Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam
Tóm tắt: bài viết tập trung luận giải những vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về : bản chất
của nhà nước, chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan điểm tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước và sự vận dụng vào điều kiện Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử thông qua
phân tích các quy định Hiến pháp và thực tiễn.
Bạn đang xem tài liệu "Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam
VNU Journal of VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 1 Review Article Some Basic Thesis of Socialism - Lenin on the State and The Applica in Vietnam Pham Hong Thai VNU School of Law, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 15 May 2020 Revised 20 June 2020; Accepted 27 June 2020 Abstract: The essay focuses on explaining the basic issues of Marxism - Leninism about: the nature of the state, the dictatorship of the proletariat, the socialist state, the viewpoint of organizing the exercise of power State and application into Vietnamese conditions through historical periods through analysis of Constitutional provisions and practices Keywords: marxism - Leninism, state nature, dictatorship of the proletariat, organization of state power, manipulation, constitution, practice. ________ Corresponding author. Email address: thaihanapa201@yahoo.com) https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4279 P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 2 Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước và vận dụng ở Việt Nam Phạm Hồng Thái Khoa Luật, Đaih học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 05 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 20 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 27 tháng 6 năm 2020 Tóm tắt: bài viết tập trung luận giải những vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về : bản chất của nhà nước, chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan điểm tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và sự vận dụng vào điều kiện Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử thông qua phân tích các quy định Hiến pháp và thực tiễn. Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lê nin, bản chất nhà nước, chuyên chính vô sản, tổ chức quyền lực nhà nước, vận dụng, hiến pháp, thực tiễn. 1. Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước Để chỉ ra và đánh giá được sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước vào điều kiện Việt Nam, cần khái quát chỉ ra những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước. Theo V. I. Lê nin, vấn đề nhà nước: đó là vấn đề rất cơ bản, mấu chốt trong toàn bộ chính trị, đến nỗi không những trong thời đại giông tố và cách mạng trong thời đại chúng ta, mà ngay cả trong các thời đại yên tĩnh nhất, thì hằng ngày trên mọi báo chí, khi bàn đến bất cứ vấn đề kinh tế hay chính trị nào bao giờ các đồng chí cũng vấp phải câu hỏi này: nhà nước là gì, bản chất của nó là gì, vai trò của nó và thái độ của Đảng ta, Đảng đấu tranh để lật đổ chế độ tư sản, Đảng cộng sản đối với nhà nước như thế nào. Nghiên cứu, trả lời tất cả những câu hỏi này là rất lớn, trong khuôn khổ của bài viết tập trung làm rõ môt số vấn đề rất căn bản sau:i) bản chất của nhà nước; ii) quan điểm về chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa; iii) quan điểm ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: thaihanapa201@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4279 tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và sự vận dụng vào điều kiện Việt Nam. Một là: về bản chất nhà nước Theo quan điểm của những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin, nhà nước là phạm trù lịch sử và mang bản chất giải cấp, Ph.Ăngghen chỉ rõ “Vì nhà nước nảy sinh ra từ những nhu cầu phải kiềm chế những đối lập giai cấp, vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai cấp, cho nên theo lệ thường, nhà nước là của giai cấp có thế lực nhất, của các giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về chính trị...” [1]. Trên cơ sở quan điểm này, V. I, Lê nin khẳng định “nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước xuất hiện ở đâu, và khi nào mà những mâu thuẫn giai cấp xét một cách khách quan không thể điều hòa được” [2]. Thực tiễn lịch sử đấu tranh chính trị ở các quốc gia, của nhân loại đã minh chứng rằng các giai cấp luôn P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 3 đấu tranh đấu tranh nhằm giành quyền thống trị xã hội, thống trị các giai cấp khác, buộc phải tuân theo ý chí của mình. Với quan điểm, thực tiễn lịch sử nhà nước ra đời là kết quả của đấu tranh giai cấp, do vậy, nhà nước trước hết trở thành công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị - giai cấp thống trị về mặt kinh tế và được xã hội “thừa nhận là đại biểu chung của xã hội” [3]. Trên cơ sở quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về bản chất của nhà nước, V.I.Lê- nin tiếp tục khẳng định, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” [4] và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác” [5]. Trong