Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 121

khoa/phòng của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyển tỉnh khu

vực phía Bắc từ tháng 6/2017-4/2018 bằng phương pháp

định lượng kết hợp định tính nhằm đánh giá nhu cầu đào

tạo liên tục giai đoạn 2018-2022. Kết quả nghiên cứu cho

thấy nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 khá cao:

lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt cán bộ/năm,

lĩnh vực xét nghiệm tăng mạnh trong 2 năm 2018 (411

lượt cán bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ) và sau đó giảm dần

từ 2020-2022 (khoảng >200 lượt cán bộ/năm), lĩnh vực

phòng chống bệnh không lây nhiễm là 730 lượt/năm. Đào

tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS nhận được nhiều sự

quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% trong tổng nhu cầu

đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có nhu cầu tổ chức đào

tạo tại Hà Nội, tuy vậy đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự

quan tâm của các đơn vị (26,7%).

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022

Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn106
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
TÓM TẮT:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 121 
khoa/phòng của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyển tỉnh khu 
vực phía Bắc từ tháng 6/2017-4/2018 bằng phương pháp 
định lượng kết hợp định tính nhằm đánh giá nhu cầu đào 
tạo liên tục giai đoạn 2018-2022. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 khá cao: 
lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt cán bộ/năm, 
lĩnh vực xét nghiệm tăng mạnh trong 2 năm 2018 (411 
lượt cán bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ) và sau đó giảm dần 
từ 2020-2022 (khoảng >200 lượt cán bộ/năm), lĩnh vực 
phòng chống bệnh không lây nhiễm là 730 lượt/năm. Đào 
tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS nhận được nhiều sự 
quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% trong tổng nhu cầu 
đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có nhu cầu tổ chức đào 
tạo tại Hà Nội, tuy vậy đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự 
quan tâm của các đơn vị (26,7%).
Từ khóa: Nhu cầu đào tạo, đào tạo liên tục, y tế 
dự phòng
ABSTRACT:
TRAINNING DEMAND FOR PROVINCIAL 
PREVENTIVE MEDICINE UNITS OF NORTHERN 
PROVINCES OF VIETNAM, 2018-2022
Cross-sectional descriptive studies were conducted 
on 121 departments/divisions of 38 preventive medicine 
units in the 28 northern provinces of Vietnam from June 
2017 to April 2018 by quantitative and qualitative methods 
for assessing the continuing training demand for 2018-
2022. The results showed that the training demand in the 
period 2018-2022 were quite high: the communicable 
disease control sector would be 656 staff members per 
year, the laboratoty testing sector would increased sharply 
in 2018 (411 staff members) and 2019 (307 staff members) 
and then gradually reduce from 2020-2022 (about 200 
staff members per year), the field of non-communicable 
disease prevention is 730 staff members/year. HIV/
AIDS prevention consultant sector received a great deal 
of interest from the units, accounting for 15.7% of the 
