Những điều cần biết về cơ chế đau và thuốc giảm đau

Đau là cảm giác tạo ra bởi hệ thống thần kinh khi có tác động tại các thụ thể nhận cảm giác đau. Cảm giác đau thường xuất hiện khi có sự tổn thương tại các tổ chức mô của cơ thể, là dấu hiệu của bệnh tật khiến người ta phải tìm nguyên nhân để chữa trị.1 Nhờ biết đau mà sinh vật phản ứng tránh không để bị chấn thương. Thí dụ khi dầu sôi bắn vào tay thì người ta phải rút tay lại vì đau và cũng để tránh bị tiếp tục phỏng dầu. Cần phân biệt đau do cảm thụ thần kinh, thường xảy ra do tổn thương thể chất (vết cắt, xương gãy, viêm nhiễm) và đau do tổn thương dây thần kinh ngoại vi hay thần kinh trung ương (bệnh nhân thường thấy tê, mất cảm giác, châm chích.)

pdf 5 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Những điều cần biết về cơ chế đau và thuốc giảm đau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điều cần biết về cơ chế đau và thuốc giảm đau

Những điều cần biết về cơ chế đau và thuốc giảm đau
53
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Những điều cần biết về cơ chế đau 
và thuốc giảm đau 
Vũ Thị Nhung* 
Đau là cảm giác tạo ra bởi hệ thống thần 
kinh khi có tác động tại các thụ thể nhận 
cảm giác đau. Cảm giác đau thường xuất 
hiện khi có sự tổn thương tại các tổ chức 
mô của cơ thể, là dấu hiệu của bệnh tật 
khiến người ta phải tìm nguyên nhân để 
chữa trị.1 Nhờ biết đau mà sinh vật phản 
ứng tránh không để bị chấn thương. Thí dụ 
khi dầu sôi bắn vào tay thì người ta phải 
rút tay lại vì đau và cũng để tránh bị tiếp 
tục phỏng dầu. Cần phân biệt đau do cảm 
thụ thần kinh, thường xảy ra do tổn thương 
thể chất (vết cắt, xương gãy, viêm nhiễm) 
và đau do tổn thương dây thần kinh ngoại 
vi hay thần kinh trung ương (bệnh nhân 
thường thấy tê, mất cảm giác, châm 
chích..).3 
Các cơ sở của cảm giác đau 
Cơ sở sinh học: Đau là kết quả của một 
quá trình sinh lý phức tạp gồm nhiều sự 
kiện và có sự tham gia của nhiều yếu tố. 
- Thụ thể nhận cảm giác đau từ 
những tác nhân cơ học (đánh đập), hóa học 
(acid), nhiệt (lửa), áp lực (đè ép). 
- Các chất trung gian hoá học: tế 
bào bị các tác nhân tác động vào sẽ giải 
phóng các chất trung gian hóa học như các 
kinin (bradykinin, serotonin, histamin), 
một số prostaglandin. Những chất này tác 
động lên các thụ thể cảm đau gây ra các 
cảm giác đau. 
- Sự dẫn truyền cảm giác đau từ 
ngoại vi vào tủy sống: Các sợi thần kinh 
dẫn truyền cảm giác (hướng tâm) gồm các 
loại có kích thước và tốc độ dẫn truyền 
khác nhau: dẫn truyền cảm giác đau, nhiệt, 
xúc giác thô, xúc giác tinh. 
__________________________________________________________
*Bv.Hùng Vương, DĐ:0903383005 
Email: [email protected] 
 Sự dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại vi 
vào tủy sống: do thân tế bào neuron 
thứ nhất ở hạch gai rễ sau đảm nhiệm. 
 Sợi A-alpha và A-beta: to, có bao 
myelin, tốc độ dẫn truyền nhanh (sợi 
A-alpha: 80-120 m/s, A-beta35-75 
m/s), chủ yếu dẫn truyền cảm giác bản 
thể (sâu, tinh vi). 
 Sợi A-delta và sợi C: nhỏ, chủ yếu dẫn 
truyền cảm giác đau, nhiệt, xúc giác 
thô sơ. A-delta có bao myelin mỏng 
nên dẫn truyền cảm giác đau nhanh 
hơn sợi C. (A-delta: 5-35m/s, C; 0.5-
2m/s). 
 Các cảm giác được dẫn truyền từ tủy 
sống lên não. Trung tâm nhận cảm 
giác đau trung ương và phân tích nằm 
ở đồi thị (hình 1). 
