Nồng độ interferon gamma trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bv. da liễu thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮT

Mở đầu: IFN-γ là một yếu tố điều hòa miễn dịch quan trọng đóng vai trò rất lớn trong sinh bệnh học của

bệnh vảy nến. Nghiên cứu này góp phần tìm hiểu rõ hơn về sinh bệnh học của bệnh vảy nến tại Việt Nam cũng

như đặt những viên gạch đầu tiên cho việc nghiên cứu và phát triển liệu pháp sinh học thuốc kháng IFN-γ trong

điều trị bệnh vảy nến.

Mục tiêu: Định lượng nồng độ IFN- γ huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến và so sánh nồng độ IFN- γ

huyết thanh với độ nặng lâm sàng, thời gian mắc bệnh và tính chất khởi phát sớm của bệnh vảy nến.

Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích trên 40 người khỏe mạnh và 62 bệnh nhân vảy nến.

Kết quả: Nồng độ IFN- γ trong huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến trung bình là 11,24 ± 6,94 pg/mL,

cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người bình thường là 1,29 ± 0,76 pg/mL (p < 0,001).="" nồng="" độ="" ifn-="">

trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân đỏ da toàn thân do vảy nến là 13,80 ± 8,51 pg/mL, nhóm vảy nến khớp là

10,86 ± 5,79 pg/mL và thấp nhất là nhóm bệnh nhân vảy nến mảng 9,76 ± 5,84 pg/mL. Tất cả nồng độ này đều

cao hơn nhóm bình thường với p < 0,001.="" tuy="" nhiên="" chúng="" tôi="" không="" tìm="" thấy="" sự="" khác="" biệt="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="">

nồng độ IFN- γ huyết thanh giữa các dạng lâm sàng của bệnh vảy nến. Có mối tương quan tuyến tính giữa nồng

độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy nến mảng tính theo chỉ số PASI (hệ số tương quan r = 0,51, p

0,001). Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy

nến khớp (p = 0,60). Không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và thời gian

mắc bệnh (p=0,25), giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh với tính chất khởi bệnh sớm trước 30 tuổi (p=0,19).

pdf 8 trang phuongnguyen 6360
Bạn đang xem tài liệu "Nồng độ interferon gamma trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bv. da liễu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nồng độ interferon gamma trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bv. da liễu thành phố Hồ Chí Minh