total annual training demand. All units want to organize 
the training courses in Hanoi, but distance training has 
received the attention of the units (26.7%).
Key words: Training demand, continuous training, 
preventive medicine.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam đang từng bước tiến tới xây dựng một hệ 
thống chăm sóc y tế bền vững trong đó phát triển đồng bộ 
cả y tế chuyên sâu và y tế phổ cập. Trong các năm qua, hệ 
thống y tế dự phòng đang dần được chú trọng và quan tâm 
đúng mức của ngành Y tế. Việc nâng cấp cơ sở vật chất và 
hệ thống các trang thiết bị xét nghiệm cận lâm sàng phải đi 
đôi với đào tạo nhân lực có chuyên môn cao đáp ứng được 
với nhu cầu phát triển của công nghệ mới. Báo cáo đánh giá 
cuối kỳ của Dự án Phát triển hệ thống y tế dự phòng năm 
2014 cho thấy: 62,1% nhân viên phòng xét nghiệm thuộc 
45 Trung tâm Y tế dự phòng được đào tạo chuyên ngành xét 
nghiệm, số cán bộ được đào tạo chuyên ngành sinh học là 
20%, tỉ lệ bác sỹ là 12% và 1,8% là y tế công cộng. Số cán 
bộ được đào tạo về lĩnh vực an toàn sinh học của 45 Trung 
tâm Y tế dự phòng tỉnh/thành phố (TTYTDP) thuộc dự án 
mới đạt 42,9%; một số khác đã được đào tạo nhưng do cơ 
sở đào tạo không được cấp chứng chỉ về an toàn sinh học 
phòng xét nghiệm nên không có chứng chỉ. Trong kế hoạch 
nâng cao năng lực cho các TTYTDP thì yêu cầu về nhân 
lực là đảm bảo số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu với 
100% cán bộ làm công tác xét nghiệm y tế dự phòng được 
đào tạo/tập huấn về chuyên môn; 90% nhân viên phòng 
NHU CẦU ĐÀO TẠO CỦA CÁC ĐƠN VỊ Y TẾ DỰ PHÒNG 
TUYẾN TỈNH KHU VỰC MIỀN BẮC, 2018-2022
Đặng Thị Thu Thảo1, Vũ Sinh Nam1, Tống Thị Hà1, Ngô Khánh Phương1, Nguyễn Thành Luân1,
Bùi Thị Minh Trang1, Lê Hồng Nga1, Lại Thị Minh1, Nguyễn Thúy Quỳnh1,
Nguyễn Hồng Đan1, Nguyễn Hồng Yến1, Nguyễn Thị Thùy Dương1
Ngày nhận bài: 02/06/2018 Ngày phản biện: 11/06/2018 Ngày duyệt đăng: 20/06/2018
1. Trung tâm Đào tạo và Quản lý khoa học – Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thùy Dương,
SĐT: 0985019101, Email: [email protected]
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 107
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
xét nghiệm có chứng chỉ/xác nhận đã qua tập huấn về an 
toàn sinh học; 90% cơ sở xét nghiệm y tế dự phòng tuyến 
trung ương, 70% tuyến tỉnh và 50% cơ sở xét nghiệm y tế 
dự phòng tuyến huyện có cán bộ được đào tạo/tập huấn về 
quản lý chất lượng, tuân thủ các hướng dẫn về đảm bảo chất 
lượng xét nghiệm.
Theo tổng hợp nhu cầu đào tạo của 23 tỉnh/thành phố 
phía Bắc do Khoa chỉ đạo tuyến, Viện Vệ sinh Dịch tễ 
Trung ương thực hiện thì nhu cầu đào tạo về xét nghiệm 
là 20/23 tỉnh, kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng 
là 19/23 tỉnh, bệnh không lây nhiễm là 6/23 tỉnh cho năm 
2017 [5]. Xác định nhu cầu đào tạo nhằm phát hiện chính 
xác các vấn đề cần đào tạo, đối tượng cần đào tạo và loại 
hình đào tạo, xác định nhu cầu đào tạo là bước đầu tiên 
trong quy trình đào tạo, được tiến hành trước khi lập kế 
hoạch đào tạo [2,6,7,8]. Để có cơ sở xây dựng kế hoạch 
đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 đáp ứng được các mục 
tiêu nói trên, nghiên cứu xác định nhu cầu đào tạo của các 