 Ngưỡng đau là cường độ kích thích 
nhỏ nhất có thể gây ra được cảm giác 
đau. Một cường độ kích thích mạnh sẽ 
gây ra cảm giác đau sau một thời gian 
ngắn (1 giây), nhưng cường độ kích 
thích nhẹ đòi hỏi thời gian dài hơn (vài 
giây) mới gây được cảm giác đau. 
Cơ sở tâm lý 
 Yếu tố cảm xúc: Cảm xúc có tác dụng 
trực tiếp lên cảm giác đau làm đau có 
thể tăng lên hay giảm đi. Nếu cảm xúc 
vui vẻ, thoải mái có thể làm đau giảm 
đi, ngược lại nếu cảm xúc khó chịu, 
bực dọc, buồn chán... có thể làm đau 
tăng thêm. 
 Yếu tố nhận thức: Nhận thức đóng vai 
trò quan trọng ảnh hưởng lên quá trình 
tiếp nhận cảm giác nói chung và cảm 
giác đau nói riêng. Cùng một tổn 
thương giống nhau nhưng biểu hiện 
tích cực trong nhận thức giúp ít thấy 
54
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
đau hơn so với người có biểu hiện 
nhận thức tiêu cực. 
 Yếu tố hành vi thái độ: Bao gồm toàn 
bộ những biểu hiện bằng lời nói và 
không bằng lời nói có thể quan sát 
được ở bệnh nhân đau như than phiền, 
điệu bộ, tư thế giúp giảm đau, mất khả 
năng duy trì hành vi bình thường. 
Hình 1. Cơ chế đau. 
Các giai đoạn của cảm giác đau 
 Sự chuyển biến kích thích thành tín 
hiệu điện làm khử cực màng tế bào và 
tạo nên hoạt động điện. (mô tổn 
thương giải phóng prostaglandin, 
bradykinin, serotonin tác động lên thụ 
thể đau). 
 Sự truyền tải: truyền điện thế động từ 
ngoại biên đến sừng sau tủy sống. 
 Sự chuyển giao: chất dẫn truyền thần 
kinh ( chất P, Glutamate, aspartate) 
được giải phóng từ đầu tận trung tâm 
thụ cảm đau đến synapse ở giữa thụ 
cảm và neuron sừng sau tủy, kích hoạt 
chúng. 
 Sự nhận biết: tín hiệu được gửi từ tủy 
sống lên não, sau đó chúng gửi tín hiệu 
phản hồi về tủy sống hoặc là ức chế 
hoặc là hỗ trợ tín hiệu đau. 
 4 quá trình trên đều rất quan trọng,ở 
mỗi bước chúng đều hiện diện quá 
trình điều biến ức chế/hỗ trợ , thậm chí 
ngăn chặn hoàn toàn trong một số 
trường hợp. 
Phân loại đau 
 Đau do cảm thụ thần kinh (nociceptive 
pain) 4:: cơ chế thường gặp nhất trong 
phần lớn các chứng đau cấp tính (chấn 
thương, nhiễm trùng). Đau thuộc loại 
này thường nhạy cảm với các thuốc 
giảm đau ngoại vi hay trung ương và 
các phương pháp phong bế vô cảm. 
 Đau do nguyên nhân thần kinh 
(neuropathic pain).,3,4 Tính chất đặc 
biệt của các hiện tượng đau là do yếu 
tố giao cảm bị lôi cuốn vào quá trình 
bệnh lý (đau giao cảm). Trên thực tế, 
tính phức tạp của cơ chế là vừa trung 
ương, vừa ngoại vi, nên người ta 
thường dùng thuật ngữ đau do nguyên 
nhân thần kinh (neuropathic) hay đau 
do bệnh lý thần kinh. 
 Đau do căn nguyên tâm lý 
(psychogenic pain).,5,6 Đau chỉ mất khi 
người bệnh tập trung chú ý một vấn đề 
gì đó, thuốc chống đau không có tác 
dụng với loại đau này. Thường gặp 
trong các trường hợp như: bệnh 
hysteri, bệnh rối loạn cảm xúc, tự kỷ 
ám thị về bệnh tật, bệnh tâm thần phân 
liệt... Khi phát hiện ra những trường 
hợp đau do căn nguyên tâm lý, cần gửi 
bệnh nhân đến với các thầy thuốc 
chuyên khoa tâm lý hay tâm thần để 
điều trị. 
