Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp

Ngày nay, tại Việt Nam, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ngày càng giảm đồng thời tỉ lệ phụ nữ sống độc thân có quan hệ tình dục ngày càng cao, cùng với sự thiếu kiến thức về các biện pháp tránh thai (BPTT) dẫn đến sự gia tăng đáng kể những thai kỳ ngoài ý muốn. Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai cao nhất Châu Á, và là một trong 5 nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, bình quân có khoảng một triệu trường hợp phá thai hàng năm,1 chiếm 52% số sanh sống. Tình trạng có thai ngoài ý muốn cao không chỉ vì các cặp vợ chồng không áp dụng BPTT nào mà còn do sử dụng các BPTT không đúng cách.

 Theo thống kê của Tổng Cục Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia Đình, năm 2011, tỉ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các BPTT là 78% trong đó biện pháp tránh thai hiện đại gần 69%, nhưng tỉ lệ thất bại cũng nhiều gần 50%, các trường hợp phá thai cho biết có sử dụng biện pháp tránh thai vào thời điểm trước khi có thai

pdf 5 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp

Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp
35
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Những điều cần biết về thuốc viên 
tránh thai khẩn cấp
Nguyễn Thị Thiên Hương*
*BV.	Hùng	Vương.	Email:	[email protected];	DĐ:	0909001205
Ngày	nay,	tại	Việt	Nam,	độ	tuổi	quan	hệ	tình	
dục	 lần	đầu	ngày	càng	giảm	đồng	 thời	 tỉ	 lệ	
phụ	 nữ	 sống	 độc	 thân	 có	 quan	 hệ	 tình	 dục	
ngày	càng	cao,	cùng	với	sự	 thiếu	kiến	 thức	
về	các	biện	pháp	tránh	thai	(BPTT)	dẫn	đến	
sự	 gia	 tăng	 đáng	 kể	 những	 thai	 kỳ	 ngoài	 ý	
muốn.	Việt	Nam	là	nước	có	tỷ	lệ	phá	thai	cao	
nhất	Châu	Á,	và	là	một	trong	5	nước	có	tỉ	lệ	
nạo	phá	thai	cao	nhất	thế	giới,	bình	quân	có	
khoảng	một	 triệu	 trường	hợp	phá	 thai	hàng	
năm,1	chiếm	52%	số	sanh	sống.	Tình	trạng	có	
thai	ngoài	ý	muốn	cao	không	chỉ	vì	các	cặp	
vợ	chồng	không	áp	dụng	BPTT	nào	mà	còn	
do	sử	dụng	các	BPTT	không	đúng	cách.	
	Theo	thống	kê	của	Tổng	Cục	Dân	Số	và	Kế	
Hoạch	Hóa	Gia	Đình,	năm	2011,	tỉ	lệ	các	cặp	
vợ	chồng	áp	dụng	các	BPTT	là	78%	trong	đó	
biện	pháp	tránh	thai	hiện	đại	gần	69%,	nhưng	
tỉ	lệ	thất	bại	cũng	nhiều	gần	50%,	các	trường	
hợp	phá	thai	cho	biết	có	sử	dụng	biện	pháp	
tránh	thai	vào	thời	điểm	trước	khi	có	thai.13 
	 	 	Những	 trường	 hợp	 không	 áp	 dụng	 đúng	
cách	 hay	 thất	 bại	 với	 biện	 pháp	 tránh	 thai	
đang	sử	dụng	như	thủng	hay	tuột	bao	cao	su	
(BCS),	quên	uống	thuốc	viên	tránh	thai	hằng	
ngày	và	uống	bù	không	đúng	cách,	rơi	dụng	
cụ	tử	cung	(DCTC)	hoặc	giao	hợp	không	
được	bảo	vệ	thì	khi	đó	thuốc	viên	tránh	thai	
khẩn	 cấp	 (TTKC)	 sẽ	 là	một	 biện	 pháp	 cần	
thiết,	tương	đối	an	toàn	và	hiệu	quả	để	tránh	
mang	thai	ngoài	ý	muốn.	
