Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp
Ngày nay, tại Việt Nam, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ngày càng giảm đồng thời tỉ lệ phụ nữ sống độc thân có quan hệ tình dục ngày càng cao, cùng với sự thiếu kiến thức về các biện pháp tránh thai (BPTT) dẫn đến sự gia tăng đáng kể những thai kỳ ngoài ý muốn. Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai cao nhất Châu Á, và là một trong 5 nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, bình quân có khoảng một triệu trường hợp phá thai hàng năm,1 chiếm 52% số sanh sống. Tình trạng có thai ngoài ý muốn cao không chỉ vì các cặp vợ chồng không áp dụng BPTT nào mà còn do sử dụng các BPTT không đúng cách.
Theo thống kê của Tổng Cục Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia Đình, năm 2011, tỉ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các BPTT là 78% trong đó biện pháp tránh thai hiện đại gần 69%, nhưng tỉ lệ thất bại cũng nhiều gần 50%, các trường hợp phá thai cho biết có sử dụng biện pháp tránh thai vào thời điểm trước khi có thai
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp
35 THÔNG TIN CẬP NHẬT Những điều cần biết về thuốc viên tránh thai khẩn cấp Nguyễn Thị Thiên Hương* *BV. Hùng Vương. Email: [email protected]; DĐ: 0909001205 Ngày nay, tại Việt Nam, độ tuổi quan hệ tình dục lần đầu ngày càng giảm đồng thời tỉ lệ phụ nữ sống độc thân có quan hệ tình dục ngày càng cao, cùng với sự thiếu kiến thức về các biện pháp tránh thai (BPTT) dẫn đến sự gia tăng đáng kể những thai kỳ ngoài ý muốn. Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai cao nhất Châu Á, và là một trong 5 nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, bình quân có khoảng một triệu trường hợp phá thai hàng năm,1 chiếm 52% số sanh sống. Tình trạng có thai ngoài ý muốn cao không chỉ vì các cặp vợ chồng không áp dụng BPTT nào mà còn do sử dụng các BPTT không đúng cách. Theo thống kê của Tổng Cục Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia Đình, năm 2011, tỉ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các BPTT là 78% trong đó biện pháp tránh thai hiện đại gần 69%, nhưng tỉ lệ thất bại cũng nhiều gần 50%, các trường hợp phá thai cho biết có sử dụng biện pháp tránh thai vào thời điểm trước khi có thai.13 Những trường hợp không áp dụng đúng cách hay thất bại với biện pháp tránh thai đang sử dụng như thủng hay tuột bao cao su (BCS), quên uống thuốc viên tránh thai hằng ngày và uống bù không đúng cách, rơi dụng cụ tử cung (DCTC) hoặc giao hợp không được bảo vệ thì khi đó thuốc viên tránh thai khẩn cấp (TTKC) sẽ là một biện pháp cần thiết, tương đối an toàn và hiệu quả để tránh mang thai ngoài ý muốn. Sử dụng thuốc viên TTKC là phương pháp kín đáo, có hiệu quả, thuận tiện, đặc biệt là ở đối tượng phụ nữ không quan hệ tình dục thường xuyên, hoặc không áp dụng biện pháp tránh thai nào khi quan hệ tình dục nhưng đòi hỏi người sử dụng phải có những hiểu biết cơ bản về thuốc mình đang sử dụng, phải quan tâm và sử dụng đúng theo hướng dẫn thì sự