Nhu cầu đào tạo về giáo dục giới tính của phụ huynh học sinh trường Trung học Cơ sở An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, năm 2020

Đặt vấn đề: Những năm gần đây có không ít các nghiên cứu đào tạo thử nghiệm cho phụ huynh học sinh về

giáo dục giới tính (GDGT) cho con đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh

giá nhu cầu đào tạo của phụ huynh về GDGT. Do đó, việc tiến hành điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo về GDGT

của phụ huynh học sinh là cần thiết.

Mục tiêu: Xác định nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh học sinh trường THCS An Hòa, huyện

Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang áp dụng phương pháp chọn mẫu

cụm với đơn vị cụm là lớp. Dữ liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự điền.

Kết quả: Có đến 60% phụ huynh có nhu cầu đào tạo về GDGT cho con của mình. Đa số phụ huynh có nhu

cầu được đào tạo về những kiến thức giới tính phù hợp cho từng lứa tuổi của trẻ (72%) và kĩ năng lắng nghe,

làm bạn với con (53,4%).

Kết luận: Nghiên cứu này tạo cơ sở khoa học, góp phần xây dựng các chương trình giáo dục kịp thời, hiệu

quả, lâu dài về những kiến thức GDGT cho phụ huynh.

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu đào tạo về giáo dục giới tính của phụ huynh học sinh trường Trung học Cơ sở An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu đào tạo về giáo dục giới tính của phụ huynh học sinh trường Trung học Cơ sở An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, năm 2020