Phân loại đau theo thời gian và tính chất 
đau: 
 Đau cấp tính : Đau sau phẫu thuật, sau 
chấn thương, sau bỏng, do sanh đẻ. 
 Đau mạn tính: đau dai dẳng tái đi tái 
lại nhiều lần làm cho bệnh nhân lo lắng 
và mất niềm tin và làm cho bệnh tình 
ngày càng trầm trọng hơn. 
Khi có một kích thích đau đột ngột, sẽ tạo 
ra đồng thời hai tín hiệu: cảm giác đau 
nhanh cấp tính dẫn đến não trong sợi thần 
kinh Aα và cảm giác đau chậm mạn tính 
sẽ truyền theo sợi C chậm sau vài giây. 
55
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Thuốc giảm đau 
Phân loại 
Thuốc giảm đau hiện tại được Tổ chức Y 
tế Thế giới phân loại thành ba nhóm dựa 
trên tác dụng dược lý và hiệu quả điều trị: 
1. Thuốc giảm đau nhóm I: trước đây gọi 
là thuốc giảm đau ngoại biên, gồm các 
loại thuốc không opioid như 
paracetamol, acid acetylsalicylic 
(aspirin) và thuốc chống viêm không 
steroid (gọi tắt là các NSAID) như 
ibuprofen ở liều giảm đau. Các thuốc 
nhóm này thường được dùng để điều trị 
cơn đau nhẹ đến trung bình. 
2. Thuốc giảm đau nhóm II: gồm các 
thuốc opioid yếu như codein và 
tramadol, thích hợp điều trị các cơn 
đau cường độ trung bình. Thuốc 
thường được bán trên thị trường kết 
hợp với một thuốc giảm đau ngoại 
biên. 
3. Thuốc giảm đau nhóm III: gồm các 
thuốc opioid mạnh như morphin, điều 
trị các cơn đau nghiêm trọng, dữ dội 
và/hoặc không có đáp ứng với các 
thuốc giảm đau nhóm I và nhóm II. 
Thuốc kháng viêm không steroid(non-
steroidal anti-inflammatory drug = 
NSAID) là loại thuốc thường được sử 
dụng, có tác dụng hạ sốt, giảm đau, chống 
viêm không có cấu trúc STEROIDS. Là 
thuốc giảm đau, nhưng khác với các 
thuốc OPIAT, NSAIDs là thuốc giảm đau 
ngoại vi và không có tác dụng gây nghiện. 
Tùy theo tác động của thuốc trên COX, 
các thuốc kháng viêm NSAID được chia 
làm 2 loại: 
Thuốc tác động không chọn lọc trên COX 
(Ibuprofen, ketoprofen, piroxicam, 
naproxen, diclofenac). Các thuốc này 
tác động ức chế COX-1, nên khi sử dụng 
trong một thời gian dài thường gây ra tác 
dụng phụ trên hệ tiêu hóa (gây viêm loét 
và xuất huyết dạ dày-tá tràng). 
Thuốc tác động ức chế chọn lọc trên 
COX2 (Meloxicam, celecoxib). Các 
thuốc này ít gây tác dụng phụ trên hệ tiêu 
hóa so với các thuốc tác động không chọn 
lọc trên COX. 
Cơ chế tác dụng: 
Thuốc có tác dụng ức chế sinh tổng 
hợp Prostagladin (PG) do ức chế men 
cyclo-oxygenase (COX) làm giảm tổng 
hợp PG (hình 2). 
Hình 2. Cơ chế tác dụng NSAIDs.2 
Đến những năm 1991, các nhà khoa học 
tìm thấy có mặt của hai chất đồng dạng 
COX-1 và COX-2. COX-2 hầu như không 
có mặt trong các tổ chức bình thường, mà 
được tạo ra do cảm ứng, chủ yếu tại các tổ 
chức viêm. Nếu COX-2 bị ức chế sẽ kiểm 
soát được quá trình viêm mà không ảnh 
hưởng tới các chức năng khác của cơ thể. 
Năm 2002 Simmons còn khám phá ra 
COX-3. Người ta thấy rằng sự an toàn của 
thuốc kháng viêm phụ thuộc vào khả năng 
ức chế chuyên biệt, ức chế chọn lọc hay 
không ức chế chọn lọc men COX-2. Trên 
thực tế không có thuốc kháng viêm nào 
hoàn toàn chỉ ức chế COX-2, nên vẫn có 
tác dụng không mong muốn. 
