Những tiến bộ gần đây trong thông khí cơ học ở bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển - ARDS
Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) được diễn tiến theo các mức độ và giai
đoạn khác nhau. Hiểu rõ các giai đoạn và mức độ của ARDS có thể giúp cài đặt máy
thở tốt hơn nhằm tránh những tổn thương phổi liên quan đến thở máy, bằng cách giảm
sự căng phồng phổi và giữ phổi mở bất cứ khi nào có thể. Cùng liệu pháp điều trị có
thể thuận lợi và hữu ích cho dạng nào đó của ARDS, nhưng có thể nguy cơ và làm hại
cho dạng khác. Việc cài đặt mức PEEP dựa vào sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Các
dụng cụ theo dõi như áp lực thực quản, chỉ số thể tích phổi cũng có thể hỗ trợ việc cài
đặt máy thở. Ở giai đoạn sớm, chiến lược bảo vệ phổi phù hợp cũng có thể giúp phòng
ngừa phát triển ARDS.
Bạn đang xem tài liệu "Những tiến bộ gần đây trong thông khí cơ học ở bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển - ARDS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những tiến bộ gần đây trong thông khí cơ học ở bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển - ARDS
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 78 Tóm tắt: Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) được diễn tiến theo các mức độ và giai đoạn khác nhau. Hiểu rõ các giai đoạn và mức độ của ARDS có thể giúp cài đặt máy thở tốt hơn nhằm tránh những tổn thương phổi liên quan đến thở máy, bằng cách giảm sự căng phồng phổi và giữ phổi mở bất cứ khi nào có thể. Cùng liệu pháp điều trị có thể thuận lợi và hữu ích cho dạng nào đó của ARDS, nhưng có thể nguy cơ và làm hại cho dạng khác. Việc cài đặt mức PEEP dựa vào sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Các dụng cụ theo dõi như áp lực thực quản, chỉ số thể tích phổi cũng có thể hỗ trợ việc cài đặt máy thở. Ở giai đoạn sớm, chiến lược bảo vệ phổi phù hợp cũng có thể giúp phòng ngừa phát triển ARDS. RECENT ADVANCES IN MECHANICAL VENTILATION IN PATIENTS WITH ACUTE RESPIRATORY DISTRESS SYNDROME Abstract: Acute respiratory distress syndrome (ARDS) is characterised by different degrees of severity and different stages. Understanding these differences can help to better adapt the ventilatory settings to protect the lung from ventilator-induced lung injury by reducing hyperinflation or keeping the lung open when it is possible. The same therapies may be useful and beneficial in certain forms of ARDS, and risky or harmful at other stages. Setting PEEP level should be based on the respond of patients. Monitoring tools such as oesophageal pressure or lung volume measurements may also help to set the ventilator. At an earlier stage, an adequate lung protective strategy may also help to prevent the development of ARDS. NHỮNG TIẾN BỘ GẦN ĐÂY TRONG THÔNG KHÍ CƠ HỌC Ở BỆNH NHÂN SUY HÔ HẤP CẤP TIẾN TRIỂN – ARDS Hồ Ngọc Phát1, Nguyễn Thị Bích Chiền1 1 Bệnh viện Quân Y 175 Người phản hồi (Corresponding): Hồ Ngọc Phát (Email: [email protected]) Ngày nhận bài: 26/8/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/9/2016 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2016 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 