Nhu cầu đào tạo về giáo dục giới tính của phụ huynh học sinh trường Trung học Cơ sở An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, năm 2020
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 74
NHU CẦU ĐÀO TẠO VỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH 
CỦA PHỤ HUYNH HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ AN HÒA, 
HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH, NĂM 2020 
Nguyễn Thị Minh Hằng1, Diệp Từ Mỹ1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Những năm gần đây có không ít các nghiên cứu đào tạo thử nghiệm cho phụ huynh học sinh về 
giáo dục giới tính (GDGT) cho con đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá nhu cầu đào tạo của phụ huynh về GDGT. Do đó, việc tiến hành điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo về GDGT 
của phụ huynh học sinh là cần thiết. 
Mục tiêu: Xác định nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh học sinh trường THCS An Hòa, huyện 
Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang áp dụng phương pháp chọn mẫu 
cụm với đơn vị cụm là lớp. Dữ liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi tự điền. 
Kết quả: Có đến 60% phụ huynh có nhu cầu đào tạo về GDGT cho con của mình. Đa số phụ huynh có nhu 
cầu được đào tạo về những kiến thức giới tính phù hợp cho từng lứa tuổi của trẻ (72%) và kĩ năng lắng nghe, 
làm bạn với con (53,4%). 
Kết luận: Nghiên cứu này tạo cơ sở khoa học, góp phần xây dựng các chương trình giáo dục kịp thời, hiệu 
quả, lâu dài về những kiến thức GDGT cho phụ huynh. 
Từ khóa: nhu cầu, giáo dục giới tính, phụ huynh, nhu cầu đào tạo của cha mẹ 
ABSTRACT 
PARENTAL TRAINING NEEDS IN SEXUALITY EDUCATION FOR SECONDARY SCHOOL 
STUDENTS IN AN HOA SCHOOL, TAY NINH PROVINCE, 2020 
Nguyen Thi Minh Hang, Diep Tu My 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 74 - 79 
Background: In recent years, there have been many community trials in training sex education for parents 
of adolescents, which have brought positive results. However, no studies are assessing the needs of training 
sexuality education among adolescents’ parents. Therefore, the conduct of surveys to assess the parental training 
needs in sexuality education among secondary school students’ parents is necessary. 
Objectives: To identify the needs in sexuality education training for secondary school students' parents in 
An Hoa school, Trang Bang district, Tay Ninh province. 
Method: This is a cross-sectional study, using the cluster sampling with cluster's unit is class. Data was 
collected by distributing the self-administered questionnaire. 
Results: The percentage of parents who need training in sexuality education is 60%. Most of parents need 
the age-appropriate information about sexuality education (72%), and the skills of being friends with their kids 
(53.4%). 
Conclusion: This research aims to create a scientific basis and to contribute to the development of timely, 
effective and long-term education programs on sex education for adolescents’ parents. 
1Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. Lâm Minh Quang ĐT: 0908297705 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 75
Keywords: needs, parents, sexuality education, parental training needs 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Giáo dục giới tính (GDGT) là một vấn đề 
quan trọng cho sự phát triển của trẻ(1). Việc 