	Sử	dụng	thuốc	viên	TTKC	là	phương	pháp	
kín	đáo,	có	hiệu	quả,	 thuận	tiện,	đặc	biệt	 là	
ở	đối	tượng	phụ	nữ	không	quan	hệ	tình	dục	
thường	xuyên,	hoặc	không	áp	dụng	biện	pháp	
tránh	thai	nào	khi	quan	hệ	tình	dục	nhưng	đòi	
hỏi	người	sử	dụng	phải	có	những	hiểu	biết	cơ	
bản	về	thuốc	mình	đang	sử	dụng,	phải	quan	
tâm	và	sử	dụng	đúng	theo	hướng	dẫn	thì	sự	
kiểm	 soát	 sinh	 sản	 bằng	 thuốc	 viên	TTKC	
mới	có	hiệu	quả	tốt	và	đảm	bảo	an	toàn	sức	
khỏe	của	người	sử	dụng.
Thuốc viên tránh thai khẩn cấp
Lịch sử biện pháp tránh thai khẩn cấp
Cuối	những	năm	1920,	các	nhà	khoa	học	đã	
chứng	minh	được	rằng	khi	sử	dụng	estrogen	
có	nguồn	gốc	từ	buồng	trứng	sẽ	ảnh	hưởng	
đến	khả	năng	có	thai	của	động	vật	có	vú.	Các	
bác	sĩ	thú	y	đã	ứng	dụng	kết	quả	nghiên	cứu	
này	để	tránh	thai	cho	chó,	ngựa	và	thu	được	
kết	quả	khả	quan.22
	 	 	Năm	1974,	phương	pháp	 tránh	 thai	khẩn	
cấp	có	tên	“Yuzpe”	được	giới	thiệu.	Phương	
pháp	 này	 sử	 dụng	 chính	 viên	 thuốc	 tránh	
thai	 kết	 hợp	 liều	 thấp	 có	 sẵn,	 uống	 từ	 3-7	
viên	cùng	một	lúc,	tổng	liều	khoảng	100	µg	
ethinylestradiol	 +	 0,75	 mg	 levonorgestrel.	
Năm	1977,	 phương	pháp	này	được	 cải	 tiến	
thông	 qua	 việc	 chia	 liều	 ban	 đầu	 thành	 hai	
liều	nhỏ,	uống	cách	nhau	12	giờ	để	giảm	tác	
dụng	phụ	của	ethinylestradiol	(tổng	liều	vẫn	
giữ	nguyên).26
	 	 	Mifepristone	được	 tìm	 ra	 năm	1980,	 bởi	
Giáo	sư	người	Pháp	Etienne	-	Emile	Baulieu	
và	 khi	 nói	 đến	 Mifepristone,	 người	 ta	 hay	
nghĩ	đến	tác	dụng	gây	sảy	thai.	Sau	12	năm	
kể	từ	khi	ra	đời	ở	Pháp,	thuốc	này	mới	được	
FDA	cho	phép	lưu	hành	ở	Mỹ.9
36
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015
	 	 	Năm	1996,	Tổ	chức	Y	tế	Thế	giới	chứng	
minh	levonorgestrel	an	toàn	và	hiệu	quả	trong	
tránh	thai	khẩn	cấp.25	Postinor	0,75mg	là	một	
thuốc	ngừa	thai	khẩn	cấp	chứa	levonorgestrel,	
có	mặt	trên	thị	trường	Việt	Nam	từ	năm	1992.	