79 GIỚI THIỆU Thông khí cơ học là nên tảng trong kiểm soát bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển (acute respiratory distress syndrome – ARDS). Tuy nhiên, nó có thể gây tổn thương phổi (tổn thương phổi liên quan đến thở máy: ventilation - induced lung injury – VILI), thông qua nhiều cơ chế bao gồm chấn thương thể tích, chấn thương áp lực và chấn thương sinh học. Sự căng phồng phổi động học và sự đóng mở lặp đi lặp lại của các đơn vị phổi có thể huy động là 2 cơ chế chính góp phần tổn thương phổi. Tổn thương phổi do ARDS gây nên 3 hậu quả nghiêm trọng: 1) thiếu oxy máu; 2) giảm khả năng đào thải C02; 3) giảm thể tích phổi và độ đàn hồi của phổi. Do đó, việc đánh giá 3 vấn đề này là rất quan trọng trong quản lý bệnh nhân ARDS. Việc đánh giá dựa trên các yếu tố sau đây: 1) đánh giá sự trao đổi khí và oxy; 2) khoảng chết; 3) thể tích phổi. Chiến lược thông khí bảo vệ phổi với sử dụng thể tích thường lưu thấp (low vital volume – Vt) và giới hạn áp lực bình nguyên (plateau pressure – Pplat) được chứng minh giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân ARDS trong nhiều nghiên cứu. Việc đánh giá khả năng huy động phổi giúp ích cho việc cài đặt máy thở và chọn mức PEEP phù hợp để giữ phổi luôn luôn mở, giảm sự đóng mở lặp đi lặp lại của phế nang. Bên cạnh đó, giúp cho chúng ta hiểu biết hơn về những gì làm xấu tình trạng ARDS và những hiểu biết này cũng được sử dụng để phòng ngừa phát triển ARDS. PHÒNG NGỪA ARDS Phát hiện sớm bệnh nhân có nguy cơ tiến triển ARDS và đưa ra chiến lược phòng ngừa đã trở thành một cách tiếp cận lâm sàng quan trọng đối với bệnh nhân nặng ở ICU (Intensive Care Unit), đặc biệt ở bệnh nhân thông khí cơ học. ARDS không thường xuyên xuất hiện ở thời điểm nhập viện, mà thường xuất hiện sau hàng giờ hoặc hàng ngày trên nền một bệnh lý nào đó. Rất nhiều yếu tố nguy cơ lâm sàng có liên quan dẫn đến ARDS như: nhiễm khuẩn nặng, sốc, viêm phổi, viêm tụy cấp, hít dịch dạ dày, chấn thương, phẫu thuật lớn và truyền máu số lượng lớn. Nhiều bệnh nhân tiến triển ARDS trong quá trình nằm viện vì hậu quả thứ phát từ những yếu tố phơi nhiễm có khả năng phòng ngừa được. Liệu pháp kháng sinh không thích hợp, các tai biến y khoa, viêm phổi hít, thông khí với thể tích cao, truyền máu số lượng lớn, nhiều lần và quá tải dịch, hồi sức không đạt mục tiêu trong vòng 6h là những yếu tố liên quan dẫn đến ARDS. Ngày nay, chiến lược thông khí bảo vệ phổi với Vt thấp và kiểm soát Pplat là ưu tiên hàng đầu đối với bệnh nhân ARDS. Cài đặt máy thở không thích hợp có khả năng tiến triển ARDS ở bệnh nhân thông khí cơ học mà không có ARDS trước đó. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng, thông khí với Vt và Pplat cao là yếu nguy cơ cao phát triển ARDS. Do đó, chiến lược thông khí bảo vệ phổi cũng có thể phòng ngừa tổn thương phổi ở bệnh nhân thở máy không có ARDS. Một nghiên cứu so sánh TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 80 thông khí nhân tạo Vt thấp với thông khí nhân tạo quy ước (Vt 6ml/kh so với 10 ml/ kg cân nặng) ở bệnh nhân nặng không có tổn thương phổi cấp tại thời điểm bắt đầu thông khí cơ học thấy