Nhu cầu và khả năng chi trả dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa của bà mẹ tại Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2019

Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 269 bà mẹ có con đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bắc

Thăng Long nhằm khảo sát nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa. Nghiên cứu

cho thấy phần lớn các bà mẹ chưa được tư vấn dinh dưỡng nhi, 79,3% bà mẹ có nhu cầu được tư vấn dinh

dưỡng cho con, trên 70% bà mẹ có nhu cầu được tư vấn dinh dưỡng nhi theo hình thức cá nhân tại phòng

khám dinh dưỡng, 66,5% sẵn sàng chi trả ngoài bảo hiểm với mức giá 100 000 đồng cho dịch vụ này. Vì

vậy, có thể triển khai phòng tư vấn dinh dưỡng dịch vụ tại cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người bệnh.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu và khả năng chi trả dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa của bà mẹ tại Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu và khả năng chi trả dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa của bà mẹ tại Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2019

Nhu cầu và khả năng chi trả dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa của bà mẹ tại Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020326
NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG CHI TRẢ 
DỊCH VỤ TƯ VẤN DINH DƯỠNG NHI KHOA CỦA BÀ MẸ 
TẠI BỆNH VIỆN BẮC THĂNG LONG NĂM 2019
Nguyễn Thị Thanh Luyến1 và Phạm Thị Diệp2, 
¹Bệnh viện Bắc Thăng Long
 ²Trường Đại học Thăng Long
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 269 bà mẹ có con đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Bắc 
Thăng Long nhằm khảo sát nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi khoa. Nghiên cứu 
cho thấy phần lớn các bà mẹ chưa được tư vấn dinh dưỡng nhi, 79,3% bà mẹ có nhu cầu được tư vấn dinh 
dưỡng cho con, trên 70% bà mẹ có nhu cầu được tư vấn dinh dưỡng nhi theo hình thức cá nhân tại phòng 
khám dinh dưỡng, 66,5% sẵn sàng chi trả ngoài bảo hiểm với mức giá 100 000 đồng cho dịch vụ này. Vì 
vậy, có thể triển khai phòng tư vấn dinh dưỡng dịch vụ tại cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người bệnh. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Tư vấn dinh dưỡng nhi, khả năng chi trả, bệnh viện Bắc Thăng Long
Việt Nam đang phải đối mặt với gánh nặng 
kép về dinh dưỡng, tình trạng thừa cân béo 
phì ở các thành phố lớn và tình trạng suy dinh 
dưỡng nhẹ cân và thấp còi ở các vùng sâu, 
vùng xa.¹ Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ 
suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em ở nước ta năm 
2015 là 24,9% và thể nhẹ cân là 14,1% trong 
khi đó thừa cân, béo phì ở trẻ em ở thành phố 
Hồ Chí Minh và nội thành Hà Nội lần lượt là 
50% và 41%.² Tư vấn dinh dưỡng được coi là 
một trong những biện pháp hiệu quả giúp làm 
nâng cao nhận thức và khuyến khích lối sống 
lành mạnh, thay đổi hành vi ăn uống.3,4 Người 
bệnh đặc biệt là đối tượng bà mẹ, trẻ em rất 
cần được tư vấn dinh dưỡng.5 Một nghiên cứu 
của Nguyễn Viết Hải tại nội thành Hà Nội cho 
thấy 79,6% đối tượng có nhu cầu tư vấn dinh 
dưỡng.⁶ Các phòng tư vấn dinh dưỡng có thể 
được xây dựng lồng ghép cùng với các dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe khác như dịch vụ tiêm 
chủng, dịch vụ khám nhi khoa hoặc được mở 
độc lập. Tại Việt Nam, phòng khám tư vấn dinh 
dưỡng đã xuất hiện tại thành phố Hồ Chí Minh 
và Hà Nội như Viện dinh dưỡng quốc gia, Bệnh 
viện Bạch Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, các 
phòng khám tư vấn dinh dưỡng tư nhân khác 
Tuy nhiên tại các bệnh viện tuyến dưới, bệnh 
viện ngoại thành như bệnh viện Bắc Thăng 
Long vẫn chưa có phòng tư vấn dinh dưỡng 
đồng thời cũng chưa có nghiên cứu nào khảo 
sát về nhu cầu, khả năng chi trả cho dịch vụ 
tư vấn dinh dưỡng. Vì vậy, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu của các bà 
mẹ về dịch vụ y tế này để từ đó có thể tham 
mưu cho ban lãnh đạo bệnh viện triển khai hoạt 
động tư vấn dinh dưỡng hiệu quả, đáp ứng nhu 
cầu thực tiễn của người bệnh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Diệp, 
Trường Đại học Thăng Long
Email: [email protected]
Ngày nhận: 14/04/2020
Ngày được chấp nhận: 09/06/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 327
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Các bà mẹ có con đang điều trị tại khoa 
Nhi, bà mẹ có khả năng đọc, hiểu các câu hỏi 
của điều tra viên.
- Bà mẹ phải là người trực tiếp chăm sóc trẻ 
khi ở nhà.
- Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu và 
hợp tác trong quá trình nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Những đối tượng chăm 
sóc trẻ nhưng không phải là mẹ của trẻ như bố, 
ông, bà, người giúp việc, 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 08/2019 
đến tháng 10/2019
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Nhi, Bệnh viện 
Bắc Thăng Long.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: 
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng 
một tỷ lệ:
d
p(1 p)
n z1 22 2
-
= - a
n: cỡ mẫu
p: lấy p = 0,796 là tỷ lệ đối tượng có nhu cầu 
tư vấn dinh dưỡng theo một nghiên cứu trước6
d: khoảng sai lệch tuyệt đối mong muốn 
giữa tham số mẫu và tham số quần thể lấy 
bằng 0,05
α: mức ý nghĩa thống kê lấy bằng 0,05
Z1-α/2 = 1,96 (ứng với độ tin cậy 95%)
Dự phòng 8% bà mẹ bỏ cuộc ta được n = 
269.
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận 
tiện. Phỏng vấn các bà mẹ có con đang điều 
trị tại khoa Nhi trong thời gian tiến hành nghiên 
cứu và thỏa mãn các tiêu chuẩn được đưa vào 
nghiên cứu cho đến khi đủ cỡ mẫu.
Biến số, chỉ số nghiên cứu:
- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, trình 
độ văn hóa, nghề nghiệp, địa chỉ.
- Nhu cầu tư vấn dinh dưỡng: loại hình tư 
vấn dinh dưỡng, địa điểm tư vấn, người tư vấn 
dinh dưỡng, thời điểm tư vấn dinh dưỡng, nội 
dung tư vấn dinh dưỡng
- Khả năng sẵn sàng chi trả cho dịch vụ tự 
nguyện và tư vấn dinh dưỡng.
Công cụ nghiên cứu: Bộ câu hỏi phỏng vấn 
được thiết kế sẵn.
3. Xử lý số liệu
Thông tin thu thập từ phiếu phát được nhập 
liệu, xử lý, phân tích số liệu bằng phần mềm 
SPSS16. Các phép thống kê được áp dụng: 
thống kê mô tả bao gồm tính tần số, tỷ lệ phần 
trăm được trình bày thông qua các bảng phần 
mềm SPSS16..