Các loại thuốc viên tránh thai khẩn cấp
Các	 BPTT	 thường	 dựa	 trên	 nguyên	 lý	 tác	
động	 ngược	 lại	 với	 sinh	 lý	 thụ	 thai,	 nhằm	
ức	chế	hoạt	động	của	tinh	trùng,	ức	chế	phát	
triển	nang	noãn,	ức	chế	phóng	noãn,	ức	chế	
sự	thụ	tinh	và	cuối	cùng	là	ức	chế	sự	làm	tổ	
của	 phôi.	 Các	 biện	 pháp	 này	 thường	 được	
áp	 dụng	 chủ	 động	 từ	 trước	 khi	 có	 quan	 hệ	
tình	dục	và	đạt	hiệu	quả	cao.	Duy	nhất	tránh	
thai	 khẩn	 cấp	 được	 áp	 dụng	 sau	 giao	 hợp	
mà	không	có	hoặc	thất	bại	khi	áp	dụng	một	
BPTT.	Đây	là	một	biện	pháp	tránh	thai	hoàn	
toàn	thụ	động	và	cho	kết	quả	khác	nhau	tùy	
theo	từng	nghiên	cứu.4
	Phương	pháp	tránh	thai	khẩn	cấp	hiện	đại	
được	chia	thành	hai	nhóm	chính	là:2,4 
-	Đặt	dụng	cụ	tử	cung	khẩn	cấp.	
-	Thuốc	uống.	
	 	 	Thuốc	 uống	 được	 sử	 dụng	 nhiều	 hơn	 so	
với	đặt	DCTC	do	tính	thuận	tiện	và	kín	đáo.	
Trong	nhóm	TTKC	có	ba	phương	pháp:2,3,4,8,18
-	 Thuốc	 viên	 tránh	 thai	 kết	 hợp	 liều	 thấp	
estrogen	và	progestin.
-	Thuốc	viên	chỉ	có	progestin.
-	Thuốc	viên	chứa	mifepristone.
Hàm lượng và cách sử dụng thuốc tránh 
thai khẩn cấp
Thuốc	 tránh	 thai	 khẩn	 cấp	 là	 phương	 pháp	
sử	dụng	hormon	để	 tránh	 thai	sau	giao	hợp	
không	bảo	vệ.	Do	vậy,	viên	thuốc	tránh	thai	
khẩn	cấp	còn	được	gọi	là	“viên	thuốc	sau	giao	
hợp”	hoặc	“viên	thuốc	sáng	hôm	sau”.	Thuật	
ngữ	 “viên	 thuốc	 tránh	 thai	 khẩn	 cấp”	 được	
nhiều	người	chấp	nhận	nhất.	Thuật	ngữ	này	
có	ý	nhắc	nhở	đây	không	phải	là	một	phương	
pháp	tránh	thai	chủ	động,	mà	đây	là	phương	
pháp	hoàn	toàn	bị	động,	tránh	sự	hiểu	lầm	là	
thuốc	 chỉ	 được	 sử	 dụng	 vào	 buổi	 sáng	 sau	
giao	hợp.4,16 
	Thuốc	tránh	thai	khẩn	cấp	chứa	progestin	
có	hai	loại	là:	(1)	Chỉ	có	progestin;	(2)	Phối	
hợp	progestin	và	estradiol.
* Thuốc viên TTKC chỉ có progestin: 
levonorgestrel	 có	 hoạt	 tính	 kháng	 hormon	
hướng	sinh	dục	mạnh	và	 thời	gian	bán	hủy	
dài.23
Tại	Việt	Nam,	chế	phẩm	này	có	tên	Postinor,	
được	sản	xuất	dưới	hai	dạng:	
-	 Vỉ	 một	 viên	 duy	 nhất	 (Postinor-1),	 hàm	
lượng	 1,5mg	 levonorgestrel.	 Uống	 thuốc	
càng	sớm	càng	tốt	trong	vòng	12	giờ	sau	giao	
hợp,	và	không	quá	72	giờ	sau	giao	hợp.4
-	Vỉ	hai	viên	(Postinor-2),	mỗi	viên	chứa	0,75	
mg	levonorgestrel.	Viên	thứ	nhất	uống	càng	
sớm	càng	tốt	trong	vòng	72	giờ	sau	giao	hợp.	
Viên	thứ	hai	uống	sau	viên	thứ	nhất	12	giờ.4
* Mifepristone 10mg	 là	 một	 dạng	
antiprogestin	 dùng	 01	 viên	 duy	 nhất	 trong	
vòng	120	giờ	ngay	sau	giao	hợp.	