đơn vị y tế dự phòng là thực sự cần thiết.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng: 121 khoa/phòng chuyên môn 
của năm lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm 
chủng, sốt rét, côn trùng và động vật y học, xét nghiệm, 
kiểm soát bệnh không lây nhiễm và phòng, chống HIV 
của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh thuộc 28 tỉnh miền 
Bắc, trong đó có 28 Trung tâm Y tế dự phòng tuyến tỉnh, 6 
Trung tâm phòng chống HIV/AIDS (Hải Dương, Hà Tĩnh, 
Hải Phòng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Định) và 4 Trung 
tâm Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng (Cao Bằng, Nghệ 
An, Lạng Sơn, Hoà Bình).
Nghiên cứu định tính: 10 lãnh đạo của Trung tâm Y 
tế dự phòng các tỉnh miền Bắc.
2.2. Thời gian và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có kết 
hợp phân tích định tính và định lượng. Số liệu thu thập 
được từ các phiếu tự điền được gửi về các đơn vị y tế dự 
phòng và việc thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu. 
- Thời gian từ tháng 9/2017-4/2018.
2.3. Phân tích và xử lý số liệu
- Phân tích số liệu định lượng: Số liệu sau khi thu 
thập được làm sạch và nhập vào máy bằng phần mềm 
Epi-Info và phân tích bằng SPSS 25.0.
- Phân tích số liệu định tính: Số liệu được gỡ băng và 
mã hóa theo chủ đề. Thông tin trong từng chủ đề được so 
sánh và đối chiếu giữa nguồn cung cấp và phương pháp 
thu thập thông tin.
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu: Các cá nhân và đơn 
vị tham gia nghiên cứu đều tự nguyện tham gia nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ 
3.1. Thông tin chung về nhân sự tại các đơn vị thực 
hiện nghiên cứu
Nhân sự tại các đơn vị y tế dự phòng công tác trong 
lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng, sốt 
rét, côn trùng và động vật y học, xét nghiệm, kiểm soát 
bệnh không lây nhiễm và phòng, chống HIV chủ yếu là 
cán bộ trẻ 62% cán bộ dưới 40 tuổi và chỉ có 14% cán bộ 
trên 50 tuổi. Do đội ngũ là cán bộ trẻ nên thâm niên công 
tác của các cán bộ cũng dao động trong khoảng 10±8 năm, 
người có thâm niên công tác lâu nhất là 39 năm. Phân bố 
giới tính tại các đơn vị tham gia nghiên cứu có tỷ lệ nữ 
chiếm gần xấp xỉ 60%, đặc biệt tỷ lệ nữ giới cao ở các cán 
bộ xét nghiệm, bệnh không lây nhiễm và phòng chống 
HIV/AIDS.
Trình độ chuyên môn của nhân sự tại các đơn vị tham 
gia nghiên cứu khá đồng đều, trong đó tỷ lệ cán bộ có trình 
độ đại học là hơn 42%, dưới đại học - 41% và trên đại học 
-17%. Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ là bác sỹ và bác sỹ y học dự 
phòng chỉ đạt 24,2%. 
3.2. Thực trạng đào tạo trong giai đoạn 2013-2017 
tại các đơn vị
Biểu đồ 1. Số lượt cán bộ được đào tạo giai đoạn 2013-2017 của các đơn vị
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn108
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
Theo kết quả phỏng vấn sâu, hầu hết các lãnh đạo 
đơn vị đều hiểu rằng mỗi một nhân viên công tác tại ngành 
Y đều cần có thời gian đào tạo liên tục trung bình là 24 
giờ/năm. Và trong 5 năm gần đây chỉ có gần 60% lãnh đạo 
của các đơn vị tham gia điều tra đã được đào tạo về quản 
lý hành chính hoặc quản lý chất lượng.
3.3. Nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 của 
