Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ

Mở đầu

Người phụ nữ được sinh ra với rất nhiều tuyến nội tiết trong cơ thể. Những tuyến này tiết ra những nội tiết tố giúp điều hòa những hoạt động biến dưỡng trong cơ thể của họ. Hệ thống tuyến nội tiết này sản xuất những chất nội tiết có liên quan đến từng giai đoạn phát triển và những biến đổi tâm sinh lý trong đời sống của họ như :

1. Giai đoạn dậy thì và vị thành niên

2. Giai đoạn có kinh nguyệt và hoạt động sinh sản

3. Thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh

pdf 5 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ

Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ
1TỔNG QUAN Y VĂN
Những thay đổi của nội tiết sinh dục
trong đời sống người phụ nữ
Vũ Thị Nhung*
*	PGS	TS	Bộ	môn	Phụ	Sản	ÐH	YK	Phạm	Ngọc	Thạch.	Email:	[email protected].
Mở đầu
Người	 phụ	 nữ	 được	 sinh	 ra	 với	 rất	 nhiều	
tuyến	nội	tiết	trong	cơ	thể.	Những	tuyến	này	
tiết	ra	những	nội	tiết	tố	giúp	điều	hòa	những	
hoạt	động	biến	dưỡng	trong	cơ	thể	của	họ.	Hệ	
thống	tuyến	nội	tiết	này	sản	xuất	những	chất	
nội	tiết	có	liên	quan	đến	từng	giai	đoạn	phát	
triển	và	những	biến	đổi	tâm	sinh	lý	trong	đời	
sống	của	họ	như	:
	1.	Giai	đoạn	dậy	thì	và	vị	thành	niên
	2.	Giai	đoạn	có	kinh	nguyệt	và	hoạt	động	
sinh	sản
	3.	Thời	kỳ	tiền	mãn	kinh	và	mãn	kinh	
Tuổi dậy thì và vị thành niên
Dậy	thì	là	tiến	trình	thay	đổi	về	cơ	thể	học	để	
biến	một	đứa	trẻ	thành	người	lớn	để	có	khả	
năng	 sinh	 sản.	Tuổi	 dậy	 thì	 được	 khởi	 đầu	
bằng	những	tín	hiệu	nội	tiết	xuất	phát	từ	não	
bộ	xuống	các	tuyến	sinh	dục	(buồng	trứng	và	
tinh	hoàn).	Khởi	đầu	của	dậy	 thì	 là	sự	 tăng	
cao	của	GnRH.	Chất	Neurokinin	B	có	thể	giữ	
vai	 trò	điều	khiển	 sự	 tiết	Kisspeptin	 là	một	
hợp	chất	chịu	trách	nhiệm	trực	tiếp	trong	sự	
khởi	động	phóng	thích	GnRH,	gián	tiếp	trong	
sự	 phóng	 thích	 LH	 và	 FSH	 ở	 tuyến	 yên.1 
GnRH	còn	được	tăng	cao	nhờ	chất	Leptin	có	
thụ	thể	nằm	ở	vùng	hạ	đồi	tổng	hợp	GnRH.2 
Leptin	là	chất	nội	tiết	sản	xuất	từ	mô	mỡ	và	
có	 đích	 đầu	 tiên	 là	 vùng	 hạ	 đồi	 nên	 người	
mập	có	nồng	độ	Leptin	cao	và	dậy	 thì	sớm	
hơn	người	gầy	(hình	1).
	 	 	Tuổi	dậy	 thì	 là	 giai	 đoạn	bắt	 đầu	 của	 sự	
phát	 triển	 sinh	 dục	 thứ	 phát	 ở	 bé	 gái	 cũng	
như	bé	trai.	Dậy	thì	ở	bé	gái	bắt	đầu	từ	10-
11	 tuổi,3	 thể	hiện	ở	nữ	 là	sự	xuất	hiện	kinh	
nguyệt	đầu	tiên,	chấm	dứt	vào	khoảng	15-17	
và	đạt	đến	sự	 trưởng	 thành	sinh	dục	4	năm	
sau	khi	có	dấu	hiệu	dậy	thì.	Tuổi	có	kinh	đầu	
tiên	trung	bình	khoảng	11-15	tuổi.	Nội	tiết	tố	
nữ	Estrogen	do	buồng	trứng	tiết	ra	theo	chu	
kỳ	hàng	tháng,	tác	động	lên	bộ	phận	sinh	dục	
làm	phát	triển	cơ	quan	này.
	Trước	khi	xuất	hiện	kinh	lần	đầu,	ở	cơ	thể	
bé	gái	đã	có	sự	thay	đổi	như:	tuyến	vú	to	ra	
vào	 lúc	10-11	 tuổi.	Hệ	 thống	 lông	sinh	dục	
phát	triển	(lông	mu,	lông	nách).	Cơ	quan	sinh	
dục	ngoài	sậm	màu	dần.	Phần	cơ	quan	sinh	
dục	 trong	như	âm	đạo,	cổ	 tử	cung,	 tử	cung	
cũng	 phát	 triển	 để	 chuẩn	 bị	 cho	 khả	 năng	
mang	thai	và	sanh	đẻ	sau	này.	
2THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015
	 	 	 Tuổi	 vị	 thành	 niên	 (VTN)	 là	 giai	 đoạn	
chuyển	tiếp	quan	trọng	từ	tuổi	thiếu	niên	để	
bước	vào	tuổi	người	lớn.	Theo	Tổ	chức	Y	tế	
Thế	giới	(WHO)	lứa	tuổi	10	-	19	tuổi	là	độ	
tuổi	vị	thành	niên.	Hiện	nay	nước	ta	đang	bắt	
đầu	phải	đối	mặt	với	nhiều	gánh	nặng	về	vấn	
đề	sức	khỏe	sinh	sản	mà	đặc	biệt	là	tình	trạng	
quan	hệ	tình	dục	sớm,	không	an	toàn	dẫn	đến	
có	thai	và	nạo	phá	thai	ở	tuổi	vị	thành	niên.	
Độ	tuổi	quan	hệ	tình	dục	lần	đầu	ở	VTN	Việt	
Nam	ngày	càng	sớm	do	tuổi	dậy	thì	đến	sớm	
hơn	so	với	trước	đây.4	Việt	Nam	là	nước	có	tỷ	
lệ	nạo	phá	thai	ở	tuổi	vị	thành	niên	cao	nhất	
Đông	Nam	Á	và	xếp	thứ	5	trên	thế	giới.
Giai đoạn có kinh nguyệt và hoạt động 
sinh sản
Sự	bắt	đầu	của	chu	kỳ	kinh	nguyệt	(CKKN)	
là	dấu	hiệu	của	sự	trưởng	thành,	một	bé	gái	
trở	 thành	một	 thiếu	nữ.	Để	có	kinh	nguyệt,	
một	 số	 cơ	 quan	 và	 các	 tuyến	 bắt	 đầu	 hoạt	
động.	Khoảng	cách	giữa	các	chu	kỳ	kinh	có	
thể	thay	đổi	nhiều	lần	trong	cuộc	đời	người	
phụ	nữ.	Nhiều	hoàn	cảnh	có	thể	ảnh	hưởng	
đến	kinh	nguyệt	như:	bệnh	tật,	thay	đổi	thời	
tiết	 đột	 ngột,	 căng	 thẳng	 thần	 kinh.	CKKN	
thường	không	đều	trong	những	năm	mới	có	
kinh	và	vào	giai	đoạn	tiền	mãn	kinh.	Một	số	
phụ	nữ	có	các	triệu	chứng	tiền	kinh	như	nhức	
đầu,	đầy	bụng,	 căng	đau	vú,	 trầm	cảm,	bứt	
rứt	khó	chịu.	Những	triệu	chứng	này	sẽ	biến	
mất	khi	bắt	đầu	có	kinh.
 Chu kỳ kinh nguyệt	là	tập	hợp	các	thay	đổi	
sinh	lý	lặp	đi	lặp	lại	ở	cơ	thể	phụ	nữ	dưới	sự	
điều	 khiển	 của	 hệ	 hormon	 sinh	 dục	 và	 cần	
thiết	cho	sự	sinh	sản.	Một	chu	kỳ	kinh	được	
tính	từ	ngày	đầu	tiên	thấy	kinh	cho	đến	ngày	
đầu	tiên	của	lần	tiếp	theo.	Một	chu	kỳ	kinh	
điển	hình	kéo	dài	28-32	ngày,	nhưng	có	thể	
ngắn	 hoặc	 dài	 hơn.	 Có	 thể	 tính	 ngày	 rụng	
trứng	là	ngày	12	cho	đến	ngày	16	trước	ngày	
đầu	tiên	của	kỳ	kinh	tiếp	theo.	
	Trẻ	sơ	sinh	gái	có	khoảng	40.000	–	400.000	
tế	bào	nang	nhưng	chỉ	vài	trăm	trong	số	đó	
phóng	thích	noãn	trong	suốt	thời	kỳ	sinh	sản	
của	 người	 nữ.	 Chưa	 tới	 tuổi	 trưởng	 thành	
buồng	 trứng	 nhẵn,	 từ	 tuổi	 có	 kinh	 nguyệt	
buồng	 trứng	 bắt	 đầu	 sần	 sùi,	 sau	 khi	 trứng	
rụng	 thì	 để	 lại	 vết	 sẹo	 trên	 bề	mặt.	 Buồng	
trứng	vừa	là	tuyến	ngoại	tiết	vừa	là	tuyến	nội	
tiết	tiết	ra	các	hormone	sinh	dục	nữ.	
Một chu kỳ kinh nguyệt có 4 giai đoạn 
(hình 2):
1. Giai đoạn phát triển (tăng trưởng):
Vùng	 hạ	 đồi	 tiết	 nhiều	 GnRH	 (LH-RH)	
kích	thích	thùy	trước	tuyến	yên	tiết	hormon	
kích	 nang	 trứng	 FSH	 (Folicle	 Stimulating	
Hormon).	 FSH	 chủ	 yếu	 tác	 dụng	 trên	 tế	
bào	hạt	bằng	cách	gắn	vào	các	thụ	thể	FSH	
ở	 lớp	 tế	bào	hạt,	 truyền	 tín	hiệu	cho	 tế	bào	
hạt	để	chế	tiết	aromatase	biển	đổi	Androgen	
thành	 estrogen	 (chủ	yếu	 là	 17-β	 estradiol)5.	
Androgen	 là	do	LH	gắn	vào	 thụ	 thể	 trên	 tế	
bào	vỏ,	kích	thích	TB	vỏ	sản	xuất	Androgen.	
Khi	 trứng	phát	 triển	 thì	xuất	hiện	hốc	nang	
trứng	 chứa	 dịch	 nang.	 Lúc	 đó,	 Androgen	
được	hấp	thu	vào	dịch	nang.	Estradiol	cùng	
với	FSH	kích	thích	tạo	các	thụ	thể	tiếp	nhận	
LH	ở	các	tế	bào	hạt,	và	tạo	phản	hồi	dương	
lên	tuyến	yên	tạo	đỉnh	LH.	
	Trong	giai	đoạn	này	Estrogen	tác	động	lên	
niêm	mạc	tử	cung	làm	dầy	niêm	mạc	tử	cung	
chuẩn	bị	để	đáp	ứng	đối	với	sự	kích	thích	sau	
đó	của	progesterone.	Khi	Estrogen	tăng	cao	
sẽ	có	phản	hồi	âm	lên	vùng	hạ	đồi,	tuyến	yên	
ức	chế	sự	tiết	FSH.	Có	phản	hồi	dương	đối	
với	LH	giúp	LH	đạt	đỉnh	cao	gây	rụng	trứng.	
Sự	tiến	triển	nang	trứng	khởi	đầu	phụ	thuộc	
gonaldotropin	 chủ	 yếu	 là	 FSH.	Nang	 trứng	
phát	triển	vượt	trội	không	còn	phụ	thuộc	FSH	
và	chế	tiết	nhiều	inhibin.	Inhibin	tạo	feedback	
âm	lên	tuyến	yên	làm	giảm	đột	ngột	FSH	nên	
các	nang	trứng	nhỏ	thiếu	FSH	và	làm	giảm	
tiết	E,	nang	trứng	vượt	trội	sẽ	tiếp	tục	duy	trì	
trong	7	ngày	trước	khi	rụng.	Estrogen	được	
bài	tiết	cũng	nhiều	hơn,	gây	feedback	dương	
lên	tuyến	yên	làm	tăng	tiết	FSH	và	LH.