rằng mức cytokines viêm hệ thống giảm rõ rệt ở nhóm thông khí cơ học thể tích thấp và phát triển tổn thương phổi cao hơn ở nhóm thông khí cơ học quy ước (13,5% so với 2,6%; p=0,01). Một nghiên cứu khác cũng nhân thấy rằng thông khí cơ học với Vt ≤ 6ml/kg ở bệnh nhân không có ARDS cho kết quả lâm sàng tốt hơn, bao gồm phát triển ARDS, tỉ lệ tử vong và thời gian thông khí nhân tạo. Mặc dù bằng chứng mạnh mẽ vẫn còn thiếu, nhưng có thể rằng chiến lược bảo vệ phổi và cài đặt PEEP thích hợp là cần thiết cho bệnh nhân thông khí cơ học trên 48h, điều này giúp phòng ngừa tiến triển ARDS. THÔNG KHÍ KHÔNG XÂM NHẬP Ở BỆNH NHÂN ARDS Thông khí không xâm nhập (non - invasive ventilation- NIV) ngày càng được sử dụng tăng lên ở ICU như là trị liệu hàng đầu ở 15-20% bệnh nhân suy hô hấp cấp. NIV được chứng minh cải thiện tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân đợt cấp COPD, phù phổi cấp do tim, và thuận tiện cho việc rút nội khí quản ở bệnh nhân suy hô hấp do tăng C02. Ở bệnh nhân suy hô hấp giảm oxy máu cấp, một phân tích tống hợp từ 5 nghiên cứu thấy rằng NIV làm giảm rõ rệt tỉ lệ đặt nội khí quản và tỉ lệ tử vong. ARDS là 1 dạng suy hô hấp giảm oxy máu nặng nhất và vai trò của NIV vẫn chưa được kết luận. Delclaux và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu đa trung tâm so sánh thở CPAP (continuous positive airway pressure) với liệu pháp oxy chuẩn ở 123 bệnh nhân (83% bệnh nhân tổn thương phổi cấp) đã thất bại trong việc chứng minh những thuận lợi của CPAP ở tỉ lệ đặt nội khí quản, thời gian nằm ICU và tỉ lệ tử vong ICU / bệnh viện. Antonelli và cộng sự sử dụng NIV như là trị liệu đầu tiên cho ARDS, thấy rằng 46% bệnh nhân phải đặt nội khí quản. Trong khi đó, Thille nghiên cứu ở 113 bệnh nhân thở NIV do suy hô hấp giảm oxy máu (82 bệnh nhân ARDS) thấy rằng những bệnh nhân ARDS có tỉ lệ đặt nội khí quản và tỉ lệ tử vong cao hơn bệnh nhân không có ARDS, Pa02/ Fi02 <150 có tỉ lệ đặt nội khí quản cao. Do đó, bằng chứng sử dụng NIV cho bệnh nhân ARDS còn hạn chế và có thể chỉ được thảo luận ở những trường hợp ARDS nhẹ và trung bình (Pa02/Fi02 >150), nguy cơ tổn thương phổi với Vt lớn do NIV vẫn có thể xẩy ra. Cho nên cần xem xét đặt nội khí quản cho những bệnh nhân thở NIV không cải thiện chỉ số lâm sàng và oxy máu trong giờ đầu. THỞ TỰ NHIÊN HAY THỞ THỤ ĐỘNG TRONG ARDS Thông khí cơ học thụ động trong ARDS Ngày nay, chiến lược bảo vệ phổi được coi là trị liệu chuẩn cho bệnh nhân ARDS, bằng việc sử dụng Vt thấp và giới TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 81 hạn Pplat < 30 cmH20. Tuy nhiên chiến lược này có thể gây ra thở không đồng bộ (chống máy) ở một số bệnh nhân, mặc dù đã có an thần và giảm đau. Các thuốc giản cơ (neuromuscular blocking agents – NMBAs) đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ qua để giải quyết vấn đề này và thuận tiện cho thông khí Vt thấp. Dữ liệu từ nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy 25-55% bệnh nhân được sử dụng NMBAs hằng ngày. Gainnier nghiên cứu ngẫu nhiên trên 56 bệnh nhân ARDS vừa và nặng (Pa02/Fi02 <150) có sử dụng Cisatracurium hoặc an thần trong 48 giờ, kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng NMBAs cải thiện rõ về oxy máu và Pplat thấp hơn. Forel cũng cho kết quả tương tự liên quan đến giảm nồng độ cytokines tiền viêm (IL-1β, IL-6, IL-8 ở cả máu và dịch chải rửa phế quản – phế nang. Đặc biệt, dữ liệu từ nghiên cứu thí nghiệm và lâm sàng cho thấy Cisatracurium không gây yếu cơ mắc phải ở ICU khi sử dụng thời gian ngắn. Cơ chế của Cisatracurium trong việc cải thiện trao đổi oxy chưa được hiểu rõ ràng, có thể Cisatracurium làm giảm VILI bằng cách làm giảm sự thay đổi áp lực xuyên phổi trong quá trình thông khí hỗ trợ và giảm sự mất đồng thì bệnh nhân – máy thở, giảm tiêu thụ oxy của cơ hô hấp, giảm tính viêm ở phổi và hệ thống. Do đó, NMBAs nên được xem xét sử dụng sớm và thời gian ngắn ở bệnh nhân ARDS nặng. Duy trì thở tự nhiên trong ARDS Một trong những hậu quả của việc thông khí thụ động ít nhất 18-24 giờ là teo cơ hoành và yếu cơ, gọi là suy cơ hoành liên quan đến thở máy (ventilation – induced diaphragmatic dysfunction: VIDD). Điều này gây nên những khó khăn trong quá trình cai máy. Trong các nghiên cứu thực nghiệm, việc cho phép thở tự nhiên khi sử dụng các mode A/C (Assist/ Control - trợ giúp/kiểm soát) hoặc thông khí hỗ trợ áp lực có thể làm giảm VIDD. Đối với bệnh nhân ARDS thì việc cho phép thở tự nhiên vào thời điểm và giai đoạn nào vẫn là vấn đề đã được bàn cãi trong nhiều năm qua. Trên mô hình tổn thương phổi thực nghiệm của ARDS đã chứng minh rằng việc bảo tồn nhịp thở tự nhiên: 1) làm giảm các marker viêm và tổn thương tế bào biểu mô, 2) cải thiện thông khí phút, trao đổi khí và oxy, và 3) tăng dòng máu hệ thống. Neumann chứng minh rằng hỗ trợ thông khí riêng phần (partial ventilatory support) với thông khí xả áp đường thở (APRV) thúc đẩy hồi phục phế nang ở các vùng phổi gần với cơ hoành, cải thiện thông khí - tưới máu và trao đổi khí so với thông khí cơ học kiểm soát (CMV). Tuy nhiên cần chú ý rằng, mức độ tổn thương phổi trong các nghiên cứu trên là nhẹ và vừa. Các nghiên cứu khác cho thấy rằng, ảnh hưởng của nhịp thở tự nhiên ở bệnh nhân ARDS nặng là khác nhau và có thể làm hại. Yoshida và cộng sự phát hiện việc cho phép nhịp thở tự nhiên trong tổn thương phổi nặng gây nên áp lực xuyên phổi rất cao, làm xấu oxy máu và tổn thương phổi, và cũng có thể gây tổn thương tại chỗ do tái phân bố thể tích. Từ những bằng chứng TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 82 trên, cho phép nhịp thở tự nhiên là nên tránh và do đó, việc sử dụng thuốc giản cơ (NMBAs) sớm là cần thiết ở ARDS nặng. Khi bệnh nhân ARDS nỗ lực thở tự nhiên, thì lúc đó áp lực xuyên phổi thực sự là tổng của áp lực sinh ra bởi máy thở và áp lực sinh ra bởi cơ hô hấp của bệnh nhân. Các nhà lâm sàng nên cảnh giác điều đó, khi sử dụng mode thở mục tiêu áp lực, như A/C – Pressure thì áp lực đường thở thực chất là cao hơn áp lực đường thở hiện trên máy thở. Đối với mode thở này, khi bệnh nhân sinh ra nỗ lực thở tự nhiên lớn thì áp lực xuyên phổi và Vt tăng cao, điều này có thể làm tổn thương phổi. Trong khi đó các mode thở thể tích luôn giữa áp lực xuyên phổi và Vt hằng định bất chấp áp lực do cơ hô hấp sinh ra. Tóm lại, giản cơ hoàn toàn trong thông