kiểm soát sinh sản bằng thuốc viên TTKC mới có hiệu quả tốt và đảm bảo an toàn sức khỏe của người sử dụng. Thuốc viên tránh thai khẩn cấp Lịch sử biện pháp tránh thai khẩn cấp Cuối những năm 1920, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng khi sử dụng estrogen có nguồn gốc từ buồng trứng sẽ ảnh hưởng đến khả năng có thai của động vật có vú. Các bác sĩ thú y đã ứng dụng kết quả nghiên cứu này để tránh thai cho chó, ngựa và thu được kết quả khả quan.22 Năm 1974, phương pháp tránh thai khẩn cấp có tên “Yuzpe” được giới thiệu. Phương pháp này sử dụng chính viên thuốc tránh thai kết hợp liều thấp có sẵn, uống từ 3-7 viên cùng một lúc, tổng liều khoảng 100 µg ethinylestradiol + 0,75 mg levonorgestrel. Năm 1977, phương pháp này được cải tiến thông qua việc chia liều ban đầu thành hai liều nhỏ, uống cách nhau 12 giờ để giảm tác dụng phụ của ethinylestradiol (tổng liều vẫn giữ nguyên).26 Mifepristone được tìm ra năm 1980, bởi Giáo sư người Pháp Etienne - Emile Baulieu và khi nói đến Mifepristone, người ta hay nghĩ đến tác dụng gây sảy thai. Sau 12 năm kể từ khi ra đời ở Pháp, thuốc này mới được FDA cho phép lưu hành ở Mỹ.9 36 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Năm 1996, Tổ chức Y tế Thế giới chứng minh levonorgestrel an toàn và hiệu quả trong tránh thai khẩn cấp.25 Postinor 0,75mg là một thuốc ngừa thai khẩn cấp chứa levonorgestrel, có mặt trên thị trường Việt Nam từ năm 1992. Các loại thuốc viên tránh thai khẩn cấp Các BPTT thường dựa trên nguyên lý tác động ngược lại với sinh lý thụ thai, nhằm ức chế hoạt động của tinh trùng, ức chế phát triển nang noãn, ức chế phóng noãn, ức chế sự thụ tinh và cuối cùng là ức chế sự làm tổ của phôi. Các biện pháp này thường được áp dụng chủ động từ trước khi có quan hệ tình dục và đạt hiệu quả cao. Duy nhất tránh thai khẩn cấp được áp dụng sau giao hợp mà không có hoặc thất bại khi áp dụng một BPTT. Đây là một biện pháp tránh thai hoàn toàn thụ động và cho kết quả khác nhau tùy theo từng nghiên cứu.4 Phương pháp tránh thai khẩn cấp hiện đại được chia thành hai nhóm chính là:2,4 - Đặt dụng cụ tử cung khẩn cấp. - Thuốc uống. Thuốc uống được sử dụng nhiều hơn so với đặt DCTC do tính thuận tiện và kín đáo. Trong nhóm TTKC có ba phương pháp:2,3,4,8,18 - Thuốc viên tránh thai kết hợp liều thấp estrogen và progestin. - Thuốc viên chỉ có progestin. - Thuốc viên chứa mifepristone. Hàm lượng và cách sử dụng thuốc tránh thai khẩn cấp Thuốc tránh thai khẩn cấp là phương pháp sử dụng hormon để tránh thai sau giao hợp không bảo vệ. Do vậy, viên thuốc tránh thai khẩn cấp còn được gọi là “viên thuốc sau giao hợp” hoặc “viên thuốc sáng hôm sau”. Thuật ngữ “viên thuốc tránh thai khẩn cấp” được nhiều người chấp nhận nhất. Thuật ngữ này có ý nhắc nhở đây không phải là một phương pháp tránh thai chủ động, mà đây là phương pháp hoàn toàn bị động, tránh sự hiểu lầm là thuốc chỉ được sử dụng vào buổi sáng sau giao hợp.4,16 Thuốc tránh thai khẩn cấp chứa progestin có hai loại là: (1) Chỉ có progestin; (2) Phối hợp