Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 121
khoa/phòng của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyển tỉnh khu
vực phía Bắc từ tháng 6/2017-4/2018 bằng phương pháp
định lượng kết hợp định tính nhằm đánh giá nhu cầu đào
tạo liên tục giai đoạn 2018-2022. Kết quả nghiên cứu cho
thấy nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 khá cao:
lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt cán bộ/năm,
lĩnh vực xét nghiệm tăng mạnh trong 2 năm 2018 (411
lượt cán bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ) và sau đó giảm dần
từ 2020-2022 (khoảng >200 lượt cán bộ/năm), lĩnh vực
phòng chống bệnh không lây nhiễm là 730 lượt/năm. Đào
tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS nhận được nhiều sự
quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% trong tổng nhu cầu
đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có nhu cầu tổ chức đào
tạo tại Hà Nội, tuy vậy đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự
quan tâm của các đơn vị (26,7%).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh khu vực miền Bắc, 2018-2022
SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn106 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 TÓM TẮT: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 121 khoa/phòng của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyển tỉnh khu vực phía Bắc từ tháng 6/2017-4/2018 bằng phương pháp định lượng kết hợp định tính nhằm đánh giá nhu cầu đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 khá cao: lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt cán bộ/năm, lĩnh vực xét nghiệm tăng mạnh trong 2 năm 2018 (411 lượt cán bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ) và sau đó giảm dần từ 2020-2022 (khoảng >200 lượt cán bộ/năm), lĩnh vực phòng chống bệnh không lây nhiễm là 730 lượt/năm. Đào tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS nhận được nhiều sự quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% trong tổng nhu cầu đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có nhu cầu tổ chức đào tạo tại Hà Nội, tuy vậy đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn vị (26,7%). Từ khóa: Nhu cầu đào tạo, đào tạo liên tục, y tế dự phòng ABSTRACT: TRAINNING DEMAND FOR PROVINCIAL PREVENTIVE MEDICINE UNITS OF NORTHERN PROVINCES OF VIETNAM, 2018-2022 Cross-sectional descriptive studies were conducted on 121 departments/divisions of 38 preventive medicine units in the 28 northern provinces of Vietnam from June 2017 to April 2018 by quantitative and qualitative methods for assessing the continuing training demand for 2018- 2022. The results showed that the training demand in the period 2018-2022 were quite high: the communicable disease control sector would be 656 staff members per year, the laboratoty testing sector would increased sharply in 2018 (411 staff members) and 2019 (307 staff members) and then gradually reduce from 2020-2022 (about 200 staff members per year), the field of non-communicable disease prevention is 730 staff members/year. HIV/ AIDS prevention consultant sector received a great deal of interest from the units, accounting for 15.7% of the total annual training demand. All units want to organize the training courses in Hanoi, but distance training has received the attention of the units (26.7%). Key words: Training demand, continuous training, preventive medicine. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam đang từng bước tiến tới xây dựng một hệ thống chăm sóc y tế bền vững trong đó phát triển đồng bộ cả y tế chuyên sâu và y tế phổ cập. Trong các năm qua, hệ thống y tế dự phòng đang dần được chú trọng và quan tâm đúng mức của ngành Y tế. Việc nâng cấp cơ sở vật chất và hệ thống các trang thiết bị xét nghiệm cận lâm sàng phải đi đôi với đào tạo nhân lực có chuyên môn cao đáp ứng được với nhu cầu phát triển của công nghệ mới. Báo cáo đánh giá cuối kỳ của Dự án Phát triển hệ thống y tế dự phòng năm 2014 cho thấy: 62,1% nhân viên phòng xét nghiệm thuộc 45 Trung tâm Y tế dự phòng được đào tạo chuyên ngành xét nghiệm, số cán bộ được đào tạo chuyên ngành sinh học là 20%, tỉ lệ bác sỹ là 12% và 1,8% là y tế công cộng. Số cán bộ được đào tạo về lĩnh vực an toàn sinh học của 45 Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh/thành phố (TTYTDP) thuộc dự án mới đạt 42,9%; một số khác đã được đào tạo nhưng do cơ sở đào tạo không được cấp chứng chỉ về an toàn sinh học phòng xét nghiệm nên không có chứng chỉ. Trong kế hoạch nâng cao năng lực cho các TTYTDP thì yêu cầu về nhân lực là đảm bảo số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu với 100% cán bộ làm công tác xét nghiệm y tế dự phòng được đào tạo/tập huấn về chuyên môn; 90% nhân viên phòng NHU CẦU ĐÀO TẠO CỦA CÁC ĐƠN VỊ Y TẾ DỰ PHÒNG TUYẾN TỈNH KHU VỰC MIỀN BẮC, 2018-2022 Đặng Thị Thu Thảo1, Vũ Sinh Nam1, Tống Thị Hà1, Ngô Khánh Phương1, Nguyễn Thành Luân1, Bùi Thị Minh Trang1, Lê Hồng Nga1, Lại Thị Minh1, Nguyễn Thúy Quỳnh1, Nguyễn Hồng Đan1, Nguyễn Hồng Yến1, Nguyễn Thị Thùy Dương1 Ngày nhận bài: 02/06/2018 Ngày phản biện: 11/06/2018 Ngày duyệt đăng: 20/06/2018 1. Trung tâm Đào tạo và Quản lý khoa học – Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thùy Dương, SĐT: 0985019101, Email: [email protected] SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 107 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC xét nghiệm có chứng chỉ/xác nhận đã qua tập huấn về an toàn sinh học; 90% cơ sở xét nghiệm y tế dự phòng tuyến trung ương, 70% tuyến tỉnh và 50% cơ sở xét nghiệm y tế dự phòng tuyến huyện có cán bộ được đào tạo/tập huấn về quản lý chất lượng, tuân thủ các hướng dẫn về đảm bảo chất lượng xét nghiệm. Theo tổng hợp nhu cầu đào tạo của 23 tỉnh/thành phố phía Bắc do Khoa chỉ đạo tuyến, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương thực hiện thì nhu cầu đào tạo về xét nghiệm là 20/23 tỉnh, kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng là 19/23 tỉnh, bệnh không lây nhiễm là 6/23 tỉnh cho năm 2017 [5]. Xác định nhu cầu đào tạo nhằm phát hiện chính xác các vấn đề cần đào tạo, đối tượng cần đào tạo và loại hình đào tạo, xác định nhu cầu đào tạo là bước đầu tiên trong quy trình đào tạo, được tiến hành trước khi lập kế hoạch đào tạo [2,6,7,8]. Để có cơ sở xây dựng kế hoạch đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 đáp ứng được các mục tiêu nói trên, nghiên cứu xác định nhu cầu đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng là thực sự cần thiết. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu định lượng: 121 khoa/phòng chuyên môn của năm lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng, sốt rét, côn trùng và động vật y học, xét nghiệm, kiểm soát bệnh không lây nhiễm và phòng, chống HIV của 38 đơn vị y tế dự phòng tuyến tỉnh thuộc 28 tỉnh miền Bắc, trong đó có 28 Trung tâm Y tế dự phòng tuyến tỉnh, 6 Trung tâm phòng chống HIV/AIDS (Hải Dương, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nam Định) và 4 Trung tâm Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng (Cao Bằng, Nghệ An, Lạng Sơn, Hoà Bình). Nghiên cứu định tính: 10 lãnh đạo của Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh miền Bắc. 2.2. Thời gian và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có kết hợp phân tích định tính và định lượng. Số liệu thu thập được từ các phiếu tự điền được gửi về các đơn vị y tế dự phòng và việc thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu. - Thời gian từ tháng 9/2017-4/2018. 2.3. Phân tích và xử lý số liệu - Phân tích số liệu định lượng: Số liệu sau khi thu thập được làm sạch và nhập vào máy bằng phần mềm Epi-Info và phân tích bằng SPSS 25.0. - Phân tích số liệu định tính: Số liệu được gỡ băng và mã hóa theo chủ đề. Thông tin trong từng chủ đề được so sánh và đối chiếu giữa nguồn cung cấp và phương pháp thu thập thông tin. 2.4. Đạo đức trong nghiên cứu: Các cá nhân và đơn vị tham gia nghiên cứu đều tự nguyện tham gia nghiên cứu. III. KẾT QUẢ 3.1. Thông tin chung về nhân sự tại các đơn vị thực hiện nghiên cứu Nhân sự tại các đơn vị y tế dự phòng công tác trong lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng, sốt rét, côn trùng và động vật y học, xét nghiệm, kiểm soát bệnh không lây nhiễm và phòng, chống HIV chủ yếu là cán bộ trẻ 62% cán bộ dưới 40 tuổi và chỉ có 14% cán bộ trên 50 tuổi. Do đội ngũ là cán bộ trẻ nên thâm niên công tác của các cán bộ cũng dao động trong khoảng 10±8 năm, người có thâm niên công tác lâu nhất là 39 năm. Phân bố giới tính tại các đơn vị tham gia nghiên cứu có tỷ lệ nữ chiếm gần xấp xỉ 60%, đặc biệt tỷ lệ nữ giới cao ở các cán bộ xét nghiệm, bệnh không lây nhiễm và phòng chống HIV/AIDS. Trình độ chuyên môn của nhân sự tại các đơn vị tham gia nghiên cứu khá đồng đều, trong đó tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học là hơn 42%, dưới đại học - 41% và trên đại học -17%. Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ là bác sỹ và bác sỹ y học dự phòng chỉ đạt 24,2%. 3.2. Thực trạng đào tạo trong giai đoạn 2013-2017 tại các đơn vị Biểu đồ 1. Số lượt cán bộ được đào tạo giai đoạn 2013-2017 của các đơn vị SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn108 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 Theo kết quả phỏng vấn sâu, hầu hết các lãnh đạo đơn vị đều hiểu rằng mỗi một nhân viên công tác tại ngành Y đều cần có thời gian đào tạo liên tục trung bình là 24 giờ/năm. Và trong 5 năm gần đây chỉ có gần 60% lãnh đạo của các đơn vị tham gia điều tra đã được đào tạo về quản lý hành chính hoặc quản lý chất lượng. 3.3. Nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 của các đơn vị “Đào tạo liên tục cập nhật kiến thức là yêu cầu thiết yếu của các cán bộ, đảm bảo cho cán bộ được tiếp cận với các kiến thức, kỹ thuật mới. Tuy nhiên việc đào tạo liên tục cần phải phù hợp với nhu cầu của các đơn vị, trình độ của người tham dự học tập nên việc đào tạo liên tục cần được lập kế hoạch trước khi tiến hành triển khai đào tạo. Trung bình hàng năm các đơn vị có nhu cầu cử từ 10-15% cán bộ để tham gia đào tạo liên tục”- Giám đốc TT YTDP, 59 tuổi. Biểu đồ 2. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực kiểm soát bệnh truyền nhiễm và tiêm chủng Biểu đồ 3. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng Trong giai đoạn 2018-2022, nhu cầu cử cán bộ đi học của các đơn vị kiểm soát bệnh truyền nhiễm là khá cân bằng giữa các năm (xấp xỉ 650 lượt cán bộ/năm), cũng như cân bằng giữa các nội dung đào tạo. Đối với lĩnh vực sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng, nhu cầu đào tạo trung bình cho 5 năm tới là 320 lượt cán bộ/năm, tỷ lệ nhu cầu đào tạo khá cân bằng giữa các nội dung. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 109 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Biểu đồ 5. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực phòng chống bệnh không lây nhiễm Biểu đồ 4. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực xét nghiệm Nhu cầu đào tạo cán bộ trong lĩnh vực xét nghiệm giảm dần qua các năm, trong đó năm 2018 (411 lượt cán bộ) và 2019 (307 lượt cán bộ). Nội dung đào tạo “Kỹ thuật xét nghiệm vi khuẩn nâng cao” có tỷ lệ nhu cầu đào tạo cao hơn các nội dung đào tạo khác không đáng kể (xấp xỉ 16%/năm). So với các lĩnh vực khác, nhu cầu đào tạo ở lĩnh vực bệnh không lây nhiễm là cao nhất 730 lượt học viên/năm nhưng tỷ lệ phân bố khá đồng đều ở các lĩnh vực. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn110 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 Biểu đồ 6. Phân bố nội dung cần được đào tạo liên tục giai đoạn 2018-2022 trong lĩnh vực dự phòng và điều trị HIV Nhu cầu đào tạo hàng năm đối với lĩnh vực dự phòng và điều trị HIV là 450 lượt cán bộ/năm. Trong đó, hai nội dung có sự quan tâm cao là giám sát, phân tích và dự báo dịch HIV, HIV kháng thuốc, Lao/HIV, dự phòng LTMC (19,5% năm) và tư vấn phòng chống HIV/AIDS (15,7%/năm). Bảng 1. Phân bố nhu cầu đào tạo theo địa điểm tổ chức khóa đào tạo Địa điểm Đào tạo cơ bản Đào tạo nâng cao Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) Tại đơn vị 4 3,4 0 0 Từ xa 31 26,5 7 6 Tại Hà Nội 72 61,5 71 60 Khác 10 8,5 40 34 Bảng 2. Phân bố nhu cầu đào tạo theo thời gian khóa đào tạo Thời gian Tần số Tỷ lệ (%) Khóa đào tạo cơ bản - 3-5 ngày 66 63,5 - 6-8 ngày 38 32,8 - 9-10 ngày 12 10,3 Khóa đào tạo nâng cao - 6-10 ngày 46 38 - 10-15 ngày 45 37 - 1 tháng 30 25 Với cả hai loại hình đào tạo cơ bản và nâng cao thì các đơn vị đều có nhu cầu được tổ chức các khóa đào tạo tại Hà Nội. SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn 111 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Thời gian đào tạo từ 3-5 ngày là phù hợp với khóa đào tạo cơ bản (63,5%), trong khi đó thời gian của một khóa đào tạo nâng cao thì không có sự thống nhất giữa các đơn vị. “Nếu đơn vị có nhu cầu đào tạo, thì lãnh đạo đơn vị sẵn sàng bỏ kinh phí để cử cán bộ đi đào tạo”, “Khó khăn nhất trong việc cử cán bộ tham gia đào tạo đó là kinh phí” – Giám đốc TTYTDP. Trong số các đơn vị tham gia đánh giá chỉ có 8% các đơn vị đồng ý bỏ kinh phí ra để tham gia đào tạo, 53% hỗ trợ kinh phí đào tạo toàn phần, 39% hỗ trợ kinh phí một phần. IV. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cán bộ lãnh đạo trung tâm đều xác định sự cần thiết và việc có qui định về yêu cầu đào tạo liên tục cho nhân viên y tế. Nhưng chỉ có gần 70% lãnh đạo hiểu đúng thời gian đào tạo liên tục đối với cán bộ công tác y tế dự phòng là 120 giờ/5 năm và tối thiểu mỗi năm có 12 giờ [1]. Các đơn vị y tế dự phòng đều đánh giá được vai trò của việc đào tạo liên tục cũng như việc xác định nhu cầu đào tạo trước khi lập kế hoạch đào tạo. Nhu cầu đào tạo liên tục trong giai đoạn 2018- 2022 trong lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt học viên/năm. Trong 5 năm gần đây, tỷ lệ của cán bộ xét nghiệm được tham gia đào tạo trong cả 5 lĩnh vực là tương đối cao gần 4 lượt trong 5 năm. Tuy nhiên, việc đào tạo đối với cán bộ xét nghiệm chủ yếu được tiến hành trước năm 2016 nhờ vào các hoạt động đào tạo của Dự án Hỗ trợ phát triển hệ thống Y tế dự phòng, sau 2016 rất ít các hoạt động đào tạo cho cán bộ xét nghiệm được thực hiện. Điều này dẫn đến sự tăng mạnh nhu cầu đào tạo của các cán bộ xét nghiệm vào hai năm 2018, 2019, sau đó giảm dần qua các năm. Trong các lĩnh vực của hệ thống y tế dự phòng, các cán bộ kiểm soát bệnh không lây là có số lượt được đào tạo là cao nhất (>4 lượt/cán bộ) và cân bằng giữa trước và sau năm 2016. Và nhu cầu đào tạo trong 5 năm tiếp theo của đội ngũ cán bộ này cũng là cao nhất với 730 lượt học viên mỗi năm. Hiện nay, các đơn vị y tế dự phòng đang trong giai đoạn tái cơ cấu, việc sát nhập các đơn vị vào thành các trung tâm kiểm soát bệnh tật, việc tách các khoa kiểm soát bệnh không lây nhiễm từ khoa dịch tễ ở các đơn vị, dẫn đến sự thay đổi nhân sự cũng như tuyển mới. Bên cạnh đó, sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm trong cộng đồng khiến cho nhu cầu đào tạo trong lĩnh vực này luôn ở mức độ cao. Trong khi đó, tỷ lệ được tham gia đào tạo của các cán bộ sốt rét, côn trùng và ký sinh trùng là thấp nhất chỉ có 1,83 lượt trong 5 năm gần đây. Hơn nữa, các lĩnh vực đào tạo chủ yếu tập trung vào sốt rét và ký sinh trùng, các đào tạo về côn trùng còn rất hạn chế. Trong giai đoạn 2018- 2022, nhu cầu đào tạo của các cán bộ sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng đã tăng 320 lượt học viên/năm, tuy nhiên vẫn thấp so với các lĩnh vực khác. Đối với lĩnh vực công tác dự phòng và điều trị HIV, nhu cầu đào tạo giám sát, phân tích và dự báo dịch HIV, HIV kháng thuốc, lao/HIV, dự phòng LTMC (19,5% năm) và tư vấn phòng chống HIV/AIDS (15,7%/năm) là cao nhất. Thông tư 01/2015/TT-BYT về việc Hướng dẫn tư vấn phòng, chống HIV/AIDS tại cơ sở y tế [3] yêu cầu các cán bộ xét nghiệm, cán bộ phòng khám VCT, cán bộ/ bác sỹ tư vấn xét nghiệm HIV phải có chứng chỉ tư vấn phòng chống HIV/AIDS dẫn đến nhu cầu đào tạo của nội dung này cao hơn so với các nội dung khác. Để đáp ứng Thông tư 01/2015/TT-BYT, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ tư vấn phòng chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, nguồn kinh phí của các đơn vị còn hạn hẹp cũng như thiếu các chế tài trong việc thực hiện Thông tư nên đến nay trung bình hàng năm Viện chỉ tổ chức có 1 khoá đào tạo Tư vấn phòng chống HIV/AIDS (20 lượt học viên). Về địa điểm đào tạo của cả hai loại hình đào tạo đều chọn Hà Nội, trong khi đó tại nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự [4] năm 2013 đánh giá nhu cầu đào tạo với cán bộ y tế HIV tại các tỉnh Tây Nguyên cho thấy các cán bộ đều có nhu cầu đào tạo tại đơn vị. Tuy vậy, đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn vị (26,7%) và một số đơn vị đề xuất việc phối hợp giữa đào tạo từ xa lý thuyết và thