Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ
Mở đầu
Người phụ nữ được sinh ra với rất nhiều tuyến nội tiết trong cơ thể. Những tuyến này tiết ra những nội tiết tố giúp điều hòa những hoạt động biến dưỡng trong cơ thể của họ. Hệ thống tuyến nội tiết này sản xuất những chất nội tiết có liên quan đến từng giai đoạn phát triển và những biến đổi tâm sinh lý trong đời sống của họ như :
1. Giai đoạn dậy thì và vị thành niên
2. Giai đoạn có kinh nguyệt và hoạt động sinh sản
3. Thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh
Bạn đang xem tài liệu "Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ
1TỔNG QUAN Y VĂN Những thay đổi của nội tiết sinh dục trong đời sống người phụ nữ Vũ Thị Nhung* * PGS TS Bộ môn Phụ Sản ÐH YK Phạm Ngọc Thạch. Email: [email protected]. Mở đầu Người phụ nữ được sinh ra với rất nhiều tuyến nội tiết trong cơ thể. Những tuyến này tiết ra những nội tiết tố giúp điều hòa những hoạt động biến dưỡng trong cơ thể của họ. Hệ thống tuyến nội tiết này sản xuất những chất nội tiết có liên quan đến từng giai đoạn phát triển và những biến đổi tâm sinh lý trong đời sống của họ như : 1. Giai đoạn dậy thì và vị thành niên 2. Giai đoạn có kinh nguyệt và hoạt động sinh sản 3. Thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh Tuổi dậy thì và vị thành niên Dậy thì là tiến trình thay đổi về cơ thể học để biến một đứa trẻ thành người lớn để có khả năng sinh sản. Tuổi dậy thì được khởi đầu bằng những tín hiệu nội tiết xuất phát từ não bộ xuống các tuyến sinh dục (buồng trứng và tinh hoàn). Khởi đầu của dậy thì là sự tăng cao của GnRH. Chất Neurokinin B có thể giữ vai trò điều khiển sự tiết Kisspeptin là một hợp chất chịu trách nhiệm trực tiếp trong sự khởi động phóng thích GnRH, gián tiếp trong sự phóng thích LH và FSH ở tuyến yên.1 GnRH còn được tăng cao nhờ chất Leptin có thụ thể nằm ở vùng hạ đồi tổng hợp GnRH.2 Leptin là chất nội tiết sản xuất từ mô mỡ và có đích đầu tiên là vùng hạ đồi nên người mập có nồng độ Leptin cao và dậy thì sớm hơn người gầy (hình 1). Tuổi dậy thì là giai đoạn bắt đầu của sự phát triển sinh dục thứ phát ở bé gái cũng như bé trai. Dậy thì ở bé gái bắt đầu từ 10- 11 tuổi,3 thể hiện ở nữ là sự xuất hiện kinh nguyệt đầu tiên, chấm dứt vào khoảng 15-17 và đạt đến sự trưởng thành sinh dục 4 năm sau khi có dấu hiệu dậy thì. Tuổi có kinh đầu tiên trung bình khoảng 11-15 tuổi. Nội tiết tố nữ Estrogen do buồng trứng tiết ra theo chu kỳ hàng tháng, tác động lên bộ phận sinh dục làm phát triển cơ quan này. Trước khi xuất hiện kinh lần đầu, ở cơ thể bé gái đã có sự thay đổi như: tuyến vú to ra vào lúc 10-11 tuổi. Hệ thống lông sinh dục phát triển (lông mu, lông nách). Cơ quan sinh dục ngoài sậm màu dần. Phần cơ quan sinh dục trong như âm đạo, cổ tử cung, tử cung cũng phát triển để chuẩn bị cho khả năng mang thai và sanh đẻ sau này. 2THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Tuổi vị thành niên (VTN) là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng từ tuổi thiếu niên để bước vào tuổi người lớn. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên. Hiện nay nước ta đang bắt đầu phải đối mặt với nhiều gánh nặng về vấn đề sức khỏe sinh sản mà đặc biệt là tình trạng quan hệ tình dục sớm, không an toàn dẫn đến có thai và nạo phá thai ở tuổi vị thành niên. Độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở VTN Việt Nam ngày càng sớm do tuổi dậy thì đến sớm hơn so với trước đây.4 Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 trên thế giới. Giai đoạn có kinh nguyệt và hoạt động sinh sản Sự bắt đầu của chu kỳ kinh nguyệt (CKKN) là dấu hiệu của sự trưởng thành, một bé gái trở thành một thiếu nữ. Để có kinh nguyệt, một số cơ quan và các tuyến bắt đầu hoạt động. Khoảng cách giữa các chu kỳ kinh có thể thay đổi nhiều lần trong cuộc đời người phụ nữ. Nhiều hoàn cảnh có thể ảnh hưởng đến kinh nguyệt như: bệnh tật, thay đổi thời tiết đột ngột, căng thẳng thần kinh. CKKN thường không đều trong những năm mới có kinh và vào giai đoạn tiền mãn kinh. Một số phụ nữ có các triệu chứng tiền kinh như nhức đầu, đầy bụng, căng đau vú, trầm cảm, bứt rứt khó chịu. Những triệu chứng này sẽ biến mất khi bắt đầu có kinh. Chu kỳ kinh nguyệt là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormon sinh dục và cần thiết cho sự sinh sản. Một chu kỳ kinh được tính từ ngày đầu tiên thấy kinh cho đến ngày đầu tiên của lần tiếp theo. Một chu kỳ kinh điển hình kéo dài 28-32 ngày, nhưng có thể ngắn hoặc dài hơn. Có thể tính ngày rụng trứng là ngày 12 cho đến ngày 16 trước ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo. Trẻ sơ sinh gái có khoảng 40.000 – 400.000 tế bào nang nhưng chỉ vài trăm trong số đó phóng thích noãn trong suốt thời kỳ sinh sản của người nữ. Chưa tới tuổi trưởng thành buồng trứng nhẵn, từ tuổi có kinh nguyệt buồng trứng bắt đầu sần sùi, sau khi trứng rụng thì để lại vết sẹo trên bề mặt. Buồng trứng vừa là tuyến ngoại tiết vừa là tuyến nội tiết tiết ra các hormone sinh dục nữ. Một chu kỳ kinh nguyệt có 4 giai đoạn (hình 2): 1. Giai đoạn phát triển (tăng trưởng): Vùng hạ đồi tiết nhiều GnRH (LH-RH) kích thích thùy trước tuyến yên tiết hormon kích nang trứng FSH (Folicle Stimulating Hormon). FSH chủ yếu tác dụng trên tế bào hạt bằng cách gắn vào các thụ thể FSH ở lớp tế bào hạt, truyền tín hiệu cho tế bào hạt để chế tiết aromatase biển đổi Androgen thành estrogen (chủ yếu là 17-β estradiol)5. Androgen là do LH gắn vào thụ thể trên tế bào vỏ, kích thích TB vỏ sản xuất Androgen. Khi trứng phát triển thì xuất hiện hốc nang trứng chứa dịch nang. Lúc đó, Androgen được hấp thu vào dịch nang. Estradiol cùng với FSH kích thích tạo các thụ thể tiếp nhận LH ở các tế bào hạt, và tạo phản hồi dương lên tuyến yên tạo đỉnh LH. Trong giai đoạn này Estrogen tác động lên niêm mạc tử cung làm dầy niêm mạc tử cung chuẩn bị để đáp ứng đối với sự kích thích sau đó của progesterone. Khi Estrogen tăng cao sẽ có phản hồi âm lên vùng hạ đồi, tuyến yên ức chế sự tiết FSH. Có phản hồi dương đối với LH giúp LH đạt đỉnh cao gây rụng trứng. Sự tiến triển nang trứng khởi đầu phụ thuộc gonaldotropin