Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường

Nghiên cứu nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab

ở phù hoàng điểm do đái tháo đường và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng. Nghiên cứu tiến cứu, can

thiệp lâm sàng trên 20 mắt có chỉ định tiêm bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. Mẫu thủy

dịch được lấy ngay trước và 1 tuần sau tiêm nội nhãn 1,25 mg Bevacizumab. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân

mạch trước tiêm là 464,88 ± 383,02pg/ml giảm xuống 20,29 ± 19,29pg/ml (p < 0,001)="" ở="" tất="" cả="" các="" mắt="">

tiêm 1 tuần. Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với tuổi, thời gian đái tháo

đường, đường máu, HbAa1C, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày, thể tích hoàng điểm. Nồng độ yếu tố tăng

sinh tân mạch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, nhóm tăng huỳnh quang

cao. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phân

loại theo hình thái học. Như vậy, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn

Bevacizumab ở phù hoàng điểm đái tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với

các thông số lâm sàng cho hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên

lượng bệnh

pdf 9 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường

Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm Bevacizumab nội nhãn điều trị phù hoàng điểm do đái tháo đường
 TCNCYH 114 (5) - 2018 25 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
NỒNG ĐỘ YẾU TỐ TĂNG SINH TÂN MẠCH TRONG THỦY DỊCH 
TRƯỚC VÀ SAU TIÊM BEVACIZUMAB NỘI NHÃN 
ĐIỀU TRỊ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Nguyễn Tuấn Thanh Hảo1, Phạm Trọng Văn2, Vũ Tuấn Anh3 
1Bệnh viện Mắt Đà Nẵng, 2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Mắt Trung ương 
Nghiên cứu nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab 
ở phù hoàng điểm do đái tháo đường và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng. Nghiên cứu tiến cứu, can 
thiệp lâm sàng trên 20 mắt có chỉ định tiêm bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. Mẫu thủy 
dịch được lấy ngay trước và 1 tuần sau tiêm nội nhãn 1,25 mg Bevacizumab. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân 
mạch trước tiêm là 464,88 ± 383,02pg/ml giảm xuống 20,29 ± 19,29pg/ml (p < 0,001) ở tất cả các mắt sau 
tiêm 1 tuần. Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với tuổi, thời gian đái tháo 
đường, đường máu, HbAa1C, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày, thể tích hoàng điểm. Nồng độ yếu tố tăng 
sinh tân mạch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, nhóm tăng huỳnh quang 
cao. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phân 
loại theo hình thái học. Như vậy, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn 
Bevacizumab ở phù hoàng điểm đái tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch với 
các thông số lâm sàng cho hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên 
lượng bệnh. 
Từ khóa: phù hoàng điểm, đái tháo đường, VEGF, Bevacizumab 
Địa chỉ liên hệ: Phạm Trọng Văn, Bộ môn Mắt, Trường 
Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 19/4/2018 
Ngày được chấp thuận: 18/7/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phù hoàng điểm là biến chứng phổ biến 
và là nguyên nhân gây mù hàng đầu ở bệnh 
nhân mắc bệnh võng mạc do đái tháo đường. 
Phù hoàng điểm đái tháo đường có liên quan 
đến phá vỡ hàng rào máu võng mạc và rò 
dịch trong võng mạc từ những mao mạch 
bất thường quanh hoàng điểm hay những vi 
phình mạch. 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch là yếu 
tố sinh mạch chủ chốt gây tăng tính thấm 
mạch/ phù hoàng điểm và tăng sinh tân mạch. 
Các nghiên cứu đã chứng minh nồng độ yếu 
tố tăng sinh tân mạch đóng vai trò chính trong 
tăng tính thấm mạch ở mắt bệnh nhân đái 
tháo đường và có mối liên quan giữa nồng độ 
yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn với phù 
hoàng điểm [1 - 3]. Nhiều nghiên cứu khác lại 
cho thấy nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch 
nội nhãn có thể không có mối liên quan với 