GDGT hiện đang nhận được sự quan tâm lớn từ 
xã hội. Tại một số nước phát triển, GDGT đã 
được đưa vào chương trình học phổ thông với 
kiến thức phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ từ 
mẫu giáo đến 18 tuổi; và có những hướng dẫn 
cụ thể để phụ huynh cùng GDGT cho con của 
họ(2). 
Tuy nhiên, giới tính vẫn là một vấn đề hết 
sức tế nhị trong văn hóa phương Đông. Mặc dù 
phụ huynh quan tâm đến vấn đề giới tính của 
con nhưng vẫn chưa tự tin đủ kiến thức và kĩ 
năng để GDGT cho con của mình. Phần lớn phụ 
huynh e ngại và chọn cách né tránh khi con hỏi 
về các vấn đề liên quan đến giới tính(3,4,5). Cụ thể, 
tại Việt Nam, có đến 6/10 phụ huynh không 
muốn GDGT cho con của họ(5). 
Đã có một số nghiên cứu thử nghiệm thực 
hiện đào tạo cho phụ huynh các kiến thức để 
GDGT cho con của họ. Sau nghiên cứu, phần lớn 
phụ huynh có thái độ tích cực hơn, kiến thức tốt 
hơn và thực hành GDGT tốt hơn so với lúc chưa 
được đào tạo (p <0,05)(6). Tuy vậy, tại Việt Nam 
vẫn chưa có số liệu cụ thể về nhu cầu cần được 
cung cấp kiến thức GDGT của phụ huynh để có 
những can thiệp phù hợp. Từ những lí do trên, 
việc tiến hành cuộc điều tra nhằm đánh giá nhu 
cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh có con 
trong lứa tuổi vị thành niên là rất cần thiết. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là phụ huynh học sinh trường trung học cơ 
sở (THCS) An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây 
Ninh bao gồm: Cha/mẹ ruột đang chung sống và 
chăm sóc cho học sinh; Người nuôi dưỡng chính 
(ông, bà, chú, bác, cô, dì, ba kế, mẹ kế, người bảo 
hộ hợp pháp) của học sinh nếu học sinh không 
sống cùng với cả cha và mẹ. Phụ huynh có hai 
hay nhiều con học trong các lớp được chọn thì 
chỉ cần trả lời 1 bộ câu hỏi. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng 
một tỉ lệ. Với độ tin cậy 95%; Sai số cho phép 
d=0,05; C=1,5 (do chọn mẫu cụm); P = 0,5. Cỡ 
mẫu được ước lượng là 576. Dự trù mất mẫu 
20%. Vậy n cần đạt 720 phụ huynh. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Phương pháp lấy mẫu cụm phân tầng với 
khối lớp là tầng và đơn vị cụm là lớp. Tổng số 
học sinh của trường là 1280 phân bố thành 30 
lớp, số học sinh trung bình mỗi lớp là 43. Do 
đó, số lớp cần chọn là 17 lớp (720/43). Tính số 
lớp cần lấy ở mỗi khối theo tỉ lệ học sinh, sau 
đó rút thăm ngẫu nhiên để chọn. Kết quả cần 
chọn khối 6 (5 lớp), khối 7 (5 lớp), khối 8 (3 
lớp), khối 9 (4 lớp). 
Công cụ 
Bộ câu hỏi tự điền gồm 4 phần: Đặc điểm 
dân số xã hội, thái độ về việc GDGT (gồm 2 giá 
trị là tích cực khi có ≥ 7/10 thái độ tích cực và 
chưa tích cực), thực hành về GDGT, nhu cầu 
được tập huấn về GDGT. Thực hiện nghiên cứu 
thử với phụ huynh của học sinh trong lớp 6/5 (sẽ 
không chọn trong nghiên cứu chính thức) tại 
trường THCS An Hòa. Sau khi phân tích kết quả 
và tính độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s alpha 
cho thấy: Các câu hỏi về thái độ chung có hệ số 
Cronbach’s alpha là 0,67. Các câu hỏi đánh giá 
mức độ quan trọng của các chủ đề trong GDGT 
có hệ số Cronbach’s alpha là 0,84. Các câu hỏi về 
thực hành về GDGT có hệ số Cronbach’s alpha 
là 0,90. 
Phương pháp thu thập 
Giáo viên chủ nhiệm phát bộ câu hỏi tự điền 
có đính kèm hướng dẫn trả lời được đựng trong 
bì thư gởi cho phụ huynh. Sau khi điền xong, 
phụ huynh bỏ lại phiếu vào bì thư nộp lại cho 