Các	thuốc	viên	TTKC	không	được	dùng	quá	
2	 lần	 trong	một	 tháng,	 không	 sử	 dụng	 như	
một	biện	pháp	tránh	thai	thường	xuyên.
Cơ chế tác dụng4,26
Khi	chưa	phóng	noãn:	Levonorgestrel	có	thể	
ức	chế	rụng	trứng	5-7	ngày,	trong	khoảng	thời	
gian	này	nếu	giao	hợp	thì	tinh	trùng	sẽ	không	
thụ	tinh	được.	Sự	ức	chế	này	phụ	thuộc	vào	
thời	gian,	tần	số	và	hàm	lượng	thuốc	đưa	vào	
cơ	thể.
	Khi	đã	phóng	noãn	hoặc	đã	thụ	tinh:	thuốc	
làm	giảm	nhu	động	của	ống	dẫn	trứng,	ngăn	
cản	sự	di	chuyển	của	trứng	và	tinh	trùng	làm	
cho	quá	trình	thụ	tinh	thất	bại.	Thuốc	còn	có	
tác	dụng	làm	thay	đổi	đặc	tính	chất	nhầy	cổ	
tử	cung,	cản	trở	sự	di	chuyển	của	tinh	trùng.	
Ngoài	ra,	thuốc	còn	có	tác	dụng	hạn	chế	sự	
phát	triển	của	nội	mạc	tử	cung,	gián	tiếp	ngăn	
37
THÔNG TIN CẬP NHẬT
cản	quá	trình	làm	tổ	của	trứng	đã	thụ	tinh.
Tính hiệu quả
Hiệu	 quả	 của	 thuốc	 viên	 TTKC	 thay	 đổi	
tùy	theo	thời	điểm	tương	đối	giữa	giao	hợp	
không	 an	 toàn	 và	 rụng	 trứng	 trong	 chu	 kỳ	
kinh	nguyệt.	Dù	sao	thì	khi	phôi	đã	làm	tổ	thì	
việc	sử	dụng	thuốc	ngừa	thai	khẩn	cấp	không	
hiệu	quả	và	vì	viên	thuốc	tránh	thai	khẩn	cấp	
không	có	tác	dụng	phá	thai.
	Tính	hiệu	quả	phụ	thuộc	vào	nhiều	yếu	tố:	
thời	gian,	loại	thuốc,	nồng	độ	thuốc,	độ	tuổi	
dùng	 thuốc,	BMI,	 tần	 số	giao	hợp,	 bệnh	 lý	
viêm	dạ	dày	ruột,	các	 thuốc	uống	cùng	gây	
ức	chế	tác	dụng	của	thuốc	(như	Phenyltoin,	
Phenobarbital,	Rifampicine)	và	thời	điểm	
uống	thuốc	so	với	ngày	rụng	trứng.4,21	
	Tỷ	lệ	thất	bại	của	thuốc	viên	TTKC	từ	0	–	
2,4%,	thay	đổi	theo	tuổi,	thất	bại	cao	gấp	3,1	
lần	ở	nhóm	tuổi	25	–	29	tuổi,	giảm	xuống	0,3	
lần	ở	nhóm	tuổi	trên	30.	Với	viên	Postinor-2	
nếu	dùng	viên	thứ	nhất	sau	giao	hợp	không	
bảo	vệ	trong	vòng	12	giờ	thì	tỷ	lệ	có	thai	là	
0,5%,	 trong	 khi	 sử	 dụng	 viên	 thứ	 nhất	 sau	
giao	hợp	60	–	72	giờ	thì	tỷ	lệ	có	thai	là	4%.4,18 
thuốc	viên	TTKC	còn	tỏ	ra	kém	hiệu	quả	hơn	
đối	với	phụ	nữ	béo	phì	với	BMI	>	30.
	Đối	với	thuốc	viên	TTKC	chứa	progestin	
liều	 cao	 tỷ	 lệ	 thành	 công	 được	 các	 nghiên	
cứu	ghi	 nhận	 từ	75%	 -	98%,17,20,26	 sự	 thành	
công	 phụ	 thuộc	 vào	 thời	 điểm	 dùng	 thuốc,	
uống	thuốc	càng	sớm	thì	ngừa	thai	càng	cao.	