4. Đạo đức nghiên cứu
Thông tin, số liệu thu thập được trong 
nghiên cứu chỉ dành cho mục đích nghiên 
cứu, đã được chấp thuận của Hội đồng khoa 
học công nghệ bệnh viện Bắc Thăng Long 
năm 2019. Đối tượng nghiên cứu được giải 
thích về mục đích và nội dung trước khi tiến 
hành.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trên 269 bà mẹ trong 
đó bà mẹ có độ tuổi từ 20 - 35 tuổi chiếm tỷ 
lệ cao nhất với 87,7%, có trình độ học vấn là 
Trung học Phổ thông trở lên với tỷ lệ là 99,6% 
và nghề nghiệp chính là công nhân/nhân viên 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 58,4%, tiếp theo là làm 
ruộng với 20,1%. Về địa lý, nơi ở của các bà 
mẹ được phỏng vấn chủ yếu tại 2 huyện ngoại 
thành Hà Nội là Sóc Sơn và Đông Anh với tỷ lệ 
lần lượt là 65,4% và 29,7%, chỉ có 4,8% bà mẹ 
là ở những nơi khác.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020328
Bảng 1. Một số đặc điểm về đối tượng nghiên cứu (n = 269)
Thông tin Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Tuổi mẹ
<20 tuổi 2 0,7
20 – 35 tuổi 236 87,7
> 35 tuổi 31 11,6
Trình độ học vấn
Trung học Phổ thông 162 60,2
Trung cấp/Cao đẳng 64 23,8
ĐH/SĐH 42 15,6
Khác 1 0,4
Nghề nghiệp
Làm ruộng 54 20,1
Công nhân/viên chức 157 58,4
Nội trợ 8 3,0
Khác 50 18,5
Nơi ở
Đông Anh 80 29,7
Sóc Sơn 176 65,4
Khác 13 4,9
2. Nhu cầu tư vấn dinh dưỡng nhi của bà mẹ
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bà mẹ có con được và có nhu cầu tư vấn dinh dưỡng 
Phần lớn các bà mẹ có con chưa được tư 
vấn dinh dưỡng nhi với tỷ lệ là 89,6%. Chỉ có 
10,4% các bà mẹ có con được tư vấn dinh 
dưỡng nhi. Đa số các bà mẹ có nhu cầu được 
tư vấn dinh dưỡng cho con chiếm 79,3%.
Nhu cầu về nội dung tư vấn dinh dưỡng, 
78,4% bà mẹ có nhu cầu muốn được tư vấn về 
chế độ dinh dưỡng bệnh lý khi trẻ ốm, 76,2% 
bà mẹ muốn được tư vấn về tình trạng dinh 
dưỡng hiện tại của trẻ. Ngoài ra, nhu cầu được 
tư vấn về cách đánh giá, theo dõi tình trạng 
dinh dưỡng và tăng trưởng của trẻ; tư vấn về 
chế độ chính sách dinh dưỡng tại viện lần lượt 
là 71,6% và 70,6% (Bảng 2).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 329
Bảng 2. Nhu cầu về nội dung tư vấn dinh dưỡng (n = 269)
Nội dung Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Tình trạng dinh dưỡng hiện tại của trẻ 205 76,2
Chế độ dinh dưỡng bệnh lý của trẻ 211 78,4
Chế độ dinh dưỡng khi trẻ ra viện 182 67,7
Chế độ dinh dưỡng khi trẻ khỏe mạnh 171 63,6
Cách đánh giá, theo dõi tình trạng dinh dưỡng và tăng trưởng của 
trẻ 193 71,7
Các chế độ chính sách về dinh dưỡng trong quá trình khám và 
điều trị tại bệnh viện. 190 70,6
Nhu cầu về địa điểm tư vấn dinh dưỡng, 195 bà mẹ muốn được tư vấn dinh dưỡng nhi tại phòng 
khám dinh dưỡng riêng (72,5%) và 34 bà mẹ chiếm 12,6% đối tượng chỉ có nhu cầu được tư vấn 
dinh dưỡng tại phòng khám ban đầu chuyên khoa khác. Về thời điểm, 43,0% bà mẹ có nhu cầu tư 
vấn dinh dưỡng nhi khi trẻ nằm viện. Có 26% bà mẹ có nhu cầu được tư vấn khi trẻ ăn ít hoặc biếng 
ăn. Đa số các bà mẹ mong muốn được tư vấn theo hình thức tư vấn cá nhân chiếm 74,7%, chỉ có 
31 bà mẹ (11,5%) có nhu cầu tư vấn theo hình thức tư vấn nhóm.
3. Khả năng chi trả cho dịch vụ tư vấn dinh dưỡng
Bảng 3. Sẵn sàng chi trả cho dịch vụ tư vấn dinh dưỡng tại phòng khám (n = 269)
Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Sẵn sàng chi trả cho dịch vụ khám bệnh ngoài 
bảo hiểm
Có 221 82,2
Không 48 17,8
Sẵn sàng chi trả 100.000 đồng cho một lần tư 
vấn dinh dưỡng
Có 179 66,5
Không 90 33,5
221 bà mẹ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ 
khám bệnh ngoài bảo hiểm tương ứng 82,2%. 
Trong đó, có 179 bà mẹ (66,5%) có sẵn sàng 
chi trả 100.000 đồng cho một lần tư vấn dinh 
dưỡng nhi tại phòng khám.