Công dụng: 
Hạ sốt 
 Thuốc làm tăng quá trình thải nhiệt 
như: giãn mạch da, tăng tiết mồ hôi, và 
không tác dụng trên quá trình sinh 
nhiệt. 
56
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
 Khi vi khuẩn, nấm, độc tố...(gọi chung 
là chất gây sốt ngoại lai) xâm nhập vào 
cơ thể sẽ kích thích bạch cầu sản xuất 
các chất gây sốt nội tại. Chất này hoạt 
hóa men cylo-oxygenase (COX), làm 
tổng hợp PG (nhất là PG E1 và E2) từ 
acid arachidonic của vùng dưới đồi. 
Thuốc hạ sốt do ức chế COX làm giảm 
tổng hợp PG do đó làm giảm quá trình 
gây sốt nên có tác dụng hạ sốt. Thuốc 
không tác động lên nguyên nhân gây 
sốt nên chỉ có tác dụng điều trị triệu 
chứng. 
Chống viêm 
 Thuốc còn làm bền vững màng 
lysosom do đó hạn chế giải phóng 
các enzyme của lysosom trong quá 
trình thực bào, nên có tác dụng chống 
viêm. 
 Ngoài ra thuốc còn ức chế các chất 
trung gian hóa học của quá trình viêm 
như các kinin huyết tương, ức chế cơ 
chất của enzyme, ức chế sự di chuyển 
của bạch cầu, ức chế phản ứng kháng 
nguyên - kháng thể. 
 Tác dụng chống viêm của các thuốc 
khác nhau, lấy aspinrin làm chuẩn 
thì Voltaren, Flurbiprofen, 
Indomethacin có tác dụng chống viêm 
mạnh gấp 10 lần, 
Giảm đau 
 Thuốc tác dụng lên các cơn đau nông 
nhẹ, khu trú hoặc lan tỏa như đau đầu, 
đau cơ, đau răng, đau khớp. Đặc biệt 
có tác dụng tốt đối với đau do viêm. 
Không có tác dụng lên các trường hợp 
đau nội tạng như morphine. Tác dụng 
giảm đau của thuốc NSAIDs liên quan 
mật thiết với tác dụng chống viêm. 
 Tác dụng giảm đau của các 
thuốc Voltaren, Flurbiprofen, 
Indomethacin mạnh gấp 6-31 lần so 
với Aspirin. 
Chỉ định: 
Nhóm thuốc NSAID là nhóm thuốc rất 
thông dụng trong điều trị kháng viêm, 
giảm đau ở các bệnh lý viêm xương khớp, 
đau lưng, đau răng, đau bụng kinh, đau sau 
phẫu thuật. 
Chống chỉ định: 
- Phụ nữ có thai. Riêng đối với trường hợp 
cho con bú thì có thể dùng thuốc vì hầu hết 
NSAID được tiết qua sữa với liều rất thấp. 
7,8,9 
- Người bị suy gan, suy thận nặng. 
- Người bị hen phế quản, có tiền sử dị ứng 
với các thuốc NSAID. 
- Người có tiền sử viêm loét dạ dày-tá 
tràng hay xuất huyết tiêu hóa. 
Nguyên tắc điều trị 2 
Các tác dụng phụ xảy ra do ức chế tổng 
hợp PG nên khi dùng thuốc cần lưu ý 
những tác dụng không mong muốn như: 
 Rối loạn dạ dày - ruột : Niêm mạc dạ 
dày ruột sản xuất ra PG (đặc biệt 
là PG E2), có tác dụng làm tăng tạo 
chất nhày và có thể kích thích phân 
bào để thay thế các tế bào bị phá hủy. 
Như vậy, vai trò của PGE là để bảo vệ 
niêm mạc đường tiêu hóa. Thuốc 
NSAID với mức độ khác nhau ức chế 
COX làm giảm tổng hợp PG, tạo điều 
kiện cho HCl và pepsin của dịch vị gây 
tổn thương cho niêm mạc khi hàng rào 
bảo vệ bị suy yếu. Vì vậy phải uống 
thuốc vào lúc no và không dùng thuốc 
cho những người có tiền sử loét dạ dày 
hành tá tràng. 
 Nếu dùng liều cao để tấn công chỉ 
dùng kéo dài 5-7 ngày. 
