intravitreal injections of bevacizumab resulted in a substantial VEGF reduction. The correla- tion between the VEGF concentration with the disease parameters provide a better understanding of the role of VEGF in unclear pathogenesis of DME. Keyword: diabetes, macular edema, VEGF, Bevacizumab
File đính kèm:
nong_do_yeu_to_tang_sinh_tan_mach_trong_thuy_dich_truoc_va_s.pdf