các đơn vị
“Đào tạo liên tục cập nhật kiến thức là yêu cầu thiết 
yếu của các cán bộ, đảm bảo cho cán bộ được tiếp cận với 
các kiến thức, kỹ thuật mới. Tuy nhiên việc đào tạo liên tục 
cần phải phù hợp với nhu cầu của các đơn vị, trình độ của 
người tham dự học tập nên việc đào tạo liên tục cần được 
lập kế hoạch trước khi tiến hành triển khai đào tạo. Trung 
bình hàng năm các đơn vị có nhu cầu cử từ 10-15% cán bộ 
để tham gia đào tạo liên tục”- Giám đốc TT YTDP, 59 tuổi.
Biểu đồ 2. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022
trong lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng
Biểu đồ 3. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022
trong lĩnh vực sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng
Trong giai đoạn 2018-2022, nhu cầu cử cán bộ đi học 
của các đơn vị kiểm soát bệnh truyền nhiễm là khá cân 
bằng giữa các năm (xấp xỉ 650 lượt cán bộ/năm), cũng 
như cân bằng giữa các nội dung đào tạo.
Đối với lĩnh vực sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng, 
nhu cầu đào tạo trung bình cho 5 năm tới là 320 lượt 
cán bộ/năm, tỷ lệ nhu cầu đào tạo khá cân bằng giữa 
các nội dung. 
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 109
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đồ 5. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022
trong lĩnh vực phòng chống bệnh không lây nhiễm
Biểu đồ 4. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực xét nghiệm
Nhu cầu đào tạo cán bộ trong lĩnh vực xét nghiệm 
giảm dần qua các năm, trong đó năm 2018 (411 lượt cán 
bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ). Nội dung đào tạo “Kỹ thuật 
xét nghiệm vi khuẩn nâng cao” có tỷ lệ nhu cầu đào tạo 
cao hơn các nội dung đào tạo khác không đáng kể (xấp xỉ 
16%/năm).
So với các lĩnh vực khác, nhu cầu đào tạo ở lĩnh vực bệnh không lây nhiễm là cao nhất 730 lượt học viên/năm 
nhưng tỷ lệ phân bố khá đồng đều ở các lĩnh vực. 
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn110
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
Biểu đồ 6. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022
trong lĩnh vực dự phòng và điều trị HIV
Nhu cầu đào tạo hàng năm đối với lĩnh vực dự 
phòng và điều trị HIV là 450 lượt cán bộ/năm. Trong đó, 
hai nội dung có sự quan tâm cao là giám sát, phân tích và 
dự báo dịch HIV, HIV kháng thuốc, Lao/HIV, dự phòng 
LTMC (19,5% năm) và tư vấn phòng chống HIV/AIDS 
(15,7%/năm).
Bảng 1. Phân bố nhu cầu đào tạo theo địa điểm tổ chức khóa đào tạo
Địa điểm
Đào tạo cơ bản Đào tạo nâng cao
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%)
Tại đơn vị 4 3,4 0 0
Từ xa 31 26,5 7 6
Tại Hà Nội 72 61,5 71 60
Khác 10 8,5 40 34
Bảng 2. Phân bố nhu cầu đào tạo theo thời gian khóa đào tạo
Thời gian Tần số Tỷ lệ (%)
Khóa đào tạo cơ bản 
- 3-5 ngày 66 63,5
- 6-8 ngày 38 32,8
- 9-10 ngày 12 10,3
Khóa đào tạo nâng cao
- 6-10 ngày 46 38
- 10-15 ngày 45 37
- 1 tháng 30 25
Với cả hai loại hình đào tạo cơ bản và nâng cao thì các đơn vị đều có nhu cầu được tổ chức các khóa đào tạo tại 
Hà Nội. 
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn 111
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Thời gian đào tạo từ 3-5 ngày là phù hợp với khóa 
đào tạo cơ bản (63,5%), trong khi đó thời gian của một 