Nếu	 uống	 viên	 đầu	 tiên	 trong	 vòng	 24	 giờ	
thì	hiệu	quả	là	95%,	nếu	uống	viên	thứ	nhất	
sau	 72	 giờ	 hiệu	 quả	 chỉ	 còn	 là	 54%.24	 Đối	
với	Mifepristone,	hiệu	quả	tránh	thai	từ	75%-
80%.	 Tỷ	 lệ	 dung	 nạp	 của	 Mifepristone	 là	
94%	còn	levonorgestrel	là	91%.	Mifepristone	
có	tác	dụng	phụ	ít	hơn	so	với	các	thuốc	tránh	
thai	khẩn	cấp	khác.10
	Về	lý	thuyết,	thuốc	viên	TTKC	không	hiệu	
quả	bằng	các	BPTT	chủ	động	sử	dụng	thường	
xuyên.	Do	vậy,	các	nghiên	cứu	luôn	khuyến	
cáo	 sau	 khi	 sử	 dụng	 thuốc	 viên	TTKC	nên	
tiếp	 tục	sử	dụng	các	biện	pháp	 rào	cản	cho	
đến	kỳ	kinh	sau.4,21
Tính an toàn
Các	nghiên	cứu	đều	ghi	nhận	thuốc	viên	tránh	
thai	kết	hợp	liều	thấp	dùng	để	tránh	thai	khẩn	
cấp	không	gây	dị	 dạng	hay	khuyết	 tật	 bẩm	
sinh	và	không	 làm	 tăng	nguy	cơ	 thai	ngoài	
tử	cung.4
Tác dụng phụ và tác dụng có hại của thuốc 
tránh thai khẩn cấp
Levonorgestrel 26
Ói	chỉ	xảy	 ra	1%.	Buồn	nôn	 thường	xuyên	
hơn	(14%).	Rối	loạn	kinh	nguyệt:	16%	rong	
huyết	 trong	vòng	7	 ngày	 sau	dùng	TTTKC	
levonorgestrel.	Khoảng	50%	phụ	nữ	có	kinh	
sớm	hơn	 hoặc	 trễ	 hơn	 vài	 ngày	 so	 với	 chu	
kỳ	bình	thường.	Do	đó	thuốc	viên	TTKC	chỉ	
có	progestin	thích	hợp	cho	những	phụ	nữ	có	
chống	chỉ	định	với	thuốc	viên	tránh	thai	phối	
hợp	như	bệnh	gan,	tiền	sử	thuyên	tắc	mạch.	
Không	có	bằng	chứng	làm	tăng	nguy	cơ	thai	
ngoài	 tử	 cung,	 không	 liên	 quan	 tới	 những	
biến	đổi	của	các	yếu	tố	đông	máu	hay	nguy	
cơ	quái	thai.14	Tác	dụng	phụ	khác	của	thuốc	
viên	 TTKC	 là	 nhức	 đầu,	 chóng	 mặt,	 căng	
ngực,	đau	bụng,	mệt	mỏi	Những	tác	dụng	
phụ	này	chỉ	xảy	ra	vài	ngày	sau	dùng	thuốc	
và	tồn	tại	trong	vòng	24	giờ.