giáo viên chủ nhiệm. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 76
Phân tích và xử lý số liệu 
Dùng phần mềm Epidata 3.1 để nhập liệu, 
sau đó dữ kiện được chuyển đổi sang định dạng 
sử dụng cho phần mềm phân tích dữ kiện thống 
kê Stata 14. Các kiểm định Chi bình phương và 
Fisher được dùng khi thích hợp để xác định mối 
liên quan với nhu cầu đào tạo. Mức p <0,05 được 
xem là có ý nghĩa thống kê. 
KẾT QUẢ 
Các đặc tính của mẫu 
Bảng 1: Đặc điểm nền của phụ huynh (n=594) 
Đặc điểm Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Tuổi 
<40 tuổi 318 53,5 
≥40 tuổi 276 46,5 
Giới tính 
Nữ 383 64,5 
Nam 211 35,5 
Nghề nghiệp 
Công nhân 272 45,8 
Tự do 198 33,4 
Nội trợ, nghỉ hưu 59 9,9 
Công chức, viên chức 37 6,2 
Nông dân 28 4,7 
Trình độ học vấn 
≤Cấp 1 137 23,1 
Cấp 2 283 47,7 
Cấp 3 122 20,5 
>Cấp 3 52 8,7 
Kinh tế 
Đủ sống 472 79,5 
Khó khăn 65 10,9 
Khá giả 57 9,6 
Hôn nhân 
Sống chung với vợ/chồng 476 80,1 
Ly thân/Li dị/Góa 95 16,0 
Tái hôn 23 3,9 
Cấu trúc gia đình 
Gia đình cơ bản 419 70,5 
Gia đình lớn 175 29,5 
Số con 
1 con 95 16,0 
2 con 409 68,9 
>2 con 81 15,1 
Tổng số phiếu phát ra là 733, số phiếu thu về 
là 658. Số mẫu đạt các tiêu chí đưa vào và loại ra 
là 594 mẫu, đạt 81% số mẫu phát ra và đạt 90,2% 
số mẫu thu về. Sau đây là kết quả phân tích trên 
594 mẫu (đảm bảo đủ cỡ mẫu ước lượng là 576 
mẫu). Kết quả Bảng 1 cho thấy phụ huynh tham 
gia nghiên cứu là nữ (64,5%) cao hơn nhiều so 
với phụ huynh là nam. Phần lớn phụ huynh làm 
công nhân với tỉ lệ 45,8% và làm nghề tự do 
(buôn bán, làm công, giao hàng) chiếm khoảng 
33,4%. Trong nghiên cứu, phụ huynh chủ yếu đã 
hoàn thành trình độ cấp 2 (47,7%). Những phụ 
huynh tham gia nghiên cứu đều đang sống cùng 
với vợ/chồng đầu tiên 80,1%; có 16% phụ huynh 
li thân, li dị hoặc góa và 3,9% phụ huynh tái hôn. 
Kinh tế của phụ huynh đa phần ở mức đủ sống 
(79,5%). Các phụ huynh sống trong những gia 
đình nhỏ (70,5%) nhiều hơn là sống cùng với 
ông bà trong những đại gia đình (29,5%). Đa số 
phụ huynh có 2 con (68,9%) và có 1 người con 
đang học cấp 2 (89,9%). 
Bảng 2 trình bày cảm nhận và thái độ của 
phụ huynh về GDGT cho con. Phụ huynh cảm 
thấy khó khăn khi thực hành GDGT chiếm tỉ lệ 
khá cao (43,3%). Mặc dù gần một nửa phụ 
huynh cảm thấy kiến thức để GDGT của mình ở 
mức khá và trung bình với tỉ lệ lần lượt là 42,9% 
và 35,5%. Phần lớn phụ huynh có thái độ tích 
cực về GDGT cho con, chiếm 70,2%. 
Bảng 2: Cảm nhận và thái độ của phụ huynh về 
GDGT (n=594) 
Đặc điểm n % 
Khó khăn khi GDGT 
Có 
Không 
337 
257 
56,7 
43,3 
Kiến thức về giới tính 
Tốt 
Khá 
Trung bình 
Kém 
111 
255 
199 
29 
18,7 
42,9 
33,5 
4,9 
Thái độ 
Tích cực 417 70,2 
Chưa tích cực 177 29,8 
Thực hành GDGT cho con của phụ huynh 
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy đa số phụ huynh 
đều bắt đầu GDGT cho con từ lúc con được 10-
17 tuổi (82,8%). Mỗi lần phụ huynh GDGT cho 
con của mình hầu hết là thoáng qua, dưới 30 
phút (79,8%). Tỉ lệ phụ huynh báo cáo con chưa 
từng hỏi mình về vấn đề giới tính khá cao 
(63,6%) và phụ huynh hầu như chưa bao giờ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 77
khuyến khích con hỏi mình về các vấn đề giới 
tính chiếm 62,3%. 
Bảng 3: Thực hành GDGT cho con của phụ huynh 
(n=594) 
Đặc điểm n % 
Tuổi con bắt đầu GDGT 
<10 tuổi 102 17,2 
10-17 tuổi 492 82,8 
Người tham gia GDGT 
Mẹ 513 86,4 
Cha 283 47,7 