Nồng độ interferon gamma trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bv. da liễu thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 364
NỒNG ĐỘ INTERFERON GAMMA TRONG HUYẾT THANH 
BỆNH NHÂN VẢY NẾN TẠI BV. DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Võ Thị Đoan Phượng*, Nguyễn Tất Thắng** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: IFN-γ là một yếu tố điều hòa miễn dịch quan trọng đóng vai trò rất lớn trong sinh bệnh học của 
bệnh vảy nến. Nghiên cứu này góp phần tìm hiểu rõ hơn về sinh bệnh học của bệnh vảy nến tại Việt Nam cũng 
như đặt những viên gạch đầu tiên cho việc nghiên cứu và phát triển liệu pháp sinh học thuốc kháng IFN-γ trong 
điều trị bệnh vảy nến. 
Mục tiêu: Định lượng nồng độ IFN- γ huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến và so sánh nồng độ IFN- γ 
huyết thanh với độ nặng lâm sàng, thời gian mắc bệnh và tính chất khởi phát sớm của bệnh vảy nến. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích trên 40 người khỏe mạnh và 62 bệnh nhân vảy nến. 
Kết quả: Nồng độ IFN- γ trong huyết thanh ở những bệnh nhân vảy nến trung bình là 11,24 ± 6,94 pg/mL, 
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người bình thường là 1,29 ± 0,76 pg/mL (p < 0,001). Nồng độ IFN- γ 
trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân đỏ da toàn thân do vảy nến là 13,80 ± 8,51 pg/mL, nhóm vảy nến khớp là 
10,86 ± 5,79 pg/mL và thấp nhất là nhóm bệnh nhân vảy nến mảng 9,76 ± 5,84 pg/mL. Tất cả nồng độ này đều 
cao hơn nhóm bình thường với p < 0,001. Tuy nhiên chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
nồng độ IFN- γ huyết thanh giữa các dạng lâm sàng của bệnh vảy nến. Có mối tương quan tuyến tính giữa nồng 
độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy nến mảng tính theo chỉ số PASI (hệ số tương quan r = 0,51, p < 
0,001). Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và độ nặng của vảy 
nến khớp (p = 0,60). Không có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh và thời gian 
mắc bệnh (p=0,25), giữa nồng độ IFN- γ huyết thanh với tính chất khởi bệnh sớm trước 30 tuổi (p=0,19). 
Kết luận: Xét nghiệm nồng độ IFN- huyết thanh là 1 xét nghiệm cung cấp những thông tin hữu ích giúp 
chúng ta hiểu rõ hơn về mạng lưới sinh bệnh học của bệnh vảy nến. Hiện nay trên thế giới hoàn toàn chưa có 1 
xét nghiệm nào hỗ trợ đánh giá độ nặng lâm sàng của vảy nến. Do đó, việc định lượng IFN- γ huyết thanh có thể 
được khuyến cáo sử dụng như 1 công cụ hỗ trợ trong việc đánh giá độ nặng của bệnh và theo dõi điều trị. 
Từ khóa: Nồng độ Interferon gamma huyết thanh, bệnh nhân vảy nến 
ABSTRACT 
SERUM INTERFERON GAMMA IN PATIENTS WITH PSORIASIS 
IN HOSPITAL OF DERMATO-VENEREOLOGY IN HO CHI MINH CITY 
Vo Thi Doan Phuong , Nguyen Tat Thang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 364 - 371 
Background: Interferon gamma (IFN- γ) is an important immune regulator and plays a major role in the 
pathogenesis of psoriasis. This study takes part in improving the understanding of pathogenesis of psoriasis, which 
encourages further research on anti-IFN- γ biologic therapy in the treatment of psoriasis. 
Objective: To analyze the serum IFN-γ levels in psoriatic patients to evaluate the concentrations, correlation 
with some clinical features. 
Method: Performing an analyzed cross-sectional study in 42 healthy subjects and 60 psoriatic patients. 
* Bệnh viện Da Liễu Tp Hồ Chí Minh ** Bộ môn Da Liễu Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Tất Thắng ĐT: 0903350104 Email: thangngtat@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 365
Results: The mean serum IFN- γ levels of the patients were 11.24 ± 6.94 pg/mL, significantly higher than 
those of healthy subjects 1.29 ± 0.76 pg/mL (p < 0.001). The mean serum IFN- γ levels of patients with 
erythroderma (13.80 ± 8.51 pg/mL), the plaque-type psoriatic patients (9.76 ± 5.84 pg/mL) and patients with 
psoriatic arthritis (10.86 ± 5.79 pg/mL) were significantly differerent from those of healthy subjects (p < 0.001). 
There was not a significantly differerent between the serum IFN- γ levels and severity of psoriatic arthritis 
(p=0.60). There was a linear positive correlation between the serum IFN- γ levels and psoriasis area and severity 