Mifepristone
Tác	dụng	phụ	buồn	nôn	và	ói	tương	tự	như	
levonorgestrel.14
	 	 	Mifepristone	không	thấy	có	liên	quan	tới	
nguy	cơ	gây	quái	thai.	Nếu	uống	thuốc	trước	
rụng	 trứng	 có	 thể	 trì	 hoãn	 rụng	 trứng	 3-4	
ngày,	dẫn	đến	kéo	dài	chu	kì	kinh	nguyệt.	Do	
đó	dùng	mifepristone	thường	bị	trễ	kinh.14,15
Những nghiên cứu về thuốc viên 
TTKC tại Việt Nam:
Nghiên	cứu	của	tác	giả	Huỳnh	Nguyễn	Khánh	
38
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015
Trang	ở	81	phụ	nữ	nạo	phá	thai	lần	đầu	và	87	
phụ	nữ	có	thai	lần	đầu	tại	TP	HCM	năm	2001	
có	14%	dùng	thuốc	viên	TTKC.6
	Năm	2004,	Nguyễn	Thị	Phương	Dung	tiến	
hành	đánh	giá	kiến	thức,	thái	độ,	hành	vi	về	
các	BPTT	thông	qua	phỏng	vấn	382	phụ	nữ	
đến	phá	 thai	 lần	đầu	 tại	 bệnh	viện	Phụ	 sản	
Từ	Dũ,	ghi	nhận	17.5%	đã	từng	sử	dụng	và	
chỉ	 có	 6.5%	 có	 kiến	 thức	 đúng	 thuốc	 viên	
TTKC.7
	 Nghiên	 cứu	 của	 Trần	 Thị	 Thu	 Tuyết	 năm	
2006	trên	422	trường	hợp	đến	nạo	phá	thai	tại	
bệnh	viện	Đại	học	Y	Dược,	ghi	nhận	24,8%	
biết	 khi	 nào	 cần	 dùng	 thuốc	 viên	 TTKC,	
16,6%	biết	số	viên	cần	dùng,	chỉ	có	7,8%	biết	
thời	gian	tối	đa	thuốc	có	hiệu	quả,	11,8%	biết	
khoảng	cách	uống	viên	thứ	hai	là	12	giờ.	Tỷ	
lệ	kiến	thức	đúng	là	10,7%.12
	Nghiên	cứu	của	Đặng	Minh	Đức	năm	2012	
tại	các	trường	đại	học	ở	thành	phố	Cần	Thơ	
trên	1.194	nữ	sinh	viên	cho	thấy	chỉ	có	15%	
có	kiến	thức	đúng	về	thuốc	viên	TTKC.5
	Năm	2014,	Nguyễn	Thị	Thiên	Hương	thực	
hiện	nghiên	 cứu11	 trên	 216	phụ	nữ	 có	 thai	
ngoài	 ý	 muốn	 sau	 khi	 sử	 dụng	 thuốc	 viên	
TTKC	đến	bỏ	 thai	 tại	BV	Hùng	Vương,	đã	
ghi	nhận	ở	phụ	nữ	sử	dụng	thuốc	viên	TTKC	
loại	vỉ	1	viên	có	12,9%	người	có	kiến	 thức	
đúng,	và	có	đến	87,1%	người	sử	dụng	đúng.	
Trong	khi	ở	những	phụ	nữ	sử	dụng	thuốc	viên	
TTKC	 loại	vỉ	2	viên	chỉ	 có	3,2%	người	 có	
kiến	thức	đúng	và	cũng	chỉ	có	29,3%	người	
sử	dụng	đúng.	Số	phụ	nữ	sử	dụng	thuốc	viên	
TTKC	đúng	ở	nhóm	dùng	loại	vỉ	1	viên	cao	
hơn	hẳn	nhóm	dùng	loại	vỉ	2	viên	vì	họ	chỉ	
phải	uống	1	viên	duy	nhất,	không	cần	phải	
quan	tâm	đến	viên	thứ	hai	nên	rất	tiện	lợi.	
	Do	sự	thành	công	của	thuốc	viên	TTKC	phụ	
thuộc	vào	nhiều	yếu	tố	như	thời	điểm	dùng	
thuốc	 (uống	 thuốc	 càng	 sớm	 thì	 ngừa	 thai	
càng	cao.	Nếu	uống	viên	đầu	tiên	trong	vòng	
24	giờ	thì	hiệu	quả	là	95%,	nếu	uống	viên	thứ	
nhất	sau	72	giờ	hiệu	quả	chỉ	còn	là	54%)	và	
hiệu	quả	của	thuốc	cao	khi	uống	trước	ngày	
rụng	 trứng	 (nếu	 uống	 vào	 ngày	 rụng	 trứng	
hoặc	 sau	 đó	 thì	 tỉ	 lệ	 thất	 bại	 lên	 đến	 20%)	
do	đó	mặc	dù	 tỉ	 lệ	 thực	hành	đúng	khá	cao	
nhưng	họ	vẫn	có	thai	ngoài	ý	muốn.	