3TỔNG QUAN Y VĂN
2. Giai đoạn phóng noãn 
(rụng trứng) 
Thời	gian	rụng	trứng	thường	xảy	
ra	 trước	 kỳ	 kinh	 tới	 khoảng	 14	
ngày.	LH	chủ	yếu	tác	dụng	trên	tế	
bào	vỏ	và	một	phần	trên	tế	bào	hạt,	
tác	dụng	lên	tế	bào	hạt	để	chuyển	
hóa	Androgen	thành	Progesteron.	
Đó	là	sự	hoàng	thể	hóa.	LH	kích	
thích	 sự	 tổng	 hợp	 Prostaglandin	
trong	 nang.	 Progesterone	 làm	
tăng	men	collagenase,	qua	đó	làm	
mỏng	vỏ	nang.	Prostaglandin	làm	
tăng	 tính	 thấm	 thành	 mạch	 nên	
làm	 tăng	 dịch	 trong	 nang.	 Nang	
căng	 phồng,	 vỏ	mỏng	 đi	 sẽ	 gây	
phóng	 noãn.	 Trứng	 được	 hứng	
vào	loa	vòi	tử	cung.
3. Giai đoạn hoàng thể (chế tiết)
Phần	 còn	 lại	 của	 nang	 trứng	 vỡ	
đã	 mất	 noãn	 phát	 triển	 thành	
tuyến	 nội	 tiết	 gọi	 là	 hoàng	 thể.	
Hoàng	 thể	 tiết	 ra	 Progesteron	
(P)	 và	 Estrogen	 (E).	 Trong	 giai	
đoạn	chế	 tiết,	niêm	mạc	 tử	cung	
tiếp	tục	dầy	lên,	phát	triển	mạnh,	
các	 tuyến	 cũng	 phát	 triển	 lúc	 đầu	 ngắn	 và	
hẹp	sau	đó	dài	ra	và	cong	queo,	bắt	đầu	bài	
tiết;	xuất	hiện	động	mạch	xoắn,	 tế	bào	 tích	
tụ	glycogen,	nội	mạc	tử	cung	có	những	biến	
đổi	quan	trọng	nhằm	chuẩn	bị	cho	sự	làm	tổ	
của	phôi.	Thời	gian	phát	triển,	hoạt	đông	và	
tồn	tại	của	hoàng	thể	dài	hay	ngắn	phụ	thuộc	
vào	noãn	sau	khi	rụng	trứng	có	được	thụ	tinh	
hay	không.	Nếu	không	thụ	thai	hoàng	thể	sẽ	
bị	thoái	hóa	thành	sẹo	gọi	là	thể	trắng.	E	và	
P	 sẽ	giảm	đột	ngột	gây	 ra	hiện	 tượng	hành	
kinh,	 tạo	nên	phản	hồi	 dương	vùng	hạ	đồi,	
tuyến	yên	kích	thích	sự	tăng	tiết	FSH	để	bắt	
đầu	một	chu	kỳ	mới.	Trường	hợp	noãn	được	
thụ	tinh	và	làm	tổ	trong	nội	mạc	tử	cung	thì	
lá	nuôi	dưỡng	bào	và	sau	đó	là	nhau	thai,	tiết	
hCG	để	duy	trì	hoàng	thể.	Hoàng	thể	tiếp	tục	
tồn	tại	và	phát	triển	đến	khi	thai	được	12	tuần	
thì	 thoái	 hóa	 .Nếu	 có	 thai	 thì	 không	 có	 sụ	
giảm	E	và	P	nên	sẽ	không	có	sự	tăng	FSH	nên	
sẽ	không	có	nang	noãn	phát	triển	nào	trong	
suốt	thai	kỳ.