chủ yếu là FSH. Nang trứng phát triển vượt trội không còn phụ thuộc FSH và chế tiết nhiều inhibin. Inhibin tạo feedback âm lên tuyến yên làm giảm đột ngột FSH nên các nang trứng nhỏ thiếu FSH và làm giảm tiết E, nang trứng vượt trội sẽ tiếp tục duy trì trong 7 ngày trước khi rụng. Estrogen được bài tiết cũng nhiều hơn, gây feedback dương lên tuyến yên làm tăng tiết FSH và LH. 3TỔNG QUAN Y VĂN 2. Giai đoạn phóng noãn (rụng trứng) Thời gian rụng trứng thường xảy ra trước kỳ kinh tới khoảng 14 ngày. LH chủ yếu tác dụng trên tế bào vỏ và một phần trên tế bào hạt, tác dụng lên tế bào hạt để chuyển hóa Androgen thành Progesteron. Đó là sự hoàng thể hóa. LH kích thích sự tổng hợp Prostaglandin trong nang. Progesterone làm tăng men collagenase, qua đó làm mỏng vỏ nang. Prostaglandin làm tăng tính thấm thành mạch nên làm tăng dịch trong nang. Nang căng phồng, vỏ mỏng đi sẽ gây phóng noãn. Trứng được hứng vào loa vòi tử cung. 3. Giai đoạn hoàng thể (chế tiết) Phần còn lại của nang trứng vỡ đã mất noãn phát triển thành tuyến nội tiết gọi là hoàng thể. Hoàng thể tiết ra Progesteron (P) và Estrogen (E). Trong giai đoạn chế tiết, niêm mạc tử cung tiếp tục dầy lên, phát triển mạnh, các tuyến cũng phát triển lúc đầu ngắn và hẹp sau đó dài ra và cong queo, bắt đầu bài tiết; xuất hiện động mạch xoắn, tế bào tích tụ glycogen, nội mạc tử cung có những biến đổi quan trọng nhằm chuẩn bị cho sự làm tổ của phôi. Thời gian phát triển, hoạt đông và tồn tại của hoàng thể dài hay ngắn phụ thuộc vào noãn sau khi rụng trứng có được thụ tinh hay không. Nếu không thụ thai hoàng thể sẽ bị thoái hóa thành sẹo gọi là thể trắng. E và P sẽ giảm đột ngột gây ra hiện tượng hành kinh, tạo nên phản hồi dương vùng hạ đồi, tuyến yên kích thích sự tăng tiết FSH để bắt đầu một chu kỳ mới. Trường hợp noãn được thụ tinh và làm tổ trong nội mạc tử cung thì lá nuôi dưỡng bào và sau đó là nhau thai, tiết hCG để duy trì hoàng thể. Hoàng thể tiếp tục tồn tại và phát triển đến khi thai được 12 tuần thì thoái hóa .Nếu có thai thì không có sụ giảm E và P nên sẽ không có sự tăng FSH nên sẽ không có nang noãn phát triển nào trong suốt thai kỳ. 4. Hành kinh: Nếu không thụ thai, hoàng thể thoái hóa làm giảm chế tiết progesterone và etrogen. Động mạch xoắn co lại, phần niêm mạc được nuôi dưỡng bị thiếu máu, hoại tử. Lớp nông của nội mạc có những vùng sung huyết và xuất huyết cực độ rồi toàn bộ lớp này gồm biểu mô và lớp đệm trong đó có tuyến bị thoái hoá hoại tử bong ra. Máu chảy vào buồng tử cung và thoát ra khỏi cổ tử cung, đó là sự hành kinh. Trung bình một lần kinh nguyệt mất khoảng 50-150ml máu. Ngay sau đó lớp niêm mạc lại được tái sinh dưới tác dụng của estrogen và một chu kỳ mới lại bắt đầu. 4THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Thời kỳ tiền mãn kinh - mãn kinh Mãn kinh là tình trạng không còn nang noãn hoạt động trên buồng trứng , thể hiện lâm sàng là : - Mất kinh liên tiếp 12 tháng, không còn chu kỳ kinh nguyệt nữa, không còn khả năng sinh sản . - FSH tăng cao gấp 10 lần (40 - 50mIU/ml) - LH tăng cao