khóa đào tạo nâng cao thì không có sự thống nhất giữa 
các đơn vị. 
“Nếu đơn vị có nhu cầu đào tạo, thì lãnh đạo đơn vị 
sẵn sàng bỏ kinh phí để cử cán bộ đi đào tạo”, “Khó khăn 
nhất trong việc cử cán bộ tham gia đào tạo đó là kinh phí” 
– Giám đốc TTYTDP. Trong số các đơn vị tham gia đánh 
giá chỉ có 8% các đơn vị đồng ý bỏ kinh phí ra để tham 
gia đào tạo, 53% hỗ trợ kinh phí đào tạo toàn phần, 39% 
hỗ trợ kinh phí một phần.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cán bộ lãnh đạo 
trung tâm đều xác định sự cần thiết và việc có qui định 
về yêu cầu đào tạo liên tục cho nhân viên y tế. Nhưng chỉ 
có gần 70% lãnh đạo hiểu đúng thời gian đào tạo liên tục 
đối với cán bộ công tác y tế dự phòng là 120 giờ/5 năm và 
tối thiểu mỗi năm có 12 giờ [1]. Các đơn vị y tế dự phòng 
đều đánh giá được vai trò của việc đào tạo liên tục cũng 
như việc xác định nhu cầu đào tạo trước khi lập kế hoạch 
đào tạo. Nhu cầu đào tạo liên tục trong giai đoạn 2018-
2022 trong lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt 
học viên/năm. Trong 5 năm gần đây, tỷ lệ của cán bộ xét 
nghiệm được tham gia đào tạo trong cả 5 lĩnh vực là tương 
đối cao gần 4 lượt trong 5 năm. Tuy nhiên, việc đào tạo 
đối với cán bộ xét nghiệm chủ yếu được tiến hành trước 
năm 2016 nhờ vào các hoạt động đào tạo của Dự án Hỗ 
trợ phát triển hệ thống Y tế dự phòng, sau 2016 rất ít các 
hoạt động đào tạo cho cán bộ xét nghiệm được thực hiện. 
Điều này dẫn đến sự tăng mạnh nhu cầu đào tạo của các 
cán bộ xét nghiệm vào hai năm 2018, 2019, sau đó giảm 
dần qua các năm.
Trong các lĩnh vực của hệ thống y tế dự phòng, các 
cán bộ kiểm soát bệnh không lây là có số lượt được đào 
tạo là cao nhất (>4 lượt/cán bộ) và cân bằng giữa trước và 
sau năm 2016. Và nhu cầu đào tạo trong 5 năm tiếp theo 
của đội ngũ cán bộ này cũng là cao nhất với 730 lượt học 
viên mỗi năm. Hiện nay, các đơn vị y tế dự phòng đang 
trong giai đoạn tái cơ cấu, việc sát nhập các đơn vị vào 
thành các trung tâm kiểm soát bệnh tật, việc tách các khoa 
kiểm soát bệnh không lây nhiễm từ khoa dịch tễ ở các đơn 
vị, dẫn đến sự thay đổi nhân sự cũng như tuyển mới. Bên 
cạnh đó, sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm trong 
cộng đồng khiến cho nhu cầu đào tạo trong lĩnh vực này 
luôn ở mức độ cao.
Trong khi đó, tỷ lệ được tham gia đào tạo của các cán 
bộ sốt rét, côn trùng và ký sinh trùng là thấp nhất chỉ có 
1,83 lượt trong 5 năm gần đây. Hơn nữa, các lĩnh vực đào 
tạo chủ yếu tập trung vào sốt rét và ký sinh trùng, các đào 
tạo về côn trùng còn rất hạn chế. Trong giai đoạn 2018-
2022, nhu cầu đào tạo của các cán bộ sốt rét, ký sinh trùng 
và côn trùng đã tăng 320 lượt học viên/năm, tuy nhiên vẫn 
thấp so với các lĩnh vực khác. 
Đối với lĩnh vực công tác dự phòng và điều trị HIV, 
nhu cầu đào tạo giám sát, phân tích và dự báo dịch HIV, 
HIV kháng thuốc, lao/HIV, dự phòng LTMC (19,5% năm) 
và tư vấn phòng chống HIV/AIDS (15,7%/năm) là cao 
nhất. Thông tư 01/2015/TT-BYT về việc Hướng dẫn tư 
vấn phòng, chống HIV/AIDS tại cơ sở y tế [3] yêu cầu 
các cán bộ xét nghiệm, cán bộ phòng khám VCT, cán bộ/
bác sỹ tư vấn xét nghiệm HIV phải có chứng chỉ tư vấn 
phòng chống HIV/AIDS dẫn đến nhu cầu đào tạo của nội 