4. Hành kinh:	Nếu	không	thụ	thai,	hoàng	thể	
thoái	hóa	làm	giảm	chế	tiết	progesterone	và	
etrogen.	Động	mạch	xoắn	co	lại,	phần	niêm	
mạc	 được	 nuôi	 dưỡng	 bị	 thiếu	 máu,	 hoại	
tử.	 Lớp	 nông	 của	 nội	 mạc	 có	 những	 vùng	
sung	huyết	và	xuất	huyết	cực	độ	rồi	toàn	bộ	
lớp	này	gồm	biểu	mô	và	 lớp	đệm	 trong	đó	
có	 tuyến	bị	 thoái	hoá	hoại	 tử	bong	ra.	Máu	
chảy	vào	buồng	tử	cung	và	thoát	ra	khỏi	cổ	
tử	cung,	đó	là	sự	hành	kinh.	Trung	bình	một	
lần	kinh	nguyệt	mất	khoảng	50-150ml	máu.	 
Ngay	sau	đó	lớp	niêm	mạc	lại	được	tái	sinh	
dưới	 tác	 dụng	 của	 estrogen	 và	một	 chu	 kỳ	
mới	lại	bắt	đầu.
4THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015
Thời kỳ tiền mãn kinh - mãn kinh
Mãn	kinh	là	tình	trạng	không	còn	nang	noãn	
hoạt	 động	 trên	 buồng	 trứng	 ,	 thể	 hiện	 lâm	
sàng	là	:
-	Mất	kinh	liên	tiếp	12	tháng,	không	còn	chu	
kỳ	kinh	nguyệt	nữa,	không	còn	khả	năng	sinh	
sản	.
-	FSH	tăng	cao	gấp	10	lần	(40	-	50mIU/ml)	
-	LH	tăng	cao	gấp	3	lần	
-	E	và	P	giảm	thấp	
	Tuổi	mãn	kinh	trong	khoảng	45-55.	Trước	
khi	 mãn	 kinh	 thật	 sự,	 có	 từ	 1-2	 năm	 kinh	
nguyệt	không	đều	về	lượng	máu	mất	và	thời	
gian	hành	kinh.	Ra	huyết	âm	đạo	bất	thường	
đòi	hỏi	phải	khảo	sát	kỹ	để	loại	trừ	ung	thư	
nội	mạc	tử	cung.	Hội	mãn	kinh	và	mãn	dục	
nam	 Châu	 Âu	 (EMAS)	 đưa	 ra	 hướng	 dẫn	
đánh	giá	nội	mạc	 tử	cung	vì	đây	 là	nguyên	
nhân	gây	ra	xuất	huyết	âm	đạo	bất	thường.6
	 	 	Mãn	 kinh	 có	 thể	 tự	 nhiên	 hoặc	 do	 phẫu	
thuật	 cắt	 2	 buồng	 trứng.	Một	 số	 phụ	 nữ	 đi	
vào	mãn	kinh	một	cách	bình	 thường	nhưng	
ngược	lại,	có	người	bị	rối	loạn	thần	kinh,	tuần	
hoàn	và	nội	tiết.	Triệu	chứng	thần	kinh	gồm	
nhức	 đầu,	 chóng	mặt,	mất	 ngủ,	 tê	 chân	 và	
ngứa,	giảm	trí	nhớ,	trầm	cảm.	Một	vài	nghiên	
cứu	cho	thấy	bổ	sung	melatonin	ở	giai	đoạn	
quanh	mãn	kinh	có	 thể	 cải	 thiện	hoạt	động	
tuyến	giáp	và	nồng	độ	gonadotropin,	phòng	
ngừa	được	tình	trạng	trầm	uất	liên	quan	đến	
mãn	kinh.7 
	Triệu	chứng	tuần	hoàn	gồm	bốc	hỏa,	đổ	mồ	
hôi,	cảm	giác	ngạt	thở,	thở	khó,	mạch	nhanh.	