gấp 3 lần - E và P giảm thấp Tuổi mãn kinh trong khoảng 45-55. Trước khi mãn kinh thật sự, có từ 1-2 năm kinh nguyệt không đều về lượng máu mất và thời gian hành kinh. Ra huyết âm đạo bất thường đòi hỏi phải khảo sát kỹ để loại trừ ung thư nội mạc tử cung. Hội mãn kinh và mãn dục nam Châu Âu (EMAS) đưa ra hướng dẫn đánh giá nội mạc tử cung vì đây là nguyên nhân gây ra xuất huyết âm đạo bất thường.6 Mãn kinh có thể tự nhiên hoặc do phẫu thuật cắt 2 buồng trứng. Một số phụ nữ đi vào mãn kinh một cách bình thường nhưng ngược lại, có người bị rối loạn thần kinh, tuần hoàn và nội tiết. Triệu chứng thần kinh gồm nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ, tê chân và ngứa, giảm trí nhớ, trầm cảm. Một vài nghiên cứu cho thấy bổ sung melatonin ở giai đoạn quanh mãn kinh có thể cải thiện hoạt động tuyến giáp và nồng độ gonadotropin, phòng ngừa được tình trạng trầm uất liên quan đến mãn kinh.7 Triệu chứng tuần hoàn gồm bốc hỏa, đổ mồ hôi, cảm giác ngạt thở, thở khó, mạch nhanh. Triệu chứng rối loạn nội tiết là do sự suy giảm nội tiết tố nữ và những biến đổi như xơ vữa động mạch. Mãn kinh có thể đến sớm đối với những người hút thuốc lá. Những người khó chịu với bốc hỏa nên tránh thuốc lá, tránh uống cà phê và rượu bia, nên ở trong phòng thoáng gió, sử dụng quạt, uống nhiều nước lạnh. Vận động sẽ giúp ngủ tốt hơn. Chỉ dùng nội tiết thay thế trong những trường hợp có triệu chứng rối loạn rất nặng.8 Trong giai đoạn này, do thiếu Estrogen, hệ niệu sinh dục cũng chịu ảnh hưởng, thể hiện các triệu chứng như khô teo niêm mạc âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, tiểu lắt nhắt, tiểu són, tiểu gấp, dễ nhiễm trùng tiểu, viêm âm đạo. Giao hợp đau do khô âm đạo có thể cải thiện bằng cách dùng thuốc bôi trơn. Ngoài ra, người phụ nữ còn có các triệu chứng thoái hóa xương khớp như đau lưng, đau khớp, đau cơ, nguy cơ loãng xương cao. Tiền mãn kinh là một giai đoạn tự nhiên trong đời sống người phụ nữ. Đó không phải là bệnh nên không cần có thuốc điều trị. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp phản ứng nặng về thể chất, sinh lý, tâm lý làm giảm chất lượng cuộc sống nên cần được điều trị để giảm nhẹ những phản ứng này. Một trong những phương pháp điều trị là nội tiết thay thế (HRT). HRT bao gồm việc dùng các thuốc có chứa Estrogen phối hợp Progestin ở người còn tử cung hay chỉ đơn thuần estrogen ở người đã cắt tử cung. Khi dùng để làm giảm bớt các triệu chứng khó chịu do mãn kinh thì chỉ dùng trong thời gian ngắn nhất và liều thấp nhất nếu có thể.9 HRT cũng giúp ngăn ngừa mất xương, loãng xương. Ngoài các thuốc nội tiết kể trên, người ta còn đề xuất dùng thuốc thuộc nhóm SERMs tổng hợp hoặc chiết xuất từ nguồn thảo dược với đặc điểm là tác động đồng vận hay đối vận với các thụ thể của Estrogen trong cơ thể. Loại SERMs thường dùng nhất là Raloxifene. Chất này có tác dụng đồng vận với estrogen trên xương và chất lipids nhưng đối kháng với estrogen trên mô vú và nội mạc tử cung nên ngừa được gãy xương ở người mãn kinh và giảm nguy cơ ung thư vú.10 Ngoài