index (PASI) scores (R = 0.51, p <0.001). There was no significant correlation between serum IFN- γ levels of the 
patients and duration of illness (p=0.25), early onset (before 30 years old) (p=0.30). 
Conclusion: Serum IFN- γ levels provide many useful information about pathogenesis of psoriasis. 
There haven’t been any tests to evaluate the severity of psoriasis. Therefore, Serum IFN- γ levels might have 
clinical usefulness, particularly in evaluating the monitoring the clinical disease severity and monitoring 
therapeutic effects. 
Keywords: Serum Interferon gamma, psoriatic patients 
MỞ ĐẦU 
Vảy nến là một bệnh viêm da mạn tính ảnh 
hưởng đến 2%-3% dân số thế giới, đặc trưng bởi 
hiện tượng tăng thấm nhập tế bào viêm, tăng 
sinh lớp thượng bì và dãn các vi mao mạch(13). 
Mặc dù còn nhiều vấn đề chưa được hiểu rõ 
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh vảy nến, nhưng 
với tiến bộ của nền y học trong thời gian gần đây 
đã chỉ ra vai trò quan trọng của cytokine và 
những yếu tố phát triển(4). 
Trong số các cytokine, Interferon Gamma 
(IFN-γ) – một cytokine có nguồn gốc từ tế bào T 
giúp nhóm 1 (TH1), một yếu tố điều hòa miễn 
dịch quan trọng và đóng vai trò rất lớn trong 
sinh bệnh học của bệnh vảy nến. 
Tuy nhiên, tại Việt Nam nói chung và tại Tp 
Hồ Chí Minh nói riêng, hiện nay có rất ít nghiên 
cứu về nồng độ cytokine trong huyết thanh của 
bệnh nhân vảy nến. Do đó, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này với mục tiêu nhằm định lượng 
nồng độ IFN-γ trong huyết thanh bệnh nhân vảy 
nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ da toàn 
thân. Đồng thời, chúng tôi cũng xác định mối 
liên quan giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh và độ 
nặng của bệnh cũng như các dạng lâm sàng của 
bệnh vảy nến. 
Mục tiêu nghiên cứu 
- Định lượng nồng độ IFN-γ trong huyết 
thanh của bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến 
khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại 
bệnh viện Da Liễu Tp HCM. 
- So sánh sự khác biệt về nồng độ IFN-γ 
trong huyết thanh giữa nhóm người bình 
thường và những bệnh nhân vảy nến mảng, vảy 
nến khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại 
bệnh viện Da Liễu Tp HCM. 
- Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ IFN-γ 
trong huyết thanh và thời gian mắc bệnh, chỉ số 
PASI, độ nặng của vảy nến khớp, tuổi khởi phát 
của bệnh vảy nến điều trị tại bệnh viện Da Liễu 
Tp HCM. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Cắt ngang phân tích. 
Đối tượng nghiên cứu 
62 bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp 
và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị tại bệnh viện 
Da liễu Tp.HCM từ ngày 01//2011 đến 07/2011 đã 
được chọn vào nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Nhóm bệnh nhân vảy nến 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
- Bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp, 
đỏ da toàn thân do vảy nến được điều trị tại 
bệnh viện Da liễu TPHCM từ 01/2011 đến 
07/2011. 
- Tuổi > = 18. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 366
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Bệnh nhân đã điều trị thuốc đặc hiệu theo 
đường toàn thân trong vòng 2 tháng trước nhập 
viện. 
- Bệnh nhân đã điều trị thuốc đặc hiệu theo 
đường thoa tại chỗ trong vòng 2 tuần trước nhập 
viện. 
- Bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm trùng cấp 
tính hoặc mạn tính (viêm gan siêu vi...), bệnh 
mạn tính (xơ gan, ung thư), rối loạn chuyển 
hóa (béo phì, tiểu đường...). 
- Bệnh nhân thuộc những thể vảy nến khác: 
vảy nến giọt, vảy nến mủ, vảy nến trẻ em 
Nhóm người bình thường 
- Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
- Những người khỏe mạnh hiện tại không 
mắc các bệnh: nhiễm trùng cấp tính hoặc mạn 
tính, bệnh nội khoa mạn tính (xơ gan, ung 
thư), rối loạn chuyển hóa (béo phì, tiểu 
đường...) hoặc có người nhà thuộc quan hệ huyết 
thống mắc bệnh vảy nến. 
- Có độ tuổi và giới tính tương đồng với 
nhóm bệnh nhân vảy nến. 
Phương pháp chọn mẫu 
Liên tục thuận tiện. 
Phân tích số liệu 
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 
9.0. 
Cách tiến hành nghiên cứu 
Nhóm bệnh nhân vảy nến 
- Mỗi bệnh nhân được hỏi kỹ bệnh sử và 