tác phẩm “ Bàn về nhà nước”, V.I. Lê nin viết “nhà nước là bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác tách ra khỏi xã hội và bao gồm một nhóm người chỉ chuyên làm công tác cai trị” [6]. Như vậy, để thực hiện sự thống trị của mình, giai cấp thống trị đã tổ chức ra bộ máy nhà nước với đội quân chuyên nghiệp “ tách ra khỏi” xã hội để thống trị xã hội, thống trị giai cấp khác. Bên cạnh đó,V.I.Lê-nin luận giải và chỉ rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy” [7]. Ông viết tiếp “Quyền chính trị là gì, nếu không phải là cách diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực lượng?” [8]. Đây chính là sự phát triển quan điểm: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác của C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Những luận điểm nêu trên là căn cứ để khẳng định về bản chất giai cấp của nhà nước trong quan điểm của những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính bản chất giai cấp tạo nên chức năng giai cấp của nhà nước. Đây là phát kiến của những người sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê nin về bản chất giai cấp của nhà nước, mà trước đó không được đề cấp đến, hoặc được đề cập rất mờ nhạt trong quan điểm của các nhà tư tưởng. Bên cạnh chức năng giai cấp, những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lê nin cũng chỉ ra chức năng xã hội của nhà nước. C. Mác đã viết: “chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó” [9]. Như vậy, bên cạnh chức năng giai cấp, nhà nước còn có chức năng xã hội, thực hiện chức năng xã hội là điều kiện, tiền đề để thực hiện chức năng giai cấp, khi thực hiện không tốt chức năng xã hội, giai cấp thống trị sẽ mất dẫn vai trò, chức năng thống trị của mình. Dó đó, khi thực hiện chức năng giai cấp, nhà nước – giai cấp thống trị cũng cần phải thực hiện chức năng xã hội, tính đến lợi ích của những giai cấp khác trong xã hội và giải quyết những vấn đề chung của xã hội. Chức năng giai cấp và chức năng xã hội là hai mặt của vấn đề bản chất nhà nước, mâu thuẫn nhưng thống nhất, nội dung chức năng giai cấp, chức năng xã hội của nhà nước cũng có những thay đổi trong những giai đoạn phát triển của nhà nước. Hai là, quan điểm về chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa Quan điểm về chuyên chính vô sản, về nhà nước xã hôi chủ nghĩa, xuất hiện trong các tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học và trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản(1848). Các tác phẩm này nêu lên quy luật đấu tranh giai cấp trong lịch sử và sự tất yếu của việc giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Nhưng vấn đề tổ chức chính quyền của giai cấp vô sản như thế nào chưa được giải đáp. Trong "Hệ tư tưởng Đức" mới hình thành quan điểm duy vật về nhà nước, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác đã tiên đoán một nhà nước, một xã hội và một nền kinh tế mới. Theo ông, nhà nước là sản phẩm của cuộc chuyển biến kinh tế - xã hội. Điều này bắt đầu bằng việc xoá bỏ chính quyền của giai cấp tư sản và đập tan thượng tầng kiến trúc tư bản. Sau đó, thiết lập nên “nền chuyên chính P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 4 vô sản, “một bộ máy nhà nước vô sản kiểu mới - bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước đó có các chức năng: xoá bỏ giai cấp bóc lột, bảo vệ đất nước chống ngoại xâm, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế và văn hoá, cũng như xây dựng một xã hội không có giai cấp. Dựa vào kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848 và của giai đoạn lịch sử 1848 - 1851 ở Pháp, C.Mác đã đưa ra lý luận là cần phải “đập tan bộ máy nhà nước tư sản” trong quá trình làm cách mạng vô sản, chứ không phải tiếp tục bộ máy đó để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mới. Tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari (1871), Mác nhận định rằng nhà nước vô sản phải là kiểu công xã Pari, tức là nhà nước kiểu mới, được trình bày trong tác phẩm "Nội chiến ở Pháp". Do yêu cầu đấu tranh cách mạng và để hoàn chỉnh học thuyết của mình, những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã mở rộng phạm vi và đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề khác về nhà nước; vấn đề phát sinh nhà nước đầu tiên trong xã hội có giai cấp, vấn đề nhà nước tiêu vong. Ph.Ănghen trình bày những tư tưởng này trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (1884 - 1891). Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản, V.I. Lê nin là người đã phát triển học thuyết của Mác - Ănghen về nhà nước. V.I. Lênin đã đấu tranh chống sự xuyên tạc của bọn cải lương, xét lại, vô Chính phủ, đồng thời vận dụng quan điểm về nhà nước của C. Mác và Ph. Ănghen vào thực tiễn cách mạng của nước Nga năm 1917, viết tác phẩm nổi tiếng "Nhà nước và cách mạng", trực tiếp giảng bài "Bàn về nhà nước" ở Trường đại học Svéc-lốp.Trên cơ sở những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước, bản chất của nhà nước, trong điều kiện giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, V.I.Lênin chỉ rõ phải xây dựng một nhà nước kiểu mới - nhà nước chuyên chính vô sản với hai chức năng cơ bản là trấn áp và tổ chức xây dựng xã hội mới. Người viết “Bây giờ chúng ta sẽ xây dựng, trên một miếng đất đã dọn sạch những di vật đổ nát của lịch sử, tòa lâu đài xã hội xã hội chủ nghĩa, đồ sộ và rực rỡ; sẽ thiết lập nên một nhà nước kiểu mới chưa từng có trong lịch sử, một nhà nước thể theo ý chí của cách mạng mà có nhiệm vụ quét sạch khỏi mặt đất mọi sự bóc lột, mọi bạo lực, mọi sự nô dịch” [10]. Với cách nhìn biện chứng, thực tiễn lịch sử xã hội đã từng có giai đoạn không có nhà nước, về sự ra đời của nhà nước, bằng lịch sử sự thay thế giữa các kiểu nhà nước trong lịch sử, nguyên nhân sự thay đổi các kiểu nhà nước V.I.Lê-nin viết: “Mục đích cuối cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta không mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung sẽ không còn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà không cần có bạo lực và không cần có phục tùng” [11]. Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ tự tiêu vong. Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu vong, cần có nhiều điều kiện, trong đó, quan trọng nhất là, nhà nước phải trải qua một hình thức tồn tại đặc biệt của nó: Nhà nước chuyên chính vô sản. Nhưng để có được nhà nước chuyên chính vô sản, tất yếu phải dùng đến bạo lực cách mạng. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Không có cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản, nghĩa là việc thủ tiêu mọi nhà nước, chỉ có thể thực hiện được bằng con đường “tiêu vong” thôi” [12]. Bạo lực cách mạng là phương thức duy nhất để một giai cấp mới, tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị. Điều đó đúng đối với giai cấp vô sản và hơn thế, với giai cấp vô sản, bạo lực cách mạng còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng nữa, đó là đập tan bộ máy nhà nước cũ để xây dựng nhà nước kiểu mới. Đập tan bộ máy nhà nước cũ để xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước chuyên chính vô sản là hình thức nhà nước chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng thái tiêu vong của nhà nước. Về điều này, được V.I. Lê nin luận P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 5 giải, làm rõ khi phân tích mối quan hệ biến chứng giữa chuyên chính vô sản và tính dân chủ của nhà nước. Trước hết, V.I.Lê-nin khẳng định, “trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”[13] và nhà nước vô sản phải là một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Bên cạnh những quan điểm về “ chuyên chính vô sản, V.I. Lê nin cũng nhấn mạnh vấn đề dân chủ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Người viết: “Điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý” 14]. V.I. Lê-nin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi. “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và những người bị bóc lột không” [15]. Đối với V.I. Lê- nin: “Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản...” [16]. Chuyê ... tám mươi thế kỷ XX. Hệ quả đó là sự ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, về chủ nghĩa xã hội một cách máy móc, giáo điều, khi chưa có đầy đủ điều kiện, tiền đề kinh tế bảo đảm cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn minh chứng rằng, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với „ mo cơm nắm, quả cà“ với tấm lòng cộng sản mà đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước tình trạng đó, để khắc phục những bất cập của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta, đưa đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế, sửa chữa những sai lệch trong vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước, về xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ sáu đề ra, Hiến pháp năm 1992 được ban hành thay thế cho Hiến pháp năm 1980, vốn được quan niệm là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về bản chất nhà nước vẫn trên cơ sở kế thừa quan điểm của các Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định „Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức“ „ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội“, nhưng về chế độ kinh tế có những thay đổi căn bản, Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng“. Nhờ những đổi mới về chế độ kinh tế đã giải phóng được lực lượng sản xuất xã hội làm thay đổi dần mọi mặt đời sống xã hội. Từ những quy định của Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có thể khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội là đinh hướng, là tất yếu của cách mạng Việt Nam, P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 9 nhưng tính giáo điều, máy móc về chủ nghĩa xã hội đã dần được khắc phục, đây là điểm mốc quan trọng đánh dấu sự sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin của Đảng và Nhà nước ta. Trước những thay đổi của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, Hiến pháp năm 1992, tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng nhiều nội dung trở nên không còn phù hợp. Trước đòi hỏi đó, Hiến pháp năm 2013 đã được ban hành với nhiều nội dung mới, thể hiện tư duy mới đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện hiện nay. Về bản chất của nhà nước vẫn được khẳng định như các Hiến pháp trước đây, nhưng về hình thức thực hiện quyền lực nhân dân có sự thay đổi căn bản, thể hiện sự phát triển những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác”. Quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Tất cả các Hiến pháp trước đó, trừ Hiến pháp 1946, chỉ mới quy định các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Hiến pháp. Bản chất giai cấp và bản chất xã hội của nhà nước còn được thể hiện ở chế độ kinh tế - cơ sở kinh tế của nhà nước, Hiến pháp 2013 quy định: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là sự sáng tạo chưa từng có trong lịch sử xây dựng xã hội chủ nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Những thay đổi về chế độ kinh tế trong Hiến pháp là cơ sở hiến định cho những thay đổi chính sách, thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao, gia nhập ngày càng sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế, vị thế của Nhà nước ta ngày càng được khẳng định, nâng cao. Hai là, về phương thức thực hiện quyền lực nhà nước Về phương thức tổ chức quyền lực thực hiện quyền lực nhà nước, trên cơ sở quan của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trước hết ở quan điểm về sự thống nhất của quyền lực, nhưng mỗi Hiến pháp có cách tiếp cận, giải quyết vấn đề này một cách khác nhau. Hiến pháp năm 1946, có cách tiếp cận khá lý thú, toàn diện cả về khía cạnh chính trị, xã hội và khía cạnh kỹ thuật tổ chức. Hiến pháp quy định: Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", đến điều 43 quy định: Cơ quan hành chính (hành pháp) cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 63 " Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các toà án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Như vậy, trong cơ cấu quyền lực gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi nhánh quyền lực do một loại thiết chế nhà nước thực hiện. Như vậy, ở đây đã có sự phân biệt giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời khẳng định sự độc lập giữa các thiết chế quyền lực nhà nước. Thêm vào đó, cơ chế "cân bằng quyền lực" được hình thành trong Hiến pháp khi quy định định thẩm quyền cụ thể của các cơ quan cao nhất của nhà nước Hiến pháp đã tạo nên cơ chế cơ chế " kiềm chế quyền lực" giữa các nhánh quyền lực nhà nước, đặc biệt là giữa lập pháp và hành pháp. Hiến pháp quy định "Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc"; "Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó Chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một toà án đặc biệt để xét xử" Điều 51. Hiến pháp 1946 không quy định trách nhiệm của Chủ tịch nước trước nghị viện nhân dân. Trong quan hệ với Nghị viện, Điều 31 quy định" Những luật đã đựơc Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng thuận thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố". Nghị viện có quyền biểu quyết tín P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 10 nhiệm Nội các, nhưng trong hạn 24 giờ sau... Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra nghị viện thảo luận lại... nếu Nội các mất tín nhiệm phải từ chức". Hiến pháp 1959, về tổ chức để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng có những thay đổi so với Hiến pháp 1946, thể hiện ở những quy định Hiến pháp " Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" " Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", " Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra". Chủ tịch nước tách ra thành một định chế độc lập, không còn là người đứng đầu nhánh quyền lực hành pháp như quy định trong Hiến pháp 1946. Theo quy định Hiến pháp Chủ tịch nước có những quyền mang tính biểu tượng nhà nước như những người đứng đầu nhà nước của các quốc gia khác "thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại" và những quyền khác quy định tại các điều 63, 64. Quyền hạn thực quyền của Chủ tịch nước gồm quyền " thống lĩnh lực lượng vũ trang toàn quốc, giữa chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng" quyền triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt". Còn Hội đồng Chính phủ được xác định là " Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".Từ những quy định này có thể nhận thấy, bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 đã hình thành cơ chế tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, về mặt hành chính thì Hội đồng Chính phủ chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Những quy định này của Hiến pháp, như là sự tiếp thu những luận điểm cơ bản của C.Mác về tổ chức các cơ quan nhà nước theo mô hình Công xã Pari; theo mô hình chính quyền Xô viết do V.I. Lê nin khởi xướng và áp dụng ở nước Nga Xô viết. Theo quy định Hiến pháp quyền xét xử do Toà án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án đặc biệt do Quốc hội thành lập để thực hiện. Hiến pháp 1980 bên cạnh những kế thừa về quyền lực nhân dân ở các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 đi theo hướng tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện ở quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Như vậy, Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của Quốc hội, chứ không phải cơ quan hành chính cao nhất của nước. Quan điểm tập quyền, tập trung quyền lực vào Quốc hội được thể hiện càng rõ với quy định: Quốc hội có thể đặt cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn mới" và khi cần Quốc hội có thể trao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng những nhiệm vụ, quyền hạn mới. Với cơ chế này có thể dẫn đến nhận thức là: quyền lực của Quốc hội không bị hạn chế bởi Hiến pháp, bởi pháp luật. Với mô hình này, có thể liên tưởng đến quan điểm “ tất cả quyền lực” tập trung vào các Xô viết. Với cơ chế như vậy, việc phân công lao động quyền lực không rõ ràng, chế độ trách nhiệm tập thể được đề cao, còn trách nhiệm của cá nhân bị “mờ nhạt dần”, cũng là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động của toàn bộ máy nhà nước. Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) bắt đầu có xu hướng giảm tính tập quyền, tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội, thể hiện qua quan điểm “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nhưng vẫn giữ quan điểm “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”, nhưng những quy định về “ đặc quyền” tự quyết định của Quốc hội không còn được quyết định như Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 2013, thì sự phân công quyền lực được thể hiện rõ ràng hơn bởi quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quốc hội là cơ quan đại biểu P.H. Thai / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 1-11 11 cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Từ những quy định của Hiến pháp, có thể khẳng định rằng, việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về tổ chức quyền lực nhà nước, ở khía cạnh chính trị, xã hội trong các Hiến pháp luôn khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước, nhưng về sự phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp luôn có những thay đổi: sự phân công rõ nét nhất được thể hiện trong Hiến pháp 1946, bị mờ dẫn đi trong Hiến pháp 1959, đặc biệt là Hiến pháp 1980, đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì tư tưởng về “sự phân công quyền lực” bắt đầu được thể hiện, và được thể hiện rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và được bổ sung thêm cơ chế “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp”. Tóm lại: những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước bao gồm rất nhiều nội dung: về bản chất giai cấp, bản chất xã hội của nhà nước, về đấu tranh giành chính quyền, lý thuyết đập tan bộ mày nhà nước cũ, về chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, của giai cấp công nhân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, về sự tiêu vong của nhà nước và nhiều vấn đề cốt lõi khác. Trong quá trình vận dụng những quan điểm này ở Việt Nam từ năm 1945 tới nay được thể hiện rõ nét nhất qua các bản Hiến pháp, được vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam với những mức độ khác nhau, trong những chính sách, quyết sách đôi khi còn máy móc, giáo điều ít sáng tạo đã dẫn đến những hệ quả tiêu cực nhất định. Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi cần phải vận dụng những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhà nước một sách sáng tạo, không ngừng bổ sung những luận điểm đó với những nội dung mới, phù hợp với điều kiện mới. Tài liệu tham khảo [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr, 255. [2] V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 33, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva,1976,tr.110. [3] C.Mác và Ph.Ăngghen:Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.585. [4] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,33, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1981, tr 303 [5] V.I.Lê-nin:Sđd,t37,tr.122 [6] V.I. Lê nin, Toàn tập, t, 39, Nxb, Tiến bộ, Matxcơva,1977,tr.76 . [7] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,34, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ- va, 1976, tr 52 [8] V.I. Lê-nin: Toàn tập, t,21, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ- va, 1980, tr 150 [9] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1994, tr.253. [10] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t,35, tr.384. [11] ( 11) (12) (13) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, t 33, tr 101-102,tr. 28, tr.111 [12] (14 )(15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t 31, tr 356, tr.356. [13] (16).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1978, t 43, tr 380 [14] (17).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1981, t 31, tr 356. [15] (18).V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát- xcơ-va, 1978, t 33, tr 109. [16] (19) (20) (21) C. Mác - Ph.Angghen. Tuyển tập. T.1. NXB. Sự thật. H. 1980. tr. 315;tr. 407; tr. 405. [17] (22)Mác- Ph. ănggen Tuyển tập. NXB. Sự thật. H. 1970.tr. 627. [18] (23) V. I. Lênin. Toàn tập. T. 38. NXB. TB. M. 1978. tr. 59.
File đính kèm:
- nhung_luan_diem_can_ban_cua_chu_nghia_mac_le_nin_ve_nha_nuoc.pdf