Ông, bà 128 21,6 
Cô, dì, cậu, chú, bác 62 10,4 
Anh, chị 60 10,1 
Con hỏi về giới tính 
Có 216 36,4 
Không 378 63,6 
Khuyến khích con hỏi về giới tính 
Chưa bao giờ 370 62,3 
Một vài lần 188 31,6 
Khá thường xuyên 36 6,1 
Thời gian GDGT (n=510) 
<30 phút 407 79,8 
30 phút-1 tiếng 81 15,9 
>1 tiếng 22 4,3 
Cách GDGT (n=510) 
Giải đáp thắc mắc của con 291 57,1 
Kiểm soát hoạt động của con 214 42,0 
Kể chuyện liên quan 177 34,7 
Cung cấp sách báo, tranh ảnh 125 24,5 
Đưa ra qui tắc và buộc con tuân theo 107 21,0 
Sử dụng các điều răn dạy của tôn giáo 57 11,2 
Mức độ GDGT (n=510) 
Tốt 129 25,3 
Khá 228 44,7 
Trung bình 145 28,4 
Kém 8 1,6 
Nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh 
Từ dữ liệu Bảng 4 cho thấy, tỉ lệ phụ huynh 
có nhu cầu đào tạo về kiến thức và kỹ năng để 
giáo dục giới tính cho con là 59,6%. Trong những 
phụ huynh có nhu cầu được đào tạo về GDGT 
thì đa số phụ huynh muốn được cung cấp kiến 
thức trước khi con đầu lòng đến tuổi dậy thì 
(70,6%). Đa số phụ huynh có nhu cầu được đào 
tạo những kiến thức giới tính phù hợp với từng 
lứa tuổi của trẻ em (72%) và kĩ năng lắng nghe, 
làm bạn với con (53,4%). 
Bảng 4: Nhu cầu, thời điểm, nội dung đào tạo về 
GDGT mà phụ huynh mong muốn (n=594) 
Đặc điểm n % 
Nhu cầu đào tạo 
Có 354 59,6 
Không 240 40,4 
Thời điểm cung cấp (n=354) 
Trước khi con đầu lòng dậy thì 250 70,6 
Lúc nào cũng được 73 20,6 
Trước khi sinh con đầu lòng 30 8,5 
Khi con còn đang đi học (trước 18 tuổi) 1 0,3 
Nội dung đào tạo (n=354) 
Kiến thức GT phù hợp từng lứa tuổi trẻ em 255 72,0 
Kĩ năng lắng nghe, làm bạn với con 189 53,4 
Kĩ năng trò chuyện về giới tính 179 50,6 
Kĩ năng thỏa thuận với con 92 26,0 
Các yếu tố liên quan đến nhu cầu đào tạo về 
GDGT của phụ huynh 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
nhu cầu đào tạo của phụ huynh với giới tính của 
phụ huynh, khó khăn khi GDGT, kiến thức về 
GDGT của phụ huynh, tuổi bắt đầu GDGT, cũng 
như thái độ của phụ huynh về GDGT cho con 
(Bảng 5). 
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh (n=594) 
Đặc tính 
Nhu cầu 
p PR (KTC 95%) 
Có Không 
Giới tính 
Nam 
Nữ 
111 (52,6) 
243 (63,4) 
 100 (47,4) 
140 (36,6) 
0,010 
1,21 (1,04-1,40) 
Khó khăn khi GDGT 
Có 254 (75,4) 83 (24,6) <0,001 1,94 (1,64-2,28) 
Không 100 (38,9) 157 (61,1) 
Kiến thức về GDGT 
Tốt 
Khá 
55 (49,6) 
142 (55,7) 
56 (50,4) 
113 (44,3) 
<0,001* 
1 
1,17 (1,08-1,26) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 78
Đặc tính 
Nhu cầu 
p PR (KTC 95%) 
Có Không 
Trung bình 
Kém 
136 (68,3) 
21 (72,4) 
63 (31,7) 
8 (27,6) 
1,36 (1,16-1,60) 
1,59 (1,25-2,02) 
Tuổi bắt đầu GDGT 
<10 tuổi 
10-17 tuổi 
46 (45,1) 
308 (62,6) 
56 (54,9) 
184 (37,4) 
0,001 
1,39 (1,11-1,74) 
Thái độ 
Tích cực 289 (69,3) 128 (30,7) <0,001 1,89 (1,54-2,31) 
Chưa tích cực 65 (36,7) 112 (63,3) 
*Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng 
BÀN LUẬN 
Thái độ của phụ huynh về GDGT 
Hơn một nửa (56,7%) phụ huynh có gặp khó 
khăn khi GDGT cho con của mình. Kết quả này 
thấp hơn nghiên cứu của tác giả Kaljee LM trên 
phụ huynh của trẻ 15 đến 20 tuổi ở Hà Nội và 
Khánh Hòa năm 2011, với tỉ lệ phụ huynh báo 
cáo “Tôi cảm thấy xấu hổ” chiếm 65,4%, và “tôi 
cảm thấy tôi không đủ thông tin” với tỉ lệ 
63,1%(7). 
Thái độ của phụ huynh về GDGT đa số tích 
cực. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của 
Toor KK vào năm 2012 (67%)(8) và nghiên cứu 