thăm khám lâm sàng, ghi nhận tất cả các yếu tố 
liên quan vào phiếu thu thập thông tin. 
- Bệnh nhân sẽ được lấy máu làm xét nghiệm 
IFN-γ và các xét nghiệm thông thường khác: 
sinh hóa máu (đường huyết, creatinine máu, 
SGOT, SGPT, GGT, lipid máu, công thức máu, 
VS, tổng phân tích nước tiểu). 
- Mẫu máu làm xét nghiệm IFN-γ được lấy 
sau khi nhịn đói ít nhất 8 giờ và được gởi đi bệnh 
viện Chợ Rẫy Tp.HCM. 
- Tất cả những bệnh nhân có kết quả xét 
nghiệm thường qui bất thường thuộc tiêu chuẩn 
loại trừ bệnh đều bị loại khỏi nghiên cứu. 
Nhóm người bình thường 
- Những người bình thường khỏe mạnh 
được chọn từ các nhân viên, học viên tại bệnh 
viện Da Liễu và thân nhân của những người tình 
nguyện này. 
- Qui trình thực hiện xét nghiệm IFN-γ 
tương tự như những bệnh nhân vảy nến. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1: Một số đặc điểm dịch tễ của các đối tượng 
nghiên cứu 
Đặc điểm Nhóm vảy 
nến (N=62) 
Nhóm bình 
thường (N=40) 
Giá trị p 
Tuổi (trung bình) 43,5±13,2 41,3±13,7 0,410 
Giới(%) 
Nữ 45 45 0,897 
Nam 55 55 
Nhận xét: tuổi trung bình của nhóm vảy nến 
là 43,5±13,2, của nhóm bình thường là 41,3±13,7. 
Tỉ lệ giới nữ là 45% và nam là 55% ở cả 2 nhóm. 
Một số đặc điểm lâm sàng của nhóm vảy nến 
Thời gian bệnh và tuổi khởi phát bệnh 
Thời gian bệnh trung bình l 12,1+8,6 năm, 
trong đó, bệnh nhân mắc bệnh kéo dài ít nhất là 
1 năm, nhiều nhất là 39 năm.Tuổi khởi bệnh 
trung bình l 31,2+11,4 tuổi. 55% bệnh nhân khởi 
phát sớm trước 30 tuổi. 
Phân loại lâm sàng 
Bảng 2: Phân bố các dạng lâm sàng của nhóm vảy 
nến 
Dạng lâm sàng Nữ Nam Tổng cộng Tỉ lệ(%) 
Vảy nến mảng 15 17 32 52 
Vảy nến khớp 4 6 10 16 
Đỏ da toàn thân vảy nến 9 11 20 32 
Tổng cộng 28 34 62 100 
Nhận xét: vảy nến mảng chiếm tỉ lệ cao nhất 
với 52%, thứ 2 là đỏ da toàn thân do vảy nến với 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 367
tỉ lệ 32% và cuối cùng là vảy nến khớp 16%. 
Đặc điểm tổn thương khớp 
Bảng 3: Tỉ lệ các loại tổn thương khớp của bệnh nhân 
vảy nến 
Tổn thương khớp Số bệnh nhân Tỉ lệ (%) 
Khớp ngoại biên 3 30 
Khớp trục và khớp ngoại biên 7 70 
Tổng cộng 10 100 
Nhận xét: có 30% bệnh nhân chỉ tổn thương 
khớp ngoại biên, có 70% bệnh nhân vừa tổn 
thương khớp trục và khớp ngoại biên. 
Chỉ số PASI 
Bảng 4: Đặc điểm chỉ số PASI ở nhóm bệnh nhân vảy nến 
PASI Vảy nến mảng 
(N=32) 
Vảy nến khớp 
(N=10) 
p 
Trung bình 21,98 ± 9,83 23,68 ± 9,58 0,63 
Thấp nhất 5,6 14,3 
Cao nhất 44,5 45 
Nhận xét: chỉ số PASI của nhóm vảy nến 
mảng là 21,98 ± 9,83 pg/ml, của nhóm vảy nến 
khớp là 23,68 ± 9,58 pg/ml. Tuy nhiên sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê. 
Nồng độ IFN-γ 
Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở 
bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường 
Bảng 5: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở 
bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường 
Đặc điểm Nhóm vảy 
nến (N=62) 
Nhóm bình 
thường (N=40) 
Giá trị p 
Nồng độ IFN- γ 
(pg/ml) 
11,24±6,94 
(9,48-13,00) 
1,29±0,76 
(1,05-1,53) 
<0,001 
Cao nhất 27,44 3,14 
Thấp nhất 0,51 0,15 
Nhận xét: nồng độ IFN-γ của nhóm vảy 
nến là 11,24 pg/ml cao hơn nhóm bình thường 
1,29pg/ml có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh 
theo phân loại lâm sàng trong nhóm bệnh 
nhân vảy nến 
Bảng 6: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh 
theo phân loại lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy nến 
Phân loại lâm sàng TB± ĐLC KTC 95% P 
Vảy nến mảng 9,76±5,84 7,65-11,86 0,12 
Vảy nến khớp 10,86±5,79 6,72-15,01 
Phân loại lâm sàng TB± ĐLC KTC 95% P 
Đỏ da toàn thân 13,80±8,51 9,82-17,78 
Nhận xét: nồng độ IFN-γ huyết thanh cao 
nhất ở nhóm bệnh nhân đỏ da toàn thân. Sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,12) 
giữa những nhóm này. 
Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở 
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân 
vảy nến so với nhóm người bình thường 
Bảng 7: Sự khác biệt về nồng độ IFN-γ huyết thanh ở 
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy nến 
so với nhóm người bình thường 
 Vảy nến 
mảng 
Vảy nến 
khớp 
Đỏ da 
toàn thân 
Nhóm bình thường p<0,001 P<0,001 p<0,001 
Nhận xét: nồng độ IFN- γ huyết thanh của 
từng dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân vảy 