IV. BÀN LUẬN
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các bà 
mẹ trẻ có độ tuổi từ 20 đến 35 tuổi, hầu hết 
đều có trình độ Trung học phổ thông trở nên 
và sống ở khu vực ngoại thành Hà Nội. Các 
bà mẹ chưa được tiếp cận đến dịch vụ tư vấn 
dinh dưỡng cho con với tỷ lệ cao (89,6%) vì 
vậy nhu cầu được tư vấn dinh dưỡng nhi của 
các bà mẹ chiếm tỷ lệ cao 79,3%. Tỷ lệ đối 
tượng có nhu cầu tư vấn dinh dưỡng thấp hơn 
so với các nghiên cứu của Đỗ Thị Lan với tỷ 
lệ 87,6%, nghiên cứu của Nguyễn Phương 
Huyền (92,6%) và nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Đính (90,3%).7–9 Tuy nhiên, kết quả này lại khá 
tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Viết 
Hải với 79,6% đối tượng muốn được sử dụng 
dịch vụ tư vấn dinh dưỡng6 và nghiên cứu của 
Koshimoto với 77,5% đối tượng có nhu cầu tư 
vấn dinh dưỡng.10
Chủ yếu các bà mẹ có nhu cầu được tư vấn 
về chế độ dinh dưỡng khi trẻ ốm, cách đánh giá, 
theo dõi tình trạng dinh dưỡng tăng trưởng của 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020330
trẻ và các chế độ chính sách về dinh dưỡng khi 
khám tại bệnh viện. Điều này có thể giải thích là 
do đối tượng nghiên cứu đều là các bà mẹ có 
con đang điều trị tại viện và dịch vụ chăm sóc 
dinh dưỡng như suất ăn bệnh lý hay khám, tư 
vấn dinh dưỡng hiện nay vẫn chưa nằm trong 
danh mục bảo hiểm chi trả. 
Trên 70% các bà mẹ đều mong muốn sử 
dụng dịch vụ tư vấn dinh dưỡng với hình thức 
tư vấn cá thể tại phòng khám dinh dưỡng riêng, 
cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Viết Hải 
(64,9%).⁶ Có thể giải thích vì việc tư vấn cá thể 
tại phòng khám đem lại hiệu quả nhiều hơn so 
với tư vấn tập thể, các bà mẹ có cơ hội tương 
tác nhiều hơn với người tư vấn.
Tại bệnh viện Bắc Thăng Long, giá dịch 
vụ cho một lần khám bệnh ngoài bảo hiểm tại 
phòng khám (chưa bao gồm các dịch vụ cận 
lâm sàng và thuốc) là 100.000 VNĐ. Tỷ lệ bà 
mẹ sẵn sàng chi trả số tiền này khi khám bệnh 
cho con là khá cao (82,2%). Về dịch vụ tư vấn 
dinh dưỡng nhi, có 66,5% bà mẹ sẵn sàng chi 
trả 100.000 VNĐ để được sử dụng dịch vụ này. 
Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của tác 
giả Nguyễn Phương Huyền được thực hiện tại 
4 tỉnh của Việt Nam năm 2015 khi chỉ có 33,4 
% bà mẹ chấp nhận mức giá 100.000 VNĐ cho 
dịch vụ tư vấn dinh dưỡng nhi.⁸ Một nghiên cứu 
khác của Nguyễn Viết Hải và cộng sự tại khu 
vực nội thành Hà Nội, cho thấy có tới gần 90% 
người trả lời sẵn sàng chi trả cho dịch vụ tư vấn 
dinh dưỡng với mức giá trung bình là 96.100 
VNĐ vào năm 2017.⁶ Tương tự, nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Đính cũng cho thấy khả năng 
chi trả cho một lần tư vấn dinh dưỡng tại phòng 
tư vấn dinh dưỡng riêng là 94.800 VNĐ.9 Sự 
khác biệt này có thể đến từ yếu tố địa lý và thời 
điểm của nghiên cứu.