	Một	điều	đáng	quan	tâm	là	người	bán	thuốc	
giữ	vai	 trò	 rất	quan	 trọng	 trong	việc	 tư	vấn	
cho	khách	hàng	sử	dụng	thuốc	viên	TTKC	vì	
đa	số	nhận	thông	tin	từ	nhân	viên	tại	các	nhà	
thuốc	(49%).	Chỉ	có	6,5%	nhận	được	thông	
tin	từ	nhân	viên	y	tế.
Kết	luận
Khi	người	phụ	nữ	không	áp	dụng	đúng	cách	
hay	thất	bại	với	biện	pháp	tránh	thai	đang	sử	
dụng	hoặc	giao	hợp	không	được	bảo	vệ	 thì	
thuốc	viên	tránh	thai	khẩn	cấp	sẽ	là	một	biện	
pháp	cần	thiết,	tương	đối	an	toàn	và	hiệu	quả	
để	tránh	mang	thai	ngoài	ý	muốn	với	ưu	điểm	
kín	đáo	và	thuận	tiện.
	Do	 đặc	 điểm	dù	 sử	 dụng	 đúng	 thuốc	 viên	
TTKC	nhưng	người	phụ	nữ	vẫn	có	thai	ngoài	
ý	muốn	cho	 thấy	vấn	đề	quan	 trọng	 là	phải	
hiểu	thuốc	viên	TTKC	chỉ	là	biện	pháp	“chữa	
cháy”,	 không	 bảo	 vệ	 hoàn	 toàn	 trong	 việc	
tránh	 thai.	Muốn	đạt	kết	quả	 tránh	 thai	 cao	
thì	phải	dùng	biện	pháp	tránh	thai	có	tác	dụng	
bảo	vệ	thường	xuyên	mà	không	phải	là	“khẩn	
cấp”.
Tài liệu tham khảo
1. Belanger D và Khuất Thu Hồng (1996), Nạo phá 
thai ở các phụ nữ trẻ độc thân tại Hà Nội, Việt 
Nam”, Tạp chí dân số Châu Á – Thái Bình Dương. 
Tr.179 – 185.
2. Bộ y tế (2009), Biện pháp tránh thai khẩn cấp, 
Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe sinh sản, tr.261 – 309.
3. Bộ Y tế- Ủy ban Quốc gia Dân số Kế hoạch hóa 
gia đình (2001) ,”Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ 
em- Kế hoạch hóa gia đình”. tr.3,105-108.
4. Bộ Y tế (1996), Module 15 “Viên tránh thai khẩn 
cấp”.
5. Đặng Minh Đức, (2012), Kiến thức và thái độ về 
viên uống tránh thai khẩn cấp của sinh viên các 
trường Đại học tại thành phố Cần Thơ, Luận văn 
thạc sĩ, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, 
39
THÔNG TIN CẬP NHẬT
tr. 56-62.
6. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2001), Một số yếu tố 
liên quan đến nạo phá thai ở phụ nữ có thai lần đầu 
tại TPHCM, Tạp chí Y Tế Công Cộng, tr.38-44
7. Nguyễn Thị Phương Dung (2004), “Kiến thức, Thái 
độ, Thực hành về các phương pháp ngừa thai của 
những phụ nữ nạo phá thai tại bệnh viện Từ Dũ”. 
Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược Thành 
Phố Hồ Chí Minh
8. Nguyễn Thị Thanh Hà, (2013), “Ngừa thai khẩn 
cấp”, Những điều cần biết về ngừa thai khẩn cấp, 
Chương trình đào tạo liên tục lần 44, Đại học Y 
Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
9. Phạm Nga (2013). Khả năng đa dụng 
của Mifefriston, 
vn/20100412090720642p0c14/kha-nang-da-dung-
cua-Mifepriston.htm
10. Tô Mai Xuân Hồng, (2011), “Thuốc ngừa thai khẩn 
cấp”, Thực hành sản phụ khoa, Đại học Y Dược 
Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Y Học, tr. 