của Lê Thị Thu Hiền trên các phụ huynh ở Thủ 
Đức vào năm 2015 (45%)(9). Tuy vậy, vẫn có đến 
30% phụ huynh có thái độ chung chưa tích cực. 
Phụ huynh vẫn còn những suy nghĩ “GDGT 
khiến trẻ tham gia quan hệ tình dục sớm hơn” 
hoặc “giáo dục trẻ không QHTD sớm là đủ”. 
Thực hành GDGT của phụ huynh học sinh 
Phần lớn phụ huynh bắt đầu GDGT cho con 
từ khi trẻ bắt đầu dậy thì là chủ yếu. Kết quả 
tương tự như nghiên cứu của tác giả Esther AO 
năm 2011 cho thấy phụ huynh chọn thời điểm 
GDGT cho con từ khi con 11 tuổi, khoảng thời 
gian bắt đầu dậy thì(10). Kết quả nghiên cứu này 
cũng cho thấy đa số phụ huynh đánh giá cao 
mức độ quan trọng của các chủ đề như dậy thì, 
các biện pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua 
đường tình dục, và an toàn cá nhân. Do đó, 
những chủ đề mà phụ huynh giáo dục cho con 
chủ yếu là về dậy thì, an toàn cá nhân, bộ phận 
sinh dục, tương tự như kết quả của tác giả Nair 
MKC năm 2011 ở phụ huynh thuộc miền Nam 
Ấn Độ(3). 
Phụ huynh thường GDGT cho con mình vài 
lần/năm đến khoảng vài lần/tháng, mỗi lần 
GDGT thường dưới 30 phút. Mặc dù chưa có qui 
chuẩn về thời gian và tần suất GDGT cho phụ 
huynh, nhưng hiện tại thời gian phụ huynh 
dành để GDGT cho con là chưa nhiều. Cách 
GDGT cho con của phụ huynh trong nghiên cứu 
chủ yếu là giải đáp thắc mắc cho con và kiểm 
soát các hoạt động của con. Tổ chức Y tế Thế giới 
khuyến cáo phụ huynh nên tạo cho trẻ cảm giác 
được tôn trọng, tạo hình mẫu cha mẹ và cung 
cấp kiến thức phù hợp cho sự phát triển của trẻ. 
Nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh học sinh 
Hơn một nửa số phụ huynh tham gia nghiên 
cứu có nhu cầu đào tạo về GDGT (60%), chủ yếu 
phụ huynh quan tâm đến kiến thức giới tính 
phù hợp từng lứa tuổi trẻ em, kĩ năng trò chuyện 
về giới tính với con, kĩ năng lắng nghe làm bạn 
với con cái. Vẫn có một phần không nhỏ phụ 
huynh không có nhu cầu đào tạo về GDGT, 
nguyên nhân là họ cảm thấy họ đã có đủ thông 
tin cung cấp cho con của mình (40,8%), phụ 
huynh cho rằng sẽ sẽ tự tìm hiểu khi đến tuổi 
hoặc có thông tin đầy đủ từ trường học và bạn 
bè (35%). Điều này cho thấy phụ huynh chưa 
đánh giá được hết tầm quan trọng của gia đình 
trong việc GDGT cho trẻ. 
Trở ngại lớn nhất mà phụ huynh gặp phải 
khi tham gia tập huấn là không sắp xếp được 
thời gian. Thời điểm mà phụ huynh cảm thấy 
cần được cung cấp thông tin cho bản thân hầu 
hết là trước khi con đầu lòng đến tuổi dậy thì 
(70,6%), phù hợp với quan tâm của phụ huynh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 79
về vấn đề dậy thì của trẻ. Tuy nhiên, những kiến 
thức về GDGT cho trẻ nên được bồi đắp từ mẫu 
giáo(2). Vì thế, những kiến thức nên được truyền 
đạt cho phụ huynh càng sớm càng tốt và thay 
đổi quan điểm của phụ huynh về thời điểm 
GDGT cho trẻ. 
Các yếu tố liên quan đến nhu cầu đào tạo của 
phụ huynh học sinh 
Qua nghiên cứu cho thấy, có mối liên quan 
giữa nhu cầu đào tạo về GDGT của phụ huynh 
với giới tính của phụ huynh, kiến thức của phụ 
huynh về GDGT, khó khăn khi GDGT, thái độ 
của phụ huynh và tuổi của con khi phụ huynh 
bắt đầu GDGT. Theo đó, những bà mẹ có nhu 
cầu đào tạo cao hơn những ông bố, những phụ 
huynh có kiến thức kém hơn thì có nhu cầu đào 
tạo cao hơn, cũng như phụ huynh có thái độ tích 
cực hơn thì có nhu cầu đào tạo cao hơn. Bên 
cạnh đó, phụ huynh có khó khăn khi GDGT cho 
con có nhu cầu đào tạo cao hơn và phụ huynh 