progestin và estradiol. * Thuốc viên TTKC chỉ có progestin: levonorgestrel có hoạt tính kháng hormon hướng sinh dục mạnh và thời gian bán hủy dài.23 Tại Việt Nam, chế phẩm này có tên Postinor, được sản xuất dưới hai dạng: - Vỉ một viên duy nhất (Postinor-1), hàm lượng 1,5mg levonorgestrel. Uống thuốc càng sớm càng tốt trong vòng 12 giờ sau giao hợp, và không quá 72 giờ sau giao hợp.4 - Vỉ hai viên (Postinor-2), mỗi viên chứa 0,75 mg levonorgestrel. Viên thứ nhất uống càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ sau giao hợp. Viên thứ hai uống sau viên thứ nhất 12 giờ.4 * Mifepristone 10mg là một dạng antiprogestin dùng 01 viên duy nhất trong vòng 120 giờ ngay sau giao hợp. Các thuốc viên TTKC không được dùng quá 2 lần trong một tháng, không sử dụng như một biện pháp tránh thai thường xuyên. Cơ chế tác dụng4,26 Khi chưa phóng noãn: Levonorgestrel có thể ức chế rụng trứng 5-7 ngày, trong khoảng thời gian này nếu giao hợp thì tinh trùng sẽ không thụ tinh được. Sự ức chế này phụ thuộc vào thời gian, tần số và hàm lượng thuốc đưa vào cơ thể. Khi đã phóng noãn hoặc đã thụ tinh: thuốc làm giảm nhu động của ống dẫn trứng, ngăn cản sự di chuyển của trứng và tinh trùng làm cho quá trình thụ tinh thất bại. Thuốc còn có tác dụng làm thay đổi đặc tính chất nhầy cổ tử cung, cản trở sự di chuyển của tinh trùng. Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng hạn chế sự phát triển của nội mạc tử cung, gián tiếp ngăn 37 THÔNG TIN CẬP NHẬT cản quá trình làm tổ của trứng đã thụ tinh. Tính hiệu quả Hiệu quả của thuốc viên TTKC thay đổi tùy theo thời điểm tương đối giữa giao hợp không an toàn và rụng trứng trong chu kỳ kinh nguyệt. Dù sao thì khi phôi đã làm tổ thì việc sử dụng thuốc ngừa thai khẩn cấp không hiệu quả và vì viên thuốc tránh thai khẩn cấp không có tác dụng phá thai. Tính hiệu quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời gian, loại thuốc, nồng độ thuốc, độ tuổi dùng thuốc, BMI, tần số giao hợp, bệnh lý viêm dạ dày ruột, các thuốc uống cùng gây ức chế tác dụng của thuốc (như Phenyltoin, Phenobarbital, Rifampicine) và thời điểm uống thuốc so với ngày rụng trứng.4,21 Tỷ lệ thất bại của thuốc viên TTKC từ 0 – 2,4%, thay đổi theo tuổi, thất bại cao gấp 3,1 lần ở nhóm tuổi 25 – 29 tuổi, giảm xuống 0,3 lần ở nhóm tuổi trên 30. Với viên Postinor-2 nếu dùng viên thứ nhất sau giao hợp không bảo vệ trong vòng 12 giờ thì tỷ lệ có thai là 0,5%, trong khi sử dụng viên thứ nhất sau giao hợp 60 – 72 giờ thì tỷ lệ có thai là 4%.4,18 thuốc viên TTKC còn tỏ ra kém hiệu quả hơn đối với phụ nữ béo phì với BMI > 30. Đối với thuốc viên TTKC chứa progestin liều cao tỷ lệ thành công được các nghiên cứu ghi nhận từ 75% - 98%,17,20,26 sự thành công phụ thuộc vào thời điểm dùng thuốc, uống thuốc càng sớm thì ngừa thai càng cao. Nếu uống viên đầu tiên trong vòng 24 giờ thì hiệu quả là 95%, nếu uống viên thứ nhất sau 72 giờ hiệu quả chỉ còn là 54%.24 Đối với Mifepristone, hiệu quả tránh thai từ 75%- 80%. Tỷ lệ dung nạp của Mifepristone là 94% còn