Triệu	chứng	rối	loạn	nội	tiết	là	do	sự	suy	giảm	
nội	tiết	tố	nữ	và	những	biến	đổi	như	xơ	vữa	
động	mạch.	Mãn	kinh	có	thể	đến	sớm	đối	với	
những	người	hút	thuốc	lá.	Những	người	khó	
chịu	 với	 bốc	 hỏa	 nên	 tránh	 thuốc	 lá,	 tránh	
uống	cà	phê	và	rượu	bia,	nên	ở	trong	phòng	
thoáng	gió,	 sử	dụng	quạt,	uống	nhiều	nước	
lạnh.	Vận	động	sẽ	giúp	ngủ	tốt	hơn.	Chỉ	dùng	
nội	tiết	thay	thế	trong	những	trường	hợp	có	
triệu	chứng	rối	loạn	rất	nặng.8
	 	 	 Trong	 giai	 đoạn	 này,	 do	 thiếu	 Estrogen,	
hệ	 niệu	 sinh	 dục	 cũng	 chịu	 ảnh	hưởng,	 thể	
hiện	các	triệu	chứng	như	khô	teo	niêm	mạc	
âm	hộ,	âm	đạo,	cổ	tử	cung,	tiểu	lắt	nhắt,	tiểu	
són,	tiểu	gấp,	dễ	nhiễm	trùng	tiểu,	viêm	âm	
đạo.	Giao	hợp	đau	do	khô	âm	đạo	có	thể	cải	
thiện	bằng	cách	dùng	thuốc	bôi	trơn.	Ngoài	
ra,	người	phụ	nữ	còn	có	các	triệu	chứng	thoái	
hóa	xương	khớp	như	đau	lưng,	đau	khớp,	đau	
cơ,	nguy	cơ	loãng	xương	cao.	
	Tiền	mãn	kinh	là	một	giai	đoạn	tự	nhiên	
trong	đời	sống	người	phụ	nữ.	Đó	không	phải	
là	bệnh	nên	không	cần	có	thuốc	điều	trị.	Tuy	
nhiên,	vẫn	có	một	 số	 trường	hợp	phản	ứng	
nặng	 về	 thể	 chất,	 sinh	 lý,	 tâm	 lý	 làm	giảm	
chất	 lượng	cuộc	sống	nên	cần	được	điều	trị	
để	giảm	nhẹ	những	phản	ứng	này.	Một	trong	
những	phương	pháp	điều	 trị	 là	nội	 tiết	 thay	
thế	(HRT).
	HRT	bao	gồm	việc	dùng	các	thuốc	có	chứa	
Estrogen	phối	hợp	Progestin	ở	người	còn	tử	
cung	hay	chỉ	đơn	thuần	estrogen	ở	người	đã	
cắt	 tử	cung.	Khi	dùng	để	 làm	giảm	bớt	các	
triệu	 chứng	 khó	 chịu	 do	 mãn	 kinh	 thì	 chỉ	
dùng	trong	thời	gian	ngắn	nhất	và	liều	thấp	
nhất	nếu	có	thể.9	HRT	cũng	giúp	ngăn	ngừa	
mất	 xương,	 loãng	 xương.	 Ngoài	 các	 thuốc	
nội	 tiết	 kể	 trên,	 người	 ta	 còn	 đề	 xuất	 dùng	
thuốc	 thuộc	 nhóm	 SERMs	 tổng	 hợp	 hoặc	
chiết	xuất	từ	nguồn	thảo	dược	với	đặc	điểm	
là	tác	động	đồng	vận	hay	đối	vận	với	các	thụ	
thể	của	Estrogen	trong	cơ	thể.	Loại	SERMs	
thường	dùng	nhất	là	Raloxifene.	Chất	này	có	
tác	dụng	đồng	vận	với	estrogen	 trên	xương	
và	chất	lipids	nhưng	đối	kháng	với	estrogen	
trên	mô	vú	và	nội	mạc	tử	cung	nên	ngừa	được	
gãy	xương	ở	người	mãn	kinh	và	giảm	nguy	
cơ	ung	thư	vú.10
	Ngoài	những	phương	pháp	điều	trị	kể	trên,	
chất	 isoflavones	 của	 đậu	 nành,	 đậu	 xanh,	
nhiều	loại	đậu	khác	và	lignan	–	trong	dầu	hạt	
5TỔNG QUAN Y VĂN
lanh,	mầm	lúa	và	một	số	loại	rau	quả-	được	sử	
dụng	với	nhiều	hứa	hẹn	trong	việc	làm	giảm	
những	triệu	chứng	do	mãn	kinh	gây	ra	nhưng	
điều	này	chưa	được	chứng	minh	rõ	ràng.11
	Ðối	với	phụ	nữ	ở	tuổi	mãn	kinh,	cần	thường	
xuyên	tập	thể	dục	thể	thao	để	duy	trì	sự	dẻo	
dai	của	hệ	xương	cơ	và	giúp	máu	tuần	hoàn	
đều	 khắp	 cơ	 thể.	 Nên	 ăn	 những	 chất	 giàu	
calci	(sữa,	cua,	tôm,	cà	rốt).	Ăn	ít	mỡ,	nhiều	
rau,	trái	cây	đặc	biệt	là	những	chất	chống	oxy	
hóa	để	làm	chậm	sự	lão	hóa.	Đó	là	những	loại	
thực	phẩm	chứa	sinh	tố	C,	sinh	tố	E	và	beta	
caroten.