dung này cao hơn so với các nội dung khác. Để đáp ứng 
Thông tư 01/2015/TT-BYT, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung 
ương đã tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ tư vấn phòng 
chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, nguồn kinh phí của các đơn 
vị còn hạn hẹp cũng như thiếu các chế tài trong việc thực 
hiện Thông tư nên đến nay trung bình hàng năm Viện chỉ 
tổ chức có 1 khoá đào tạo Tư vấn phòng chống HIV/AIDS 
(20 lượt học viên).
Về địa điểm đào tạo của cả hai loại hình đào tạo đều 
chọn Hà Nội, trong khi đó tại nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Thùy Dương và cộng sự [4] năm 2013 đánh giá nhu cầu 
đào tạo với cán bộ y tế HIV tại các tỉnh Tây Nguyên cho 
thấy các cán bộ đều có nhu cầu đào tạo tại đơn vị. Tuy vậy, 
đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn 
vị (26,7%) và một số đơn vị đề xuất việc phối hợp giữa 
đào tạo từ xa lý thuyết và thực hành tại Hà Nội hoặc thực 
địa. Việc đào tạo từ xa sẽ góp phần giải quyết được khó 
khăn về mặt kinh phí dành cho đào tạo của các đơn vị y 
tế dự phòng. 
V. KẾT LUẬN
Các đơn vị y tế dự phòng đều đánh giá được vai trò 
của việc đào tạo liên tục cũng như việc lập kế hoạch đào 
tạo. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu đào tạo trong 
giai đoạn 2018-2022 khá cao: lĩnh vực kiểm soát bệnh 
lây nhiễm là 656 lượt học viên/năm, lĩnh vực xét nghiệm 
tăng mạnh trong 2 năm 2018, 2019 và sau đó giảm dần từ 
2020-2022, lĩnh vực phòng chống bệnh không lây nhiễm 
là 730 lượt/năm. Đào tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS 
nhận được nhiều sự quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% 
trong tổng nhu cầu đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có 
nhu cầu tổ chức đào tạo tại Hà Nội. Tuy vậy, đào tạo từ xa 
bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn vị (26,7%).
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018
Website: yhoccongdong.vn112
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018
TIẾNG VIỆT
1. Bộ Y tế (2012), Thông tư 22/2012-BYT về việc Hướng dẫn việc đào tạo liên tục cho cán bộ y tế .
2. Bộ Y tế (2013), Tài liệu hội thảo Đào tạo liên tục ngành Y tế.
3. Bộ Y tế (2015), Thông tư 01/2015/TT-BYT về việc Hướng dẫn tư vấn phòng, chống HIV/AIDS tại cơ sở y tế 
4. Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự (2013), Thực trạng nhu cầu đào tạo của các Trung tâm Phòng chống HIV/
AIDS Khu vực Tây Nguyên 2012, Tạp chí Y học Dự phòng 11(147), tr. 127-133.
5. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (2017), Đánh giá nhu cầu hỗ trợ y tế dự phòng năm 2017 
TIẾNG ANH
6. Marinopoulos, Spyridon S (2017), Effectiveness of Continuing Medical Education, Johns Hopkins University.
7. M. Cervero, Ronald (2014), Effectiveness of continuing medical education: updated synthesis of systematic 
review, Accreditation Council for Continuing Medical Education.
8. Ward J. (1993), Needs assessment in continuing medical education. Its feasibility and value in a seminar about 
skin cancer for general practitioners., The Medical Journal of Australia, Vol. 159(1).p.20-23.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_dao_tao_cua_cac_don_vi_y_te_du_phong_tuyen_tinh_khu.pdf