 Chú ý khi phối hợp thuốc: Không dùng 
phối hợp các thuốc NSAID với nhau vì 
làm tăng độc tính của nhau. 
 Thuốc làm giảm lưu lượng máu nuôi 
thận, giảm mức lọc cầu thận, giải 
phóng các renin, ảnh hưởng tới việc di 
chuyển ion và trao đổi nước, gây nên 
các rối loạn chức năng tiểu cầu thận, 
viêm thận mô kẽ, hoại tử nhú thận, suy 
thận cấp và tăng kali máu. Vì vậy, 
không dùng cho người viêm thận, suy 
thận . 
57
THÔNG TIN CẬP NHẬT
 Làm kéo dài thời gian chảy máu, có 
thể gây ra hiện tượng xuất huyết dưới 
da do ức chế ngưng kết tiểu cầu. 
 Dễ gây quái thai ở 3 tháng đầu, ở 3 
tháng cuối có thể làm tăng thời gian 
mang thai vì ức chế PGE, PGF (là chất 
gây tăng co bóp tử cung), đồng thời có 
thể ảnh hưởng chức phận của thai nhất 
là tuần hoàn và hô hấp. 
 Trên hệ thần kinh: có thể gây ù tai, 
điếc thoáng qua, say thuốc. 
 Ngoài ra thuốc có thể gây dị ứng, gây 
cơn hen giả vì thuốc ức chế cyclo-
oxygenase nên làm tăng các chất 
chuyển hóa theo đường lipooxygenase 
(tăng leucotrien). 
 Rối loạn chức năng gan, rối loạn về 
máu theo kiểu nhiễm độc tế bào (mất 
bạch cầu hạt). Thậm chí có thể gây suy 
tủy. Do đó, không dùng cho người suy 
gan, bệnh về máu. 
 Trên hệ tim mạch: các thuốc ức chế 
COX-2 với liều cao, kéo dài có nguy 
cơ gây nhồi máu cơ tim. 
 Các thuốc NSAID có thể làm giảm tác 
dụng một số thuốc do làm tăng hoặc 
đối kháng nơi tác dụng như: 
meprobamat, androgen, lợi niệu 
furosemid. 
Đường dùng thuốc : 
Ngoài những loại dùng đường uống, 
đường tiêm còn có loại đặt trực tràng có 
đặc điểm là ở nhiệt độ thường thì thuốc là 
viên rắn, khi đặt vào trực tràng thì chảy 
lỏng hoặc hòa tan trong niêm dịch, giải 
phóng hoạt chất, nhằm gây tác dụng tại 
chỗ hoặc toàn thân. 
Thuốc đặt có ưu điểm là khoảng 50-70% 
dược chất được chuyển vào hệ tuần hoàn 
mà không phải qua gan, nên không bị gan 
phân hủy trước khi gây tác dụng. Hình 
thức này thích hợp để điều chế những 
dược chất có mùi vị khó chịu, dễ gây nôn 
mửa khi uống, dược chất dễ bị phân hủy 
bởi dịch dạ dày hoặc dược chất bị chuyển 
hóa nhanh ở gan, thích hợp với người bệnh 
là phụ nữ có thai dễ nôn mửa khi uống, trẻ 
em sợ thuốc, người đang hôn mê , sau 
phẫu thuật chưa ăn uống được. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt 
“Đau” 
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt 
“Thuốc chống viêm không Steroid” 
3. WebMD Scientific American Medicine 
4. Medscape Neurology. “Improving Outcomes in 
Acute Pain Management: Optimizing Patient 
Selection: Neuropathic and Nociceptive Pain” 
2004;6(2) © 2004 Medscape 
5. Medline Plus Medical Encyclopedia Stephen 
Tyrer, Psychosomatic pain, The British Journal 
of Psychiatry (2006) 188: 91-93 
6. Stephen Tyrer, Psychosomatic pain, The 
British Journal of Psychiatry (2006) 188: 91-93 
7. Østensen M: Safety of non-steroidal anti-
inflammatory drugs during pregnancy and 
lactation. lammopharmacology 1996,4:31-41. 
8. Spigset O, Hägg S: Analgesics and breast-
feeding. Safetyconsiderations. Paediatr Drugs 
2000, 2:223-238. 
9. Committee on Drugs. American Academy of 
Pediatrics: The transfer of drugs and other 
chemicals into human milk. Pediatrics 2001, 
108:776-789. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_dieu_can_biet_ve_co_che_dau_va_thuoc_giam_dau.pdf