khí cơ ở bệnh nhân ARDS nặng là cần thiết để bảo vệ phổi, trong khí đó duy tri nhịp thở tự nhiên nên áp dụng với ARDS mức độ nhẹ hoặc giai đoạn hồi phục nhưng với sự thận trọng cao. TỐI ƯU PEEP Mục tiêu sử dụng PEEP trong ARDS là để tránh xẹp phổi, hoặc hồi phục các vùng phổi xẹp và ngập. Tuy nhiên vấn đề là làm sao xác định được mức PEEP tối ưu nhất ngay tại giường và việc cài đặt PEEP cao chỉ thuận lợi cho ai. Do sự đáp ứng không đồng nhất của các bệnh nhân nên việc tối ưu PEEP là một thách thức rất lớn. Trong trường hợp tốt nhất, PEEP cao có thể giúp cho các phế nang mở trở lại và do đó cải thiện được trao đổi khí ở bệnh nhân ARDS và giảm nguy cơ đóng mở phế nặng lặp đi lặp lại. Ngược lại, có thể thất bại trong việc huy động phế nang và ảnh hưởng xấu gây ra bởi sự căng phồng phổi quá mức hoặc rối loạn huyết động. Do đó, đáp ứng tích cực khi tăng PEEP chỉ xảy ra ở một số trường hợp, không phải tất cả các bệnh nhân và ảnh hưởng của PEEP lên VILI và tỉ lệ tử vong là tùy thuộc vào đáp ứng này. Kết quả sinh lý chính của PEEP là tăng thể tích phổi cuối thì thở ra (end-expiratory lung volume - EELV). Ở những bệnh nhân có khả năng hồi phục cao, EELV tăng là do mở lại các phế nang xẹp trước đó (huy động phế nang), điều này làm tăng thuận lợi và giảm nguy cơ. Nhưng đối với trường hợp có khả năng hồi phục kém, hầu như EELV tăng là do làm phồng thêm chính các phế nang đã mở trước đó, dẫn tới căng phồng phổi qua mức (chấn thương thể tích là 1 cơ chế chính của VILI) và có thể gây ra những hậu quả lâm sàng xấu. Do đó, hiệu quả của PEEP cao phụ thuộc vào khả năng hồi phục của bệnh nhân. Nhiều thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng việc cài đặt PEEP không đánh giá khả năng huy động phế nang thì có thể không cải thiện được tỉ lệ sống còn. Do đó, ngày nay với nhũng hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của ARDS và sự phát triển của các phương tiện hỗ trợ thì việc đánh giá hồi phục phế nang là cần thiết, từ đó quyết định mức PEEP phù hợp. Một số kỷ thuật thường được sử dụng trong thời gian gần TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 83 đây là: đường cong thể tích – áp lực, thể tích phổi, chỉ số áp lực thực quản và áp lực xuyên phổi, siêu âm phổi và sử dụng các test sinh lý dựa trên oxy hóa máu. CT scan ngực cũng là một kỷ thuật được dùng để đánh giá sự hồi phục của phế nang, tuy nhiên kỷ thuật này không thực sự thuận lợi trong thực hành lâm sàng nên thường ít áp dụng. THẢI C02 NGOÀI CƠ THỂ Thải C02 ngoài cơ thể (Extracorporeal C02 removal – ECC02R) sử dụng một dụng cụ ngoài cơ thể tĩnh mạch – tĩnh mạch (hoặc động mạch – tĩnh mạch) với dòng máu thấp 300 ml-1000 ml/phút. Nếu được chứng minh là có hiệu quả, ECC02R có khả năng được sử dụng tương tự như kỷ thuật thay thế hận liên tục ở hầu hết các ICU. Về kỷ thuật, ECC02R giống như một chu trình lọc máu đơn giản, nhưng mục đích chính là thải C02. Việc sử dụng ECC02R thuận tiện cho chiến lược thông khí bảo vệ phổi ở bệnh nhân ARDS, có thể giảm Vt xuống còn 4ml/kg từ đó thuận tiện cho việc tăng PEEP. Một nghiên cứu khác so sánh giữa thông khí Vt rất thấp (<6ml/kg) kết hợp ECC02R và nhóm thông khí bảo