levonorgestrel là 91%. Mifepristone có tác dụng phụ ít hơn so với các thuốc tránh thai khẩn cấp khác.10 Về lý thuyết, thuốc viên TTKC không hiệu quả bằng các BPTT chủ động sử dụng thường xuyên. Do vậy, các nghiên cứu luôn khuyến cáo sau khi sử dụng thuốc viên TTKC nên tiếp tục sử dụng các biện pháp rào cản cho đến kỳ kinh sau.4,21 Tính an toàn Các nghiên cứu đều ghi nhận thuốc viên tránh thai kết hợp liều thấp dùng để tránh thai khẩn cấp không gây dị dạng hay khuyết tật bẩm sinh và không làm tăng nguy cơ thai ngoài tử cung.4 Tác dụng phụ và tác dụng có hại của thuốc tránh thai khẩn cấp Levonorgestrel 26 Ói chỉ xảy ra 1%. Buồn nôn thường xuyên hơn (14%). Rối loạn kinh nguyệt: 16% rong huyết trong vòng 7 ngày sau dùng TTTKC levonorgestrel. Khoảng 50% phụ nữ có kinh sớm hơn hoặc trễ hơn vài ngày so với chu kỳ bình thường. Do đó thuốc viên TTKC chỉ có progestin thích hợp cho những phụ nữ có chống chỉ định với thuốc viên tránh thai phối hợp như bệnh gan, tiền sử thuyên tắc mạch. Không có bằng chứng làm tăng nguy cơ thai ngoài tử cung, không liên quan tới những biến đổi của các yếu tố đông máu hay nguy cơ quái thai.14 Tác dụng phụ khác của thuốc viên TTKC là nhức đầu, chóng mặt, căng ngực, đau bụng, mệt mỏi Những tác dụng phụ này chỉ xảy ra vài ngày sau dùng thuốc và tồn tại trong vòng 24 giờ. Mifepristone Tác dụng phụ buồn nôn và ói tương tự như levonorgestrel.14 Mifepristone không thấy có liên quan tới nguy cơ gây quái thai. Nếu uống thuốc trước rụng trứng có thể trì hoãn rụng trứng 3-4 ngày, dẫn đến kéo dài chu kì kinh nguyệt. Do đó dùng mifepristone thường bị trễ kinh.14,15 Những nghiên cứu về thuốc viên TTKC tại Việt Nam: Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Nguyễn Khánh 38 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Trang ở 81 phụ nữ nạo phá thai lần đầu và 87 phụ nữ có thai lần đầu tại TP HCM năm 2001 có 14% dùng thuốc viên TTKC.6 Năm 2004, Nguyễn Thị Phương Dung tiến hành đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi về các BPTT thông qua phỏng vấn 382 phụ nữ đến phá thai lần đầu tại bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, ghi nhận 17.5% đã từng sử dụng và chỉ có 6.5% có kiến thức đúng thuốc viên TTKC.7 Nghiên cứu của Trần Thị Thu Tuyết năm 2006 trên 422 trường hợp đến nạo phá thai tại bệnh viện Đại học Y Dược, ghi nhận 24,8% biết khi nào cần dùng thuốc viên TTKC, 16,6% biết số viên cần dùng, chỉ có 7,8% biết thời gian tối đa thuốc có hiệu quả, 11,8% biết khoảng cách uống viên thứ hai là 12 giờ. Tỷ lệ kiến thức đúng là 10,7%.12 Nghiên cứu của Đặng Minh Đức năm 2012 tại các trường đại học ở thành phố Cần Thơ trên 1.194 nữ sinh viên cho thấy chỉ có 15% có kiến thức đúng về thuốc viên TTKC.5 Năm 2014, Nguyễn Thị Thiên Hương thực hiện nghiên cứu11 trên 216 phụ nữ có thai ngoài ý muốn sau khi sử dụng thuốc viên TTKC đến bỏ thai tại BV Hùng Vương, đã ghi nhận ở phụ nữ sử dụng thuốc viên TTKC loại vỉ 1 viên có 12,9% người có kiến thức đúng, và có đến 87,1% người sử dụng đúng. Trong khi ở những phụ nữ sử dụng