bắt đầu GDGT cho con càng trễ thì càng có nhu 
cầu đào tạo về GDGT. Điều này cho thấy, các 
yếu tố về kiến thức, thái độ và thực hành GDGT 
đều có liên quan đến nhu cầu đào tạo của phụ 
huynh về GDGT. 
KẾT LUẬN 
Nhu cầu đào tạo của phụ huynh học sinh về 
GDGT chiếm đa số trong dân số được khảo sát. 
Điều này cho thấy những chương trình đào tạo 
cho phụ huynh về GDGT là cần thiết, góp phần 
đảm bảo sự phát triển toàn diện giới tính cho trẻ 
em. Từ đó, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị 
như sau: Nghiên cứu xây dựng chương trình 
giáo dục cho phụ huynh về GDGT; Thực hiện 
truyền thông nâng cao nhận thức về tầm quan 
trọng của GDGT đối với vị thành niên; Tổ chức 
những buổi tập huấn trực tuyến, mở các lớp học 
về kĩ năng GDGT theo nhu cầu cho phụ huynh 
và con của họ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Federal Centre for Health Education (BZgA) (2016). Sexuality 
education: What is its impact? URL: 
https://www.euro.who.int/__data/assets/pdf_file/0010/379045/
Sexuality_education_Policy_brief_No_2.pdf?ua=1. 
2. The Sexuality Information and Education Council of the 
United States (SIECUS) (2004). Guidelines for Comprehensive 
Sexuality Education. URL: https://siecus.org/wp-
content/uploads/2018/07/Guidelines-CSE.pdf. 
3. Nair MKC, Leena ML, Paul MK, Pillai HV, Babu G, Russell PS, 
Thankachi Y (2012). Attitude of parents and teachers towards 
adolescent reproductive and sexual health education. Indian 
Journal of Pediatrics, 79(1):60-63. 
4. Liu W, Edwards CP (2003). Chinese Parents’ Knowledge, 
Attitudes, and Practices about Sexuality Education for 
Adolescents in the Family. Master thesis in the Department of 
Family and Consumer Sciences. University of Nebraska-
Lincoln. Lincoln. 
5. Võ Triệu Đạt, Nguyễn Duy Tài (2011). Quan điểm và thực 
hành về chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên. Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1):145-152. 
6. Kaljee LM, Le HT, Truong TM, Lerdboon P, Green M, Riel R, 
Pham V (2012). A sexual health program for Vietnamese 
parents of adolescents: a preliminary report on changes in 
parental knowledge, communication, and self-efficacy for 
condom use. Journal Assoc Nurses AIDS Care, 23(6):555-60. 
7. Kaljee LM, Green M, Lerdboon P, Riel R, Pham V, Nguyen TH, 
Truong TM, Li X, Chen X, Stanton B (2011). Parent–Youth 
communication and concordance between parents and 
adolescents on reported engagement in social relationships 
and sexually intimate behaviors in Hanoi and Khanh Hoa 
Province, Vietnam. Journal of Adolecents Health, 48(3):268-274. 
8. Toor KK (2016). A study of the attitude of teachers, parents and 
adolescents towards sex education. Journal of Educational 
Studies, Trends and Practices, 2:2. 
9. Lê Thị Thu Hiền, Huỳnh Thị Phấn, Ya Por Ybon (2014). Nhận 
thức về giáo dục giới tính của những bậc cha mẹ có con ở độ 
tuổi vị thành niên. Luận văn Tốt nghiệp Cử nhân, Trường Đại 
học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. HCM. 
10. Esther AO, Magbagbeola D, Adeleye A (2011). Parental 
attitudes and sex education of children in Nigeria. International 
Journal of Child Health and Human Development, 4:301-307. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 29/01/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_dao_tao_ve_giao_duc_gioi_tinh_cua_phu_huynh_hoc_sinh.pdf