vệ phổi quy ước ở 79 bệnh nhân ARDS nặng. Kết quả nghiên cứu thấy nhóm sử dụng ECC02R an toàn và thuận tiện hơn, không gây nhiễm toan /tăng C02, giảm được an thần và giảm đau, giảm nồng độ cytokine tiền viêm IL-6. Tuy nhiên không có sự khác biệt giữa hai nhóm về thời gian thở máy và thời gian nằm ICU / bệnh viện. KẾT LUẬN Ngày nay, những bất thường sinh lí bệnh trong từng gian đoạn của ARDS đã được hiểu biết khá cặn kẽ. Các nhà lâm sàng cũng có những bằng chứng lợi ích khi sử dụng PEEP cao, nhưng cũng cần hiểu rằng việc cài đặt PEEP cần dựa trên sự đáp ứng của từng bệnh nhân. Thở tự nhiên (spontaneous breathing) nên tránh ở bệnh nhân ARDS nặng và vừa, nhưng có thể là tốt ở ARDS mức độ nhẹ và và giai đoạn hồi phục. Những kỹ thuật theo dõi mới, bao gồm chỉ số áp lực thực quản có thể giúp ích cho vấn đề tối ưu PEEP. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí hồi sức tích cực, Quyết định số 1493/QĐ-BYT ngày 22/4/2015. 2. Serpa Neto A, Simonis FD, Barbas CS, et al. Association between tidal volume size, duration of ventilation, and sedation needs in patients without acute respiratory distress syndrome: an individual patient data meta-analysis. Intensive Care Med 2014; 40: 950–957. 3. Sinha P, Sanders RD, Soni N, et al. Acute respiratory distress syndrome: the prognostic value of ventilatory ratio – a simple bedside tool to monitor ventilatory efficiency. Am J Respir Crit Care Med 2013; 187: 1150–1153. 4. Delclaux C, L’Her E, Alberti C, et al. Treatment of acute hypoxemic TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 84 nonhypercapnic respiratory insufficiency with continuous positive airway pressure delivered by a face mask: a randomized controlled trial. JAMA 2000; 284: 2352– 2360. 5. Antonelli M, Conti G, Moro M, et al. Predictors of failure of noninvasive positive pressure ventilation in patients with acute hypoxemic respiratory failure: a multi-center study. Intensive Care Med 2001; 27: 1718–1728. 6. Briel M, Meade M, Mercat A, et al. Higher vs lower positive end-expiratory pressure in patients with acute lung injury and acute respiratory distress syndrome: systematic review and meta-analysis. JAMA 2010; 303: 865–873. 7. Forel JM, Roch A, Marin V, et al. Neuromuscular blocking agents decrease inflammatory response in patients presenting with acute respiratory distress syndrome. Crit Care Med 2006; 34: 2749– 2757. 8. Neumann P, Wrigge H, Zinserling J, et al. Spontaneous breathing affects the spatial ventilation and perfusion distribution during mechanical ventilatory support. Crit Care Med 2005; 33: 1090– 1095. 9. Yoshida T, Uchiyama A, Matsuura N, et al. Spontaneous breathing during lung-protective ventilation in an experimental acute lung injury model: high transpulmonary pressure associated with strong spontaneous breathing effort may worsen lung injury. Crit Care Med 2012; 40: 1578–1585. 10. Terragni PP, Del Sorbo L, Mascia L, et al. Tidal volume lower than 6 ml/ kg enhances lung protection: role of extracorporeal carbon dioxide removal. Anesthesiology 2009; 111: 826–835.
File đính kèm:
nhung_tien_bo_gan_day_trong_thong_khi_co_hoc_o_benh_nhan_suy.pdf