thuốc viên TTKC loại vỉ 2 viên chỉ có 3,2% người có kiến thức đúng và cũng chỉ có 29,3% người sử dụng đúng. Số phụ nữ sử dụng thuốc viên TTKC đúng ở nhóm dùng loại vỉ 1 viên cao hơn hẳn nhóm dùng loại vỉ 2 viên vì họ chỉ phải uống 1 viên duy nhất, không cần phải quan tâm đến viên thứ hai nên rất tiện lợi. Do sự thành công của thuốc viên TTKC phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời điểm dùng thuốc (uống thuốc càng sớm thì ngừa thai càng cao. Nếu uống viên đầu tiên trong vòng 24 giờ thì hiệu quả là 95%, nếu uống viên thứ nhất sau 72 giờ hiệu quả chỉ còn là 54%) và hiệu quả của thuốc cao khi uống trước ngày rụng trứng (nếu uống vào ngày rụng trứng hoặc sau đó thì tỉ lệ thất bại lên đến 20%) do đó mặc dù tỉ lệ thực hành đúng khá cao nhưng họ vẫn có thai ngoài ý muốn. Một điều đáng quan tâm là người bán thuốc giữ vai trò rất quan trọng trong việc tư vấn cho khách hàng sử dụng thuốc viên TTKC vì đa số nhận thông tin từ nhân viên tại các nhà thuốc (49%). Chỉ có 6,5% nhận được thông tin từ nhân viên y tế. Kết luận Khi người phụ nữ không áp dụng đúng cách hay thất bại với biện pháp tránh thai đang sử dụng hoặc giao hợp không được bảo vệ thì thuốc viên tránh thai khẩn cấp sẽ là một biện pháp cần thiết, tương đối an toàn và hiệu quả để tránh mang thai ngoài ý muốn với ưu điểm kín đáo và thuận tiện. Do đặc điểm dù sử dụng đúng thuốc viên TTKC nhưng người phụ nữ vẫn có thai ngoài ý muốn cho thấy vấn đề quan trọng là phải hiểu thuốc viên TTKC chỉ là biện pháp “chữa cháy”, không bảo vệ hoàn toàn trong việc tránh thai. Muốn đạt kết quả tránh thai cao thì phải dùng biện pháp tránh thai có tác dụng bảo vệ thường xuyên mà không phải là “khẩn cấp”. Tài liệu tham khảo 1. Belanger D và Khuất Thu Hồng (1996), Nạo phá thai ở các phụ nữ trẻ độc thân tại Hà Nội, Việt Nam”, Tạp chí dân số Châu Á – Thái Bình Dương. Tr.179 – 185. 2. Bộ y tế (2009), Biện pháp tránh thai khẩn cấp, Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tr.261 – 309. 3. Bộ Y tế- Ủy ban Quốc gia Dân số Kế hoạch hóa gia đình (2001) ,”Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em- Kế hoạch hóa gia đình”. tr.3,105-108. 4. Bộ Y tế (1996), Module 15 “Viên tránh thai khẩn cấp”. 5. Đặng Minh Đức, (2012), Kiến thức và thái độ về viên uống tránh thai khẩn cấp của sinh viên các trường Đại học tại thành phố Cần Thơ, Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, 39 THÔNG TIN CẬP NHẬT tr. 56-62. 6. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2001), Một số yếu tố liên quan đến nạo phá thai ở phụ nữ có thai lần đầu tại TPHCM, Tạp chí Y Tế Công Cộng, tr.38-44 7. Nguyễn Thị Phương Dung (2004), “Kiến thức, Thái độ, Thực hành về các phương pháp ngừa thai của những phụ nữ nạo phá thai tại bệnh viện Từ Dũ”. Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh 8. Nguyễn Thị Thanh Hà, (2013), “Ngừa thai khẩn cấp”, Những điều cần biết về ngừa thai khẩn cấp, Chương trình đào tạo liên tục lần 44, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 9. Phạm Nga (2013). Khả năng đa dụng của Mifefriston, vn/20100412090720642p0c14/kha-nang-da-dung- cua-Mifepriston.htm 10. Tô Mai Xuân Hồng, (2011), “Thuốc ngừa thai khẩn cấp”, Thực hành sản phụ khoa, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Y Học, tr. 281-302. 