những phương pháp điều trị kể trên, chất isoflavones của đậu nành, đậu xanh, nhiều loại đậu khác và lignan – trong dầu hạt 5TỔNG QUAN Y VĂN lanh, mầm lúa và một số loại rau quả- được sử dụng với nhiều hứa hẹn trong việc làm giảm những triệu chứng do mãn kinh gây ra nhưng điều này chưa được chứng minh rõ ràng.11 Ðối với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, cần thường xuyên tập thể dục thể thao để duy trì sự dẻo dai của hệ xương cơ và giúp máu tuần hoàn đều khắp cơ thể. Nên ăn những chất giàu calci (sữa, cua, tôm, cà rốt). Ăn ít mỡ, nhiều rau, trái cây đặc biệt là những chất chống oxy hóa để làm chậm sự lão hóa. Đó là những loại thực phẩm chứa sinh tố C, sinh tố E và beta caroten. Tài liệu tham khảo 1. Lehman, Michael; Coolen, Lique; Goodman, Robert (August 2010). “Minireview: Kisspeptin/ NeurokininB/Dynorphin Cells of the Arcuate Necleus: A central Node in the Control of Gonadotorpin-Releasing hormone secretion” Endocrinology 151 (8). doi:10.1210/en. 2010-0022. 2. Meister B, Håkansson ML; Håkansson (2001). “Leptin receptors in hypothalamus and circumventricular organs”. Clinical and experimental pharmacology & physiology 28 (7): 610–617. doi:10.1046/j.1440-1681.2001.034 3. Kail, RV; Cavanaugh JC (2010). Human Development: A Lifespan View (5th ed.). Cengage Learning. p. 296. ISBN 0495600377. 4. Phạm Thanh Hải, Huỳnh Thị Thanh Thủy (2010) “Phá thai ở nữ vị thành niên” Y học TP HCM 2010 . Tập 14 số 2. Tr 8-14 5. Homburg, R, Glob. libr. women’s med., (ISSN: 1756-2228) 2014; DOI 10.3843/GLOWM.10290 6. Dreisler E, Poulsen LG, Antonsen SL, Ceausu I, Depypere H, Erel CT, Lambrinoudaki I, Pérez- López FR, Simoncini T, Tremollieres F, Rees M, Ulrich LG (2013). “EMAS clinical guide: Assessment of the endometrium in peri and postmenopausal women”. Maturitas 75 (2): 181–90. doi:10.1016/j. maturitas.2013.03.011. PMID 23619009. 7. Bellipanni G, DI Marzo F, Blasi F, Di Marzo A (December 2005). “Effects of melatonin in perimenopausal and menopausal women: our personal experience. 2005”. Annals of the New York Academy of Sciences 1057 (1): 393–402. doi:10.1196/annals.1356.030. PMID 16399909. 8. Krause, MS; Nakajima, ST (March 2015). “Hormonal and Nonhormonal Treatment of Vasomotor Symptoms.”. Obstetrics and gynecology clinics of North America 42 (1): 163–179. doi:10.1016/j. ogc.2014.09.008. PMID 25681847. 9. Main C, Knight B, Moxham T, Gabriel Sanchez R, Sanchez Gomez LM, Roqué i Figuls M, Bonfill Cosp X (Apr 30, 2013). “Hormone therapy for preventing cardiovascular disease in post-menopausal women.”. The Cochrane database of systematic reviews 10. Bevers TB (2007). “The STAR Trial: Evidence for Raloxifene as a Breast Cancer Risk Reduction Agent for Postmenopausal Women”. J Natl Compr Canc Netw 5 (8): 817–22. 11. Bolaños, R; Del Castillo, A; Francia, J (2010). “Soy isoflavones versus placebo in the treatment of climacteric vasomotor symptoms: systematic review and meta- analysis.”. Menopause
File đính kèm:
nhung_thay_doi_cua_noi_tiet_sinh_duc_trong_doi_song_nguoi_ph.pdf