281-302.
11. Nguyễn thị Thiên Hương, Vũ thị Nhung (2015), 
Khảo sát kiến thức – thực hành về thuốc ngừa thai 
khẩn cấp ở phụ nữ có thai ngoài ý muốn đến phá 
thai tại Bệnh viện Hùng Vương, Tạp chí Y học TP 
Hồ Chí Minh Tập 19, phụ bản số 1, 2015. Tr 1-7
12. Trần Thị Thu Tuyết, (2006), Kiến thức, thái độ, hành 
vi về thuốc tránh thai khẩn cấp của các trường hợp 
phá thai tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố 
Hồ Chí Minh, Luận văn nội trú, Đại học Y Dược 
Thành Phố Hồ Chí Minh.
13. Tổng cục dân số và kế hoạch hoá gia đình (2012), 
Tỷ lệ sử dụng tránh thai- CPR (%), 2000-2011. 
Điều tra biến động dân số và KHHGĐ, 2000-2011, 
Niên giám thống kê Bộ Y Tế. 
14. Berek, J. S., Novak, E. (2012), “ Family Planning 
“, Berek & Novak’s gynecology, Wolters Kluwer 
Health/Lippincott Williams & Wilkins, Philadelphia, 
15th, pp. 243-255.
15. Bos-Thompson, M. A., Hillaire-Buys, D., Roux, C., 
Faillie, J. L., Amram, D. (2008), “Mobius syndrome 
in a neonate after mifepristone and misoprostol 
elective abortion failure”, Ann Pharmacother, 42(6), 
pp. 888-892.
16. Gemzell-Danielsson, K. (2010), “Mechanism of 
action of emergency contraception”, Contraception, 
82(5), pp. 404-409.
17. Ho PC, Kwan MS (1993), “A prospective 
randomized comparison of levonorgestrel with the 
Yuzpe regimen in post coital contraception”. Hum 
Reprod, p.389-392.
18. Irene Borten Krivine, Diane Winaver, người dịch 
Phan Kế Cường (2004), “Các BPNT khẩn cấp”. 
Tuổi vị thành niên, tình yêu và giới tính, Nxb. Phụ 
nữ Hà Nội, p.128-130
19. M. T. Hickey (2009), “Female college students’ 
knowledge, perceptions, and use of emergency 
contraception”. Journal of obstetric, gynecologic, 
and neonatal nursing : JOGNN / NAACOG, 38 (4), 
399-405.
20. Piaggio G, Von Hertzen H, Grimes DA, Van Look PF 
(1999) ,”Timing of emergency contraception with 
levonorgestrel or the Yuzpe regimen. Task Force 
on Postovulatory Methods of Fertility Regulation”. 
Lancet, p. 353,721.
21. Pathfinder International, “Emergency contraceptive 
pills (ECPs) service delivery guidelines”. 
22. Pramilla Senanayake and Malcolm Potts (1995),” 
An Allas of contraception”, p.11.
23. Regine Sitruk Ware (2004), “Progestogens and 
Contraception”. Gynaecology forum, vol.9, No.2, 
p.12.
24. Rodriques I, Grou F, Joly J (2001) “Effectiveness of 
emergency contraception pills between 72 and 120 
hours after unprotected sexual intercourse”. Am J 
Obstet Gynecol, 184:531-7.
25. World Health Organization (1996),” Improving 
Access to Quality Care in Family Planning: Medical 
Eligibility Criteria for Contraceptive Use”. IN 32 
(Ed.). Geneva: World Health Organization.
26. Williams (2010),” Contraception”, Williams 
Obtetrics 21st edition, p.692-694.

File đính kèm:

  • pdfnhung_dieu_can_biet_ve_thuoc_vien_tranh_thai_khan_cap.pdf