11. Nguyễn thị Thiên Hương, Vũ thị Nhung (2015), Khảo sát kiến thức – thực hành về thuốc ngừa thai khẩn cấp ở phụ nữ có thai ngoài ý muốn đến phá thai tại Bệnh viện Hùng Vương, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh Tập 19, phụ bản số 1, 2015. Tr 1-7 12. Trần Thị Thu Tuyết, (2006), Kiến thức, thái độ, hành vi về thuốc tránh thai khẩn cấp của các trường hợp phá thai tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Luận văn nội trú, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 13. Tổng cục dân số và kế hoạch hoá gia đình (2012), Tỷ lệ sử dụng tránh thai- CPR (%), 2000-2011. Điều tra biến động dân số và KHHGĐ, 2000-2011, Niên giám thống kê Bộ Y Tế. 14. Berek, J. S., Novak, E. (2012), “ Family Planning “, Berek & Novak’s gynecology, Wolters Kluwer Health/Lippincott Williams & Wilkins, Philadelphia, 15th, pp. 243-255. 15. Bos-Thompson, M. A., Hillaire-Buys, D., Roux, C., Faillie, J. L., Amram, D. (2008), “Mobius syndrome in a neonate after mifepristone and misoprostol elective abortion failure”, Ann Pharmacother, 42(6), pp. 888-892. 16. Gemzell-Danielsson, K. (2010), “Mechanism of action of emergency contraception”, Contraception, 82(5), pp. 404-409. 17. Ho PC, Kwan MS (1993), “A prospective randomized comparison of levonorgestrel with the Yuzpe regimen in post coital contraception”. Hum Reprod, p.389-392. 18. Irene Borten Krivine, Diane Winaver, người dịch Phan Kế Cường (2004), “Các BPNT khẩn cấp”. Tuổi vị thành niên, tình yêu và giới tính, Nxb. Phụ nữ Hà Nội, p.128-130 19. M. T. Hickey (2009), “Female college students’ knowledge, perceptions, and use of emergency contraception”. Journal of obstetric, gynecologic, and neonatal nursing : JOGNN / NAACOG, 38 (4), 399-405. 20. Piaggio G, Von Hertzen H, Grimes DA, Van Look PF (1999) ,”Timing of emergency contraception with levonorgestrel or the Yuzpe regimen. Task Force on Postovulatory Methods of Fertility Regulation”. Lancet, p. 353,721. 21. Pathfinder International, “Emergency contraceptive pills (ECPs) service delivery guidelines”. 22. Pramilla Senanayake and Malcolm Potts (1995),” An Allas of contraception”, p.11. 23. Regine Sitruk Ware (2004), “Progestogens and Contraception”. Gynaecology forum, vol.9, No.2, p.12. 24. Rodriques I, Grou F, Joly J (2001) “Effectiveness of emergency contraception pills between 72 and 120 hours after unprotected sexual intercourse”. Am J Obstet Gynecol, 184:531-7. 25. World Health Organization (1996),” Improving Access to Quality Care in Family Planning: Medical Eligibility Criteria for Contraceptive Use”. IN 32 (Ed.). Geneva: World Health Organization. 26. Williams (2010),” Contraception”, Williams Obtetrics 21st edition, p.692-694.
File đính kèm:
nhung_dieu_can_biet_ve_thuoc_vien_tranh_thai_khan_cap.pdf