một số đặc điểm lâm sàng của phù hoàng 
điểm đái tháo đường [4]. Cơ chế bệnh sinh 
phức tạp còn chưa rõ ràng của bệnh có thể có 
liên quan đến các cytokine khác 
Bevacizumab (Avastin, Genentech Inc) là 
một trong những thuốc kháng nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch thường được sử dụng, an 
toàn cho nhiều bệnh lý mạch máu võng mạc 
trong đó có bệnh võng mạc do đái tháo đường 
[5]. Bevacizumab tiêm nội nhãn được mong 
đợi làm giảm nồng độ yếu tố tăng sinh tân 
mạch gây thoái triển tân mạch võng mạc và 
 26 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
giảm thoát dịch trong phù hoàng điểm đái tháo 
đường [6 - 8]. 
Việt Nam đã có vài nghiên cứu về hiệu quả 
lâm sàng của Bevacizumab trong điều trị bệnh 
lý mạch máu võng mạc. Tuy nhiên, cho đến 
nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về nồng độ 
yếu tố tăng sinh tân mạch trong bệnh phù 
hoàng điểm do đái tháo đường. Nghiên cứu 
được thực hiện nhằm mục tiêu: 
1. So sánh nồng độ yếu tố tăng sinh tân 
mạch trong thủy dịch trước và sau tiêm nội 
nhãn Bevacizumab điều trị bệnh phù hoàng 
điểm do đái tháo đường; 
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ 
yếu tố tăng sinh tân mạch với biến đổi võng 
mạc trên lâm sàng. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định phù 
hoàng điểm do đái tháo đường có ý nghĩa lâm 
sàng, có chỉ định tiêm Bevacizumab nội nhãn 
đến khám tại Bệnh viện Mắt Đà Nẵng từ tháng 
5/2016 đến tháng 3/2017. 
Tiêu chuẩn loại trừ: tiền sử bệnh tim 
mạch hay đột quỵ, dị ứng với Bevacizumab, 
có nhiễm trùng cấp tính tại mắt, đã tiêm các 
thuốc nội nhãn như Triamcinolone, thuốc ức 
chế nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch, đã 
laser võng mạc, đã phẫu thuật nội nhãn trong 
vòng 3 tháng trước khi nghiên cứu. 
Phương pháp 
- Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, thử 
nghiệm lâm sàng không nhóm chứng, so sánh 
2 giá trị trung bình trước và sau điều trị. 
- Các bước nghiên cứu 
+ Khám sàng lọc xác định bệnh nhân có 
phù hoàng điểm do đái tháo đường có chỉ 
định tiêm Bevacizumab nội nhãn 
+ Quy trình khám ghi nhận bệnh gồm: Đo 
thị lực có chỉnh kính, khám sinh hiển vi, chụp 
hình màu đáy mắt, chụp mạch huỳnh quang, 
chụp OCT hoàng điểm trước và sau tiêm 1 
tuần. 
+ Lấy mẫu bệnh phẩm thủy dịch ngay 
trước khi tiêm nội nhãn Bevacizumab và sau 
tiêm nội nhãn Bevacizumab 1 tuần. 
 + Đo nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch 
trong thủy dịch trước và sau tiêm 1 tuần bằng 
phương pháp định lượng với kit ELISA DVE00 
(R&D System). 
3. Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu được sự thông qua của Hội 
đồng chấm đề cương nghiên cứu của nghiên 
cứu sinh Trường Ðại học Y Hà Nội. Nghiên 
cứu được sự chấp nhận của Hội đồng đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại 
học Y Hà Nội, của Ban giám đốc, Hội đồng 
khoa học, Hội đồng đạo đức trong nghiên 
cứu của Bệnh viện Mắt Đà Nẵng. 
Tất cả bệnh nhân và người nhà bệnh nhân 
đều được giải thích, tư vấn kỹ về bệnh, hướng 
điều trị, tác dụng không mong muốn có thể 
gặp, mục đích của nghiên cứu. Chỉ đưa vào 
danh sách những bệnh nhân tự nguyện tham 
gia nghiên cứu. Các trường hợp không đồng ý 
tham gia nghiên cứu không bị phân biệt đối 
xử. Đối tượng nghiên cứu có thể từ chối tham 
gia nghiên cứu ở bất cứ giai đoạn nào trong 
quá trình nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân nghiên 
cứu đều được quyền điều trị và theo dõi. 
III. KẾT QUẢ 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 20 
mắt của 14 bệnh nhân. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 27 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
1. Đặc điểm mẫu bệnh nhân nghiên cứu 
Bệnh nhân nghiên cứu gồm 9 nam/5 nữ, tuổi trung bình 53, mắc bệnh đái tháo đường > 10 
năm HbA1C cao và đa số có đường huyết điều chỉnh (bảng 1). 
Bảng 1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm Trung bình ± Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất - lớn nhất 
Tuổi (năm) 53,86 ± 7,29 42 - 70 
Giới tính (nam/nữ) 9/5 - 
Đái tháo đường (type 1/type 2) 2/12 - 
Thời gian mắc đái tháo đường (năm) 13,11 ± 5,08 4 - 20 