V. KẾT LUẬN
Đa số các bà mẹ chưa được tư vấn dinh 
dưỡng cho trẻ. Các bà mẹ có nhu cầu cao về 
tư vấn dinh dưỡng cho trẻ tại phòng khám dinh 
dưỡng riêng với hình thức tư vấn cá thể. 66,5% 
sẵn sàng chi trả cho dịch vụ tư vấn dinh dưỡng 
tại phòng khám với mức giá 100 000 đồng/lượt 
tại bệnh viện Bắc Thăng Long. Vì vậy, có thể 
triển khai phòng tư vấn dinh dưỡng dịch vụ tại 
cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người 
bệnh. 
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm ơn 
Bệnh viện Bắc Thăng Long đã tạo điều kiện 
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu. 
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành 
đến các bà mẹ đã tình nguyện tham gia nghiên 
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Hương. Dinh Dưỡng Cộng Đồng. 
Hà Nội: Nhà xuất bản Y học; 2015.
2. Vietnam, National Institute of 
Nutrition. Prevalence of Malnutrition in 
Vietnamese Children under 5 Years Old; 2015.
3. Cook SL, Nasser R, Comfort BL 
(Webster), Larsen DK. Effect of Nutrition 
Counselling On Client Perceptions and Eating 
Behaviour. Canadian Journal of Dietetic 
Practice and Research. 2006; 67(4): 171-177. 
doi:10.3148/67.4.2006.171
4. Willaing I, Ladelund S, Jørgensen T, 
Simonsen T, Nielsen LM. Nutritional counselling 
in primary health care: a randomized 
comparison of an intervention by general 
practitioner or dietician. Eur J Cardiovasc Prev 
Rehabil. 2004; 11(6): 513-520. doi:10.1097/01.
hjr.0000152244.58950.5f.
5. Kolasa KM, Rickett K. Barriers to Providing 
Nutrition Counseling Cited by Physicians: 
A Survey of Primary Care Practitioners. 
Nutr Clin Pract. 2010; 25(5): 502-509. 
doi:10.1177/0884533610380057
6. Nguyen HV, Trinh NB, Le HT, et 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 331
al. Preference and willingness to pay for 
nutritional counseling services in urban 
Hanoi. F1000Res. 2017; 6:223. doi: 10.5256/
F1000RESEARCH.10974.D153260
7. Đỗ Thị Lan. Đánh giá nhu cầu khám, tư 
vấn dinh dưỡng và cung cấp suất ăn điều trị 
và cho bệnh nhân tại Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội năm 2015. Khóa luận Cử nhân Dinh dưỡng. 
Trường Đại học Y Hà Nội. 2015.
8. Nguyen PH, Hoang MV, Hajeebhoy N, 
et al. Maternal willingness to pay for infant 
and young child nutrition counseling services 
in Vietnam. Global Health Action. 2015; 8(1): 
28001. doi:10.3402/gha.v8.28001
9. Nguyễn Thị Đính. Nhu cầu, khả năng chi 
trả cho suất ăn bệnh lý và tư vấn dinh dưỡng 
của người bệnh tại bệnh viện K cơ sở Tân Triều 
năm 2019. Đề tài cơ sở Bệnh viện K. 2019.
10. Koshimoto S, Arimoto M, Saitou K, et al. 
Need and demand for nutritional counselling 
and their association with quality of life, 
nutritional status and eating-related distress 
among patients with cancer receiving outpatient 
chemotherapy: a cross-sectional study. Support 
Care Cancer. 2019; 27(9): 3385-3394. doi: 
10.1007/s00520-018-4628-9
Summary
DEMAND AND AFFORDABILITY OF PEDIATRIC NUTRITION 
COUNSELING SERVICES OF MOTHERS 
IN BAC THANG LONG HOSPITAL IN 2019
A cross-sectional study was conducted among 269 mothers whose children received 
treatment at the Pediatric Department of Bac Thang Long Hospital to investigate the needs 
and affordability of pediatric nutrition counseling services. Research shows that the majority 
of mothers had not received pediatric nutrition counseling, 79.3% of mothers wanted to 
receive nutrition counseling for their children, over 70% of mothers had a need for individual 
counseling, 66.5% were willing to pay out of pocket 100 000 VND for this service. Therefore, 
it is possible to set up a nutrition counseling service in hospital to meet this high demand.
Key words: Pediatric nutrition counseling, willingness to pay, Bac Thang Long Hospital 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_va_kha_nang_chi_tra_dich_vu_tu_van_dinh_duong_nhi_kh.pdf