nến đều cao hơn nhóm bình thường và sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Mối liên quan giữa nồng độ IFN- γ huyết 
thanh với độ nặng của vảy nến khớp và 
tuổi khởi phát của bệnh 
Bảng 8: Mối liên quan giữa nồng độ IFN- huyết 
thanh với độ nặng của vảy nến khớp và tuổi khởi phát 
của bệnh 
Đặc điểm IFN- γ(pg/ml) 
TB ±ĐLC KTC 95% P 
Tổn thương khớp 
Khớp ngoại biên 9,29±0,79 7,33-11,25 0,60 
Khớp ngoại biên và khớp trục 12,68±7,74 5,53-19,83 
Khởi phát bệnh: Sớm 10,20±6,73 7,85-12,55 0,19 
Muộn 12,50±7,10 9,75-12,25 
Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê của nồng độ IFN-γ huyết thanh giữa 2 
nhóm bệnh nhân tổn thương khớp cũng như 
giữa 2 nhóm bệnh nhân khởi phát sớm và muộn. 
Mối tương quan giữa nồng độ IFN- γ huyết 
thanh với thời gian mắc bệnh và chỉ số 
PASI của bệnh vảy nến 
Bảng 9: Mối tương quan giữa nồng độ IFN- huyết 
thanh với thời gian mắc bệnh và chỉ số PASI của bệnh 
vảy nến 
Đặc điểm Giá trị thống kê IFN-γ 
Thời gian bệnh R 0,15 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 368
Đặc điểm Giá trị thống kê IFN-γ 
p 0,25 
PASI R 0,51 
p <0,001 
Nhận xét: không có mối tương quan tuyến 
tính giữa nồng độ IFN-γ và thời gian mắc 
bệnh nhưng có mối tương quan tuyến tính với 
chỉ số PASI. 
Mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ và chỉ 
số PASI được thể hiện qua phương trình hồi qui 
tuyến tính: 
Y= 0,30X + 3,24 
BÀN LUẬN 
Chỉ số IFN-γ huyết thanh ở nhóm bình 
thường khỏe mạnh của chúng tôi đã là 1,29 ± 
0,76 pg/ml. Kết quả này tương tự nghiên cứu 
của Phan Thị Danh thực hiện trên 47 người 
tình nguyện khỏe mạnh tại bệnh viện Chợ Rẫy 
năm 2009 là 1,0 ± 2,0 pg/ml(11). Đồng thời, 
chúng tôi cũng đo được nồng độ IFN-γ huyết 
thanh của 62 bệnh nhân vảy nến là 11,24 ± 6,94 
pg/ml cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm bình thường. Kết quả này tương tự một 
số nghiên cứu khác như của Abdallah thực 
hiện năm 2009 trên 21 bệnh nhân(1), của tác giả 
Chodorowska ở Ba Lan(3), của Takahashi ở 
Nhật(13), của tác giả Arican và cộng sự(2), của 
Szegedi(12) và tác giả Jacob thực hiện trên 12 
bệnh nhân ở Mỹ(7). Tuy nhiên một nghiên cứu 
của tác giả Gomi dù tìm thấy nồng độ IFN-γ 
huyết thanh ở nhóm vảy nến cao hơn nhóm 
bình thường có ý nghĩa nhưng không trình 
bày được trung bình ± độ lệch chuẩn của nồng 
độ IFN-γ huyết thanh ở cả 2 nhóm(5). Nhờ kĩ 
thuật xét nghiệm hóa quang miễn dịch với độ 
nhạy rất cao mà chúng tôi có thể phát hiện 
IFN-γ trong huyết thanh 100% các trường hợp. 
Khác với Gomi và cộng sự sử dụng kĩ thuật 
RIA (radioimmunoassay) với ngưỡng 0,8 
pg/mL nên chỉ đo được nồng độ IFN-γ huyết 
thanh của 2 trong 21 người bình thường và 
của 10 trong 21 bệnh nhân vảy nến tham gia 
nghiên cứu(5). 
Khi so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh 
của 3 dạng lâm sàng trong nhóm bệnh nhân 
vảy nến, mặc dù chúng tôi ghi nhận được 
nồng độ của nhóm đỏ da toàn thân do vảy nến 
cao hơn nhóm vảy nến khớp và cao hơn nhóm 
vảy nến mảng nhưng sự khác biệt này không 
có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả này trái với mong đợi ban đầu của 
chúng tôi rằng từng dạng lâm sàng có biểu 
hiện lâm sàng và diễn tiến khác nhau: vảy nến 
mảng thường diễn tiến mạn tính trong khi vảy 
nến khớp và vảy nến đỏ da toàn thân là những 
thể bệnh nặng, có tổn thương viêm hệ thống 
nhiều hơn, vì vậy nồng độ IFN- γ huyết thanh 
sẽ tăng cao hơn. Điều này có thể do cỡ mẫu 
của chúng tôi không đủ, trong tương lai cần 
thực hiện với số lượng bệnh nhân lớn hơn để 
có kết luận chính xác. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ 
IFN- γ huyết thanh của nhóm vảy nến mảng cao 
hơn nhóm bình thường có ý nghĩa thống kê 
(p<0,001). Kết quả này tương tự nghiên cứu của 
tác giả Abdallah trên 21 bệnh nhân vảy nến 
(p<0,05)(1). 
Một nghiên cứu khác của tác giả Gomi và 
cộng sự được thực hiện trên 21 bệnh nhân vảy 
nến mảng và 21 người bình thường cũng ghi 
nhận nồng độ IFN- γ huyết thanh ở nhóm bệnh 
cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê(5). 
Thêm nữa, tác giả Arican đã tiến hành đo nồng 
độ này ở 30 bệnh nhân vảy nến mảng và 23 
người tình nguyện khỏe mạnh tại Thổ Nhĩ Kỳ 
cũng ghi nhận sự khác biệt giữa nồng độ IFN- γ 
huyết thanh giữa 2 nhóm này (p<0,05)(8). 