Glucose máu đói (mmol/l) 9,78 ± 4,22 6,05 - 21,06 
HbA1c (%) 8,06 ± 2,02 3,90 - 11,50 
2. So sánh nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab 
Bảng 2. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm 
ở tất cả bệnh nhân nghiên cứu 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch (pg/ml) Trung bình ± độ lệch chuẩn p 
Trước tiêm 464,88 ± 383,02 
< 0,001 
Sau tiêm 20,29 ± 19,29 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,001). 
Biểu đồ 1. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm 
theo phân độ bệnh võng mạc đái tháo đường 
Ở cả 2 nhóm bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh và tăng sinh, nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, 
(p < 0,001). 
 28 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Biểu đồ 2. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm theo phân loại mức độ 
tăng huỳnh quang vùng hoàng điểm 
Ở cả 2 nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang thấp và tăng huỳnh quang cao, nồng độ yếu 
tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, (p 
< 0,001). 
Biểu đồ 3. Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước và sau tiêm 
theo hình thái học phù hoàng điểm 
Với các hình thái phù hoàng điểm, nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch sau tiêm giảm so với 
trước tiêm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). 
3. Mối liên quan giữa nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch với biểu hiện lâm sàng 
Không có sự tương quan giữa nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch với tuổi, đường 
máu, HbAa1C, thời gian mắc đái tháo đường, thời gian nhìn mờ, thị lực, bề dày võng mạc trung 
tâm và thể tích hoàng điểm (p > 0,05). 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 29 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Biểu đồ 4. Khác biệt về nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch theo phân độ bệnh 
võng mạc đái tháo đường 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy 
dịch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc 
đái tháo đường tăng sinh so với nhóm bệnh 
võng mạc đái tháo đường không tăng sinh 
(p < 0,001). 
Biểu đồ 5. Thay đổi nồng độ yếu tố tăng 
sinh tân mạch theo mức độ tăng huỳnh 
quang vùng hoàng điểm 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy dịch 
giữa nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh quang 
cao và nhóm phù hoàng điểm tăng huỳnh 
quang thấp (p < 0,05). 
Biểu đồ 6. Khác biệt nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch theo hình thái phù hoàng điểm 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế về nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trước tiêm 
giữa các hình thái phù hoàng điểm khác nhau (p > 0,05). 
 30 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Trước tiêm 
Thị lực: 20/150 
VEGF: 475,1 pg/ml 
Độ dày: 650 µm 
Sau tiêm 
Thị lực: 20/60 
VEGF: 30,6 pg/ml 
Độ dày: 198 µm 
Hình 1. Kết quả trước và sau tiêm nội nhãn Bevacizumab của bệnh nhân nam, 56 tuổi, 
phù hoàng điểm do đái tháo đường 
IV. BÀN LUẬN 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy 
dịch trước tiêm trung bình là 464,88 ± 383,02 
pg/ml đã giảm xuống chỉ còn 20,29 ± 19,29 
pg/ml sau tiêm nội nhãn 1 tuần. Tiêm nội nhãn 
Bevacizumab làm giảm nồng độ yếu tố yếu tố 
tăng sinh tân mạch thủy dịch xuống gấp hơn 
20 lần. Kết quả tương tự cũng đã được công 
bố bởi nhiều tác giả khác trên thế giới [4; 6; 8]. 
Sự khác biệt này cũng xảy ra ở từng nhóm 
bệnh nhân phân loại theo tình trạng bệnh 
võng mạc đái tháo đường, theo mức độ tăng 
huỳnh quang vùng hoàng điểm, theo hình thái 
học phù hoàng điểm (p < 0,001). 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch tăng 
cả trong dịch kính và thủy dịch ở bệnh phù 
hoàng điểm và bệnh võng mạc do đái tháo 
đường tiến triển [1; 9]. Nghiên cứu của chúng 
tôi đo nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong 
thủy dịch vì lấy mẫu thủy dịch thì dễ dàng và 
an toàn hơn nhiều so với lấy mẫu dịch kính. 
Những nghiên cứu khác trên thế giới cũng đã 
cho thấy tiêm nội nhãn thuốc kháng yếu tố 
tăng sinh tân mạch làm giảm đáng kể nồng độ 
yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn [4; 
6; 8]. Vai trò chính của nồng độ yếu tố tăng 
sinh tân mạch trong sinh bệnh học của bệnh 
nên điều trị mục tiêu nhắm vào nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch đã trở thành chiến lược 
điều trị trong phù hoàng điểm do đái tháo 
đường. Tuy nhiên, phù hoàng điểm do đái 
tháo đường cũng như bệnh võng mạc đái tháo 
đường có cơ chế bệnh sinh là đa yếu tố và 
cực kỳ phức tạp. Do đó, nhiều nghiên cứu 
trên thế giới vẫn còn đang được tiến hành 
nhằm tìm hiểu mối liên quan trong cơ chế 
bệnh sinh phức tạp của bệnh. 
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy không có 
mối liên quan giữa nồng đồ yếu tố tăng sinh 
tân mạch trước tiêm với các thông số tuổi, 
đường máu, HbAa1C, thời gian mắc đái tháo 
đường, thời gian nhìn mờ (p > 0,05). Mức 
glucose máu hay HbA1C ngay tại thời điểm 
nghiên cứu không phản ánh hết được thực sự 
quá trình kiểm soát đường máu của bệnh 
nhân trong suốt quá trình diễn tiến lâu dài gây 
ra biến chứng võng mạc do đái tháo đường. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 31 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu 
khác trên thế giới [5 - 9] . 
Về mối tương quan giữa nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch với thị lực, bề dày võng 
mạc trung tâm, thể tích hoàng điểm, trên thế 
giới vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống 
nhất. Đa số báo cáo trước đây cho rằng nồng 
độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội nhãn 
có tương quan với thị lực, bề dày võng mạc 
trung tâm [1 - 3]. Ngược lại, những kết quả 
công bố mới gần đây lại cho thấy không có 
mối tương quan giữa nồng độ yếu tố VEGF 
với thị lực, bề dày võng mạc trung tâm nhưng 
lại có mối tương quan giữa IL6, IL8, IL10, 
PDGF,† với những thông số này [5 - 9]. 
Quan điểm mới trong cơ chế sinh bệnh học 
của bệnh phù hoàng điểm cần kể đến vai trò 
quan trọng của những cytokin gây viêm khác 
và đưa ra khuyến cáo điều trị triamcinolone 
nội nhãn cho một số trường hợp phù hoàng 
điểm dai dẳng có cơ chế bệnh sinh không đáp 
ứng điều trị với thuốc kháng nồng độ yếu tố 
tăng sinh tân mạch [5 - 9]. 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch thủy 
dịch cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh võng mạc 
đái tháo đường tăng sinh so với nhóm bệnh 
võng mạc đái tháo đường không tăng sinh 
(p < 0,001). Kết quả này rất phù hợp với hầu 
hết các nghiên cứu khác trên thế giới cho rằng 
nồng độ yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch nội 
nhãn có liên quan với độ nặng của bệnh võng 
mạc đái tháo đường [1 - 3]. 
Nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về nồng độ yếu tố tăng 
sinh tân mạch thủy dịch giữa nhóm phù hoàng 
điểm tăng huỳnh quang cao và nhóm phù 
hoàng điểm tăng huỳnh quang thấp (p < 0,05). 
Hiện tượng tăng huỳnh quang cao vùng 
hoàng điểm phản ánh sự dò rỉ huỳnh quang 
do hàng rào máu võng mạc bị phá vỡ. Sự 
tăng huỳnh quang thấp có thể là biểu hiện giai 
đoạn sớm, do đó giải thích có thể nồng độ yếu 
tố tăng sinh tân mạch thấp ở giai đoạn sớm 
của bệnh là phù hợp [2; 3]. 
Báo cáo của Sonado và cộng sự năm 
(2014); của Kim và cộng sự (2015) đều cho 
thấy nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch không 
khác nhau giữa 3 loại hình thái học của phù 
hoàng điểm do đái tháo đường, chỉ có một số 
cytokine tiền viêm như IL6, IL8, PDGF có liên 
quan với hình thái học của phù hoàng điểm [7; 
10]. Nghiên cứu này cũng cho thấy không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ 
yếu tố tăng sinh tân mạch giữa các nhóm phù 
hoàng điểm phân loại theo hình thái học 
(p < 0,001). 
V. KẾT LUẬN 
Nồng độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong 
thủy dịch giảm đáng kể sau tiêm nội nhãn 
Bevacizumab ở bệnh phù hoàng điểm do đái 
tháo đường. Mối liên quan giữa nồng độ yếu 
tố tăng sinh tân mạch với các thông số lâm 
sàng giúp hiểu biết tốt hơn về vai trò của nồng 
độ yếu tố tăng sinh tân mạch trong tiên lượng 
bệnh. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu xa 
hơn với cỡ mẫu lớn hơn để làm sáng tỏ vai trò 
của yếu tố yếu tố tăng sinh tân mạch trong cơ 