Tài liệu tham khảo
1. Lehman, Michael; Coolen, Lique; Goodman, 
Robert (August 2010). “Minireview: Kisspeptin/
NeurokininB/Dynorphin Cells of the Arcuate 
Necleus: A central Node in the Control of 
Gonadotorpin-Releasing hormone secretion” 
Endocrinology 151 (8). doi:10.1210/en. 2010-0022.
2. Meister B, Håkansson ML; Håkansson 
(2001). “Leptin receptors in hypothalamus 
and circumventricular organs”. Clinical and 
experimental pharmacology & physiology 28 (7): 
610–617. doi:10.1046/j.1440-1681.2001.034
3. Kail, RV; Cavanaugh JC (2010). Human 
Development: A Lifespan View (5th ed.). Cengage 
Learning. p. 296. ISBN 0495600377.
4. Phạm Thanh Hải, Huỳnh Thị Thanh Thủy (2010) 
“Phá thai ở nữ vị thành niên” Y học TP HCM 2010 
. Tập 14 số 2. Tr 8-14
5. Homburg, R, Glob. libr. women’s med.,
(ISSN: 1756-2228) 2014; DOI 10.3843/GLOWM.10290
6. Dreisler E, Poulsen LG, Antonsen SL, Ceausu I, 
Depypere H, Erel CT, Lambrinoudaki I, Pérez-
López FR, Simoncini T, Tremollieres F, Rees M, 
Ulrich LG (2013). “EMAS clinical guide: Assessment 
of the endometrium in peri and postmenopausal 
women”. Maturitas 75 (2): 181–90. doi:10.1016/j.
maturitas.2013.03.011. PMID 23619009.
7. Bellipanni G, DI Marzo F, Blasi F, Di Marzo 
A (December 2005). “Effects of melatonin in 
perimenopausal and menopausal women: our 
personal experience. 2005”. Annals of the New 
York Academy of Sciences 1057 (1): 393–402. 
doi:10.1196/annals.1356.030. PMID 16399909. 
8. Krause, MS; Nakajima, ST (March 2015). “Hormonal 
and Nonhormonal Treatment of Vasomotor 
Symptoms.”. Obstetrics and gynecology clinics 
of North America 42 (1): 163–179. doi:10.1016/j.
ogc.2014.09.008. PMID 25681847.
9. Main C, Knight B, Moxham T, Gabriel Sanchez R, 
Sanchez Gomez LM, Roqué i Figuls M, Bonfill Cosp 
X (Apr 30, 2013). “Hormone therapy for preventing 
cardiovascular disease in post-menopausal 
women.”. The Cochrane database of systematic 
reviews 
10. Bevers TB (2007). “The STAR Trial: Evidence for 
Raloxifene as a Breast Cancer Risk Reduction 
Agent for Postmenopausal Women”. J Natl Compr 
Canc Netw 5 (8): 817–22. 
11. Bolaños, R; Del Castillo, A; Francia, J (2010). 
“Soy isoflavones versus placebo in the treatment 
of climacteric vasomotor symptoms: systematic 
review and meta- analysis.”. Menopause

File đính kèm:

  • pdfnhung_thay_doi_cua_noi_tiet_sinh_duc_trong_doi_song_nguoi_ph.pdf