Nhiều nghiên cứu trước nay đã chứng minh 
vai trò quan trọng của IFN- γ trong cơ chế sinh 
bệnh học của vảy nến. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cũng ủng hộ giả thuyết IFN- γ đóng 
vai trò quan trọng trong hệ thống cytokine dẫn 
đến sự phát triển và duy trì của quá trình viêm 
trong bệnh vảy nến (3). Các cytokine hoạt động 
tương tác lẫn nhau, trong đó, IFN- γ là một trong 
những cytokine đóng vai trò trung tâm. Nó kích 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 369
thích sự giải phóng các cytokine như IL-1, IL-8, 
TNF-α, các hóa chất trung gian của phản ứng 
viêm. Hơn nữa, IFN- γ còn có khả năng bộc lộ 
phân tử kết dính tế bào 1 (ICAM-1) và HLA-DR, 
vì thế điều hòa tác động giữa tế bào T viêm và tế 
bào sừng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự di 
chuyển tế bào T đến sang thương da(9,10). 
Tương tự, chúng tôi cũng tìm thấy sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh nồng độ 
IFN- γ huyết thanh của nhóm vảy nến khớp và 
nhóm người bình thường (p<0,001). Chúng tôi 
không tìm thấy 1 tài liệu nào trước đó nghiên 
cứu về định lượng nồng độ chất này trong huyết 
thanh nên chúng tôi không thể tiến hành so sánh 
với các nghiên cứu khác. Chủ yếu những nghiên 
cứu đã thực hiện đều định lượng nồng độ IFN- γ 
trong da, dịch khớp viêm của bệnh nhân vảy nến 
khớp và đều ghi nhận có sự tăng cao của nồng 
độ chất này. Như vậy, IFN- γ không chỉ tăng 
trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mà còn 
tăng mô đích (da, dịch khớp) chính là bằng 
chứng rõ ràng và thuyết phục trong việc lí giải 
vai trò của chất này trong sinh bệnh học. Mặc dù 
rất muốn đo IFN- γ tại mô đích nhưng chúng tôi 
chưa thể thực hiện được vì tại Việt Nam hiện tại 
chưa thể thực hiện các xét nghiệm cytokine lấy 
từ các bệnh phẩm khác (da, dịch khớp). Vì vậy, 
trong tương lai chúng tôi hi vọng sẽ có nhiều 
nghiên cứu tiến hành khảo sát nồng độ IFN- γ 
không chỉ trong huyết thanh mà còn trong 
những mẫu bệnh phẩm khác để có cái nhìn toàn 
diện hơn về sinh bệnh học của vảy nến. 
Đỏ da toàn thân do vảy nến là một dạng lâm 
sàng nặng và cũng rất thường gặp, là một thách 
thức điều trị đối với các bác sĩ lâm sàng. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, đỏ da toàn thân do 
vảy nến có nồng độ IFN- γ huyết thanh cao nhất 
so với vảy nến mảng, vảy nến khớp (mặc dù 
không có ý nghĩa thống kê) và cao hơn nhóm 
bình thường với p<0,001. Kết quả này cũng 
tương tự nghiên cứu của Abdallah và cộng sự 
thực hiện năm 2009 trên 21 bệnh nhân vảy nến 
và 15 người bình thường (p<0,05)(1). Điều này có 
thể giải thích do đỏ da toàn thân do vảy nến là 
một thể bệnh nặng với phản ứng viêm cấp tính 
toàn thân biểu hiện bởi sang thương da lan tỏa. 
Tuy nhiên đây cũng chỉ là nghiên cứu hiếm hoi 
so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh đỏ da toàn 
thân do vảy nến với các dạng lâm sàng khác và 
người bình thường. Chúng tôi không tìm được 
nghiên cứu nào khảo sát nồng độ huyết thanh 
cho riêng những trường hợp đỏ da toàn thân do 
vảy nến. Với kết quả này chúng tôi hi vọng mở 
ra một hướng nghiên cứu mới sâu hơn về thể 
bệnh đỏ da toàn thân do vảy nến, từ đó hiểu 
thêm hơn về cơ chế bệnh và tìm ra những 
phương pháp điều trị hiệu quả. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy những bệnh 
nhân khởi phát bệnh sớm trước 30 tuổi thường 
có biểu hiện lâm sàng nặng, dai dẳng, diễn biến 
phức tạp hơn và tổn thương móng nhiều (8). Điều 
đó gợi mở cho nghiên cứu của chúng tôi rằng kết 
quả nồng độ IFN- γ huyết thanh của nhóm bệnh 
nhân vảy nến khởi phát sớm (<30 tuổi) sẽ cao 
hơn so với nhóm khởi phát muộn (>30 tuổi). 
Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ IFN- γ 
huyết thanh của 2 nhóm này (p=0,19). Theo hiểu 
biết của chúng tôi cũng chưa có nghiên cứu nào 
trên thế giới thực hiện so sánh nồng độ IFN- γ 
huyết thanh của 2 nhóm này nên chúng tôi 
không có dữ liệu để đối chiếu. 
Trong vảy nến khớp, tổn thương khớp trục 
là 1 dấu hiệu nặng của bệnh. Vì thế, chúng tôi 
tiến hành so sánh nồng độ IFN- γ huyết thanh 
trung bình giữa 2 nhóm bệnh nhân có tổn 
thương khớp ngoại biên đơn thuần và những 
bệnh nhân vừa tổn thương khớp trục và khớp 
ngoại biên. Chúng tôi nhận thấy không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về 