chế sinh bệnh học vẫn còn chưa rõ ràng của 
bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường. 
Lời cảm ơn 
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn 
Bộ môn Mắt, Trường Đại học Y Hà Nội, Lãnh 
đạo Bệnh viện Mắt Đà Nẵng, tập thể khoa Đáy 
mắt Bệnh viện Mắt Đà Nẵng đã giúp đỡ tạo 
điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành 
nghiên cứu này. 
 32 TCNCYH 114 (5) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Funatsu H., Yamashita H., Noma H et 
al (2005). Aqueous humor levels of cytokines 
are related to vitreous levels and progression 
of diabetic retinopathy in diabetic patients. 
Graefes Arch Clin Exp Ophthalmol, 243, 3 - 8. 
2. Funatsu H., Yamashita H., Nakamura 
S et al (2006). Vitreous levels of pigment epi-
thelium-derived factor and care related to dia-
betic macular edema. Ophthalmology, 113, 
294 - 301. 
3. Funatsu H., Noma H., Mimura T et al 
(2009). Association of vitreous inflammatory 
factors with diabetic macular edema. Ophthal-
mology, 116, 73 - 79. 
4. Costagliola C., Daniele A., dell'Omo R 
et al (2013). Aqueous humor levels of vascu-
lar endothelial growth factor and adiponectin in 
patients with type 2 diabetes before and after 
intravitreal Bevacizumab injection. Exp Eye 
Res, 110, 50 - 54. 
5. Krizova L., Kalousova M., Kubena A. 
A et al (2015). Correlation of Vitreous Vascu-
lar Endothelial Growth Factor and Uric Acid 
Concentration Using Optical Coherence To-
mography in Diabetic Macular Edema. J Oph-
thalmol, 478509. 
6. Funk M., Schmidinger G., Maar N et al 
(2010). Angiogenic and inflammatory markers 
in the intraocular fluid of eyes with diabetic 
macular edema and influence of therapy with 
Bevacizumab. Retina, 30, 1412 - 1419. 
7. Kim M., Kim Y., and Lee S. J (2015). 
Comparison of aqueous concentrations of an-
giogenic and in fl ammatory cytokines based 
on optical coherence tomography patterns of 
diabetic macular edema. Indian J Ophthalmol, 
63, 312 - 317. 
8. Roh M. I., Kim H. S., Song J. H et al 
(2009). Effect of intravitreal Bevacizumab in-
jection on aqueous humor cytokine levels in 
clinically significant macular edema. Ophthal-
mology, 116, 80 - 6. 
9. Selim K. M., Sahan D., Muhittin T et al 
(2010). Increased levels of vascular endothe-
lial growth factor in the aqueous humor of pa-
tients with diabetic retinopathy. Indian J Oph-
thalmol, 58, 375 - 9. 
10. Sonoda S., Sakamoto T., Yamashita 
T et al (2014). Retinal morphologic changes 
and concentrations of cytokines in eyes with 
diabetic macular edema. Retina, 34, 741 - 
748. 
Summary 
VASCULAR ENDOTHELIAL GROWTH FACTOR IN AQUEOUS HUMOR 
BEFORE AND AFTER INTRAVITREAL INJECTION OF BEVACIZUMAB 
TREATING DIABETIC MACULAR EDEMA 
To study the concentration of vascular endothelial growth factor (VEGF) from the aqueous hu-
mor before and after intravitreal injection of Bevacizumab in eyes with diabetic macular edema 
(DME) and the correlation with the disease. In this prospective, interventional case series, 1.25 
mg of Bevacizumab was injected into the vitreous cavity to treat DME in 20 eyes. Aqueous humor 
samples were obtained before intravitreal injection of Bevacizumab and 1 week after. VEGF con-
centration from 464.88 ± 383.02pg/ml decreased to 20.29 ± 19.29 pg/ml (p < 0.001) at 1 week 
after injection. There was no correlation between VEGF concentration with the age, diabetic dura-
tion, glycemia, HbA1C, vision loss time, best corrected visual acuity, central retinal thickness. 
 TCNCYH 114 (5) - 2018 33 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
VEGF concentration was significantly higher in proliferative diabetic, hyperfluorescent DME. 
There were no differences in levels of VEGF between groups according to the morphologic pat-
tern. Intravitreal injections of bevacizumab resulted in a substantial VEGF reduction. The correla-
tion between the VEGF concentration with the disease parameters provide a better understanding 
of the role of VEGF in unclear pathogenesis of DME. 
Keyword: diabetes, macular edema, VEGF, Bevacizumab 

File đính kèm:

  • pdfnong_do_yeu_to_tang_sinh_tan_mach_trong_thuy_dich_truoc_va_s.pdf