nồng độ IFN- γ huyết thanh (p = 0,60). Chúng 
tôi không tìm thấy bất cứ tài liệu nào trước đó 
ghi nhận về vấn đề này nên không tiến hành 
so sánh kết quả của chúng tôi với những 
nghiên cứu khác. 
Tuy nhiên, vì số lượng bệnh nhân vảy nến 
khớp trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 370
đối ít, chỉ có 10 bệnh nhân nên kết quả đưa ra 
còn hạn chế. Do đó, cần có những nghiên cứu 
mở rộng hơn về số lượng bệnh nhân, đồng 
thời định lượng nồng độ các cytokine trong 
mô đích (da, khớp) và định lượng nhiều 
cytokine cùng lúc sẽ cung cấp các thông tin 
hữu ích về mạng lưới tương tác của các 
cytokine ở hai nhóm bệnh nhân tổn thương 
khớp ngoại biên đơn thuần và nhóm vừa tổn 
thương khớp trục và khớp ngoại biên. 
Vảy nến là một bệnh lý mạn tính kéo dài 
nhiều năm. Thời gian bệnh càng lâu, các rối loạn 
về miễn dịch càng gây ra những tác động và hậu 
quả nặng nề. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành tìm 
mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ huyết 
thanh với thời gian mắc bệnh của nhóm bệnh 
nhân vảy nến. Kết quả chúng tôi ghi nhận không 
có sự tương quan giữa nồng độ IFN-γ huyết 
thanh và thời gian mắc bệnh (hệ số tương quan 
R = 0,15, p = 0,25). 
Chỉ số PASI là một thang điểm để đánh giá 
độ nặng lâm sàng của bệnh vảy nến phổ biến 
trên thế giới. Ngày nay, với tiến bộ của khoa học 
đã cho phép chúng ta định lượng được nồng độ 
của các cytokine, trong đó có IFN-γ và có thể sử 
dụng nó như một yếu tố không chỉ đánh giá độ 
nặng của bệnh, tiên lượng bệnh mà còn đánh giá 
hiệu quả điều trị (1). Tác giả Hong và cộng sự cho 
rằng IFN-γ chủ yếu liên quan tới việc độ nặng 
của bệnh do làm tăng sinh tế bào sừng, trong khi 
đó bệnh vảy nến kéo dài là do IL-12 (6). Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi đã tìm ra mối tương 
quan mạnh giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh và 
chỉ số PASI (r=0,51, p<0,001). Tương tự, nghiên 
cứu của tác giả Abdallah và cộng sự cũng ghi 
nhận mối tương quan này với r=0,56, p<0,1(1) hay 
nghiên cứu của tác giả Takahashi trên một cỡ 
mẫu lớn 122 bệnh nhân vảy nến ở Nhật (r=0,475, 
p=0,001)(13). Một nghiên cứu khác của Jacob cũng 
có tìm thấy mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ 
huyết thanh và độ nặng của bệnh. Không chỉ 
vậy, tác giả còn tìm mối tương quan có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) giữa nồng độ IFN-γ huyết 
thanh với từng yếu tố cụ thể như: diện tích sang 
thương (r=0,64), độ dày (r=0,62), hồng ban (r=0,7) 
và vảy (r=0,67) (7). Một tác giả khác là Arican 
cũng tìm được mối tương quan rất mạnh giữa 
nồng độ IFN-γ huyết thanh và chỉ số PASI với 
r=0,89 và p=0,00(2). Ngược lại, tác giả 
Chodorowska lại không tìm thấy mối tương 
quan có ý nghĩa thống kê giữa hai yếu tố này 
(p=0,08)(3) và tác giả Gomi cũng ghi nhận kết quả 
tương tự(5). Điều này có thể do cỡ mẫu của chúng 
tôi lớn hơn nên dễ dàng tìm thấy mối tương 
quan có ý nghĩa thống kê hơn. Hơn nữa, nhờ kĩ 
thuật xét nghiệm hóa quang miễn dịch với độ 
nhạy rất cao mà chúng tôi có thể phát hiện IFN-γ 
trong huyết thanh 100% các trường hợp. Khác 
với Gomi và cộng sự sử dụng kĩ thuật RIA 
(radioimmunoassay) với ngưỡng 0,8 pg/mL nên 
chỉ đo được nồng độ IFN-γ huyết thanh của 
9,5% người bình thường và của 47,6% bệnh nhân 
vảy nến tham gia nghiên cứu nên kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi chính xác và đáng tin cậy hơn. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng đã định 
lượng được nồng độ IFN-γ huyết thanh ở 
nhóm vảy nến là 11,24 ± 6,94 pg/ml và nồng độ 
IFN-γ huyết thanh ở nhóm bình thường là 1,29 
± 0,76 pg/ml. 
Cụ thể, nồng độ IFN-γ huyết thanh từng 
dạng lâm sàng như sau: 
- Nhóm đỏ da toàn thân do vảy nến: 13,80 ± 
8,51pg/ml. 
- Nhóm vảy nến khớp: 10,86 ± 5,79pg/ml. 
- Nhóm bệnh nhân vảy nến mảng: 9,76 ± 
5,84pg/ml. 
* Tất cả nồng độ IFN-γ huyết thanh của 
nhóm vảy nến nói chung và của từng dạng lâm 
sàng nói riêng đều cao hơn nhóm bình thường 
một cách có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Tuy nhiên chúng tôi không tìm thấy sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ IFN- γ huyết 
thanh giữa các dạng lâm sàng của bệnh vảy nến. 
* Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng 
không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ IFN- 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 371
γ với độ nặng của bệnh vảy nến khớp (p=0,60) 
hay với tuổi khởi phát bệnh sớm <30 tuổi hay 
muộn >30 tuổi (p=0,19). 
Đáng chú ý, chúng tôi tìm thấy mối tương 
quan mạnh giữa nồng độ IFN-γ huyết thanh với 
chỉ số PASI của bệnh vảy nến (r=0,51, p<0,001) và 
mối tương quan này được thể hiện qua phương 
trình Y = 0,30X + 3,24. Ngược lại, chúng tôi 
không tìm thấy mối tương quan giữa nồng độ 
IFN- γ huyết thanh với thời gian mắc bệnh. 
Hiện nay trên thế giới hoàn toàn chưa có một 
xét nghiệm nào hỗ trợ đánh giá độ nặng lâm 
sàng của vảy nến. Do đó, việc định lượng IFN- γ 
và có giá trị thực hành lâm sàng khá cao do nồng 
độ IFN- γ huyết thanh có liên quan đến mức độ 
nặng của bệnh. Vì vậy, nồng độ IFN- γ huyết 
thanh có thể được khuyến cáo sử dụng như một 
phương tiện hỗ trợ trong việc đánh giá độ nặng 
của bệnh. 
Chúng tôi hi vọng rằng nghiên cứu này sẽ 
tạo tiền đề cho những nghiên cứu lớn hơn, 
chuyên sâu hơn về cytokine trong bệnh vảy nến 
trong tương lai. Cụ thể, cần có những nghiên 
cứu lớn hơn về cỡ mẫu, theo dõi nồng độ IFN-γ 
huyết thanh trước và sau quá trình điều trị, 
không chỉ định lượng nồng độ IFN-γ huyết 
thanh mà còn định lượng nồng độ IFN-γ trong 
mô đích như da, khớp cũng như định lượng 
cùng lúc nhiều loại cytokine để xem mối tương 
tác của chúng, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về 
mạng lưới sinh bệnh học miễn dịch phức tạp 
trong bệnh vảy nến và có cái nhìn toàn diện hơn 
về bệnh vảy nến. 
Ngoài ra, nhận thấy vai trò trung tâm của 
IFN-γ trong sinh bệnh học của vảy nến, chúng 
tôi mong sẽ có những nghiên cứu đi sâu vào 
phát triển liệu pháp sinh học thuốc kháng IFN-γ, 
mở ra những cơ hội mới cho bệnh nhân vảy nến 
trong một ngày không xa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdallah MA, Abdel-Hamid MF, Kotb AM, Mabrouk EA 
(2009), "Serum Interferon gamma is a psoriasis severity and 
prognostic marker". Cutis, 84(3): 163-168. 
2. Arican O, Aral M, Sasmaz S, Ciragil P (2005), "Serum levels of 
TNF-alpha, IFN-gamma, IL-6, IL-8, IL-12, IL-17, and IL-18 in 
patients with active psoriasis and correlation with disease 
severity". Mediators Inflamm, 2005(5): 273-279. 
3. Chodorowska G (1998), "Plasma concentrations of IFN-
gamma and TNF-alpha in psoriatic patients before and after 
local treatment with dithranol ointment". J Eur Acad Dermatol 
Venereol, 10(2): 147-151. 
4. Christophers E (1996), "The immunopathology of psoriasis." 
Int Arch Allergy Immunol, 110(3): 199-206. 
5. Gomi T, Shiohara T, Munakata T, Imanishi K, Nagashima M 
(1991), "Interleukin 1 alpha, tumor necrosis factor alpha, and 
interferon gamma in psoriasis". Arch Dermatol, 127(6): 827-
830. 
6. Hong K, Chu A, Ludviksson B (1999), "IL-12, independently 
of IFN-gamma, plays a crucial role in the pathogenesis of a 
murine psoriasis-like skin disorder." J Immunol, 162: 7480-
7491. 
7. Jacob SE, Nassiri M, Kerdel FA, Vincek V (2003), 
"Simultaneous measurement of multiple Th1 and Th2 serum 
cytokines in psoriasis and correlation with disease severity". 
Mediators Inflamm, 12(5): 309-313. 
8. Johann EG, James TE (2009). Psoriasis. In Fitzpatrick’s 
Dermatology in general medicine (7 ed., Vol. 1, pp. 169-192). 
Mac Grow Hill 
9. Liu Y, Krueger JG, Bowcock AM (2007), "Psoriasis: genetic 
associations and immune system changes". Genes Immun, 
8(1): 1-12. 
10. Nickoloff JB, Nestle OF (2004), "Recent insights into the 
immunopathogenesis of psoriasis provide new therapeutic 
opportunities." J Clin Invest, 113(12): 1664-1675. 
11. Phan Thị Danh (2009). Sử dụng kĩ thuật biochip trong xét 
nghiệm và ứng dụng lâm sàng cytokine. Khoa Sinh Hóa, Bệnh 
viện Chợ Rẫy, Tp Hồ Chí Minh. 
12. Szegedi A, Aleksza M, Gonda A, Irinyi B, Sipka S (2003), 
"Elevated rate of Thelper1 (T(H)1) lymphocytes and serum 
IFN-gamma levels in psoriatic patients". Immunol Lett, 86(3): 
277-280. 
13. Takahashi H, Tsuji H, Hashimoto Y, Ishida-Yamamoto A, 
Iizuka H (2009), "Serum cytokines and growth factor levels in 
Japanese patients with psoriasis". Clin Exp Dermatol, 35(6): 
645-649. 

File đính kèm:

  • pdfnong_do_interferon_gamma_trong_huyet_thanh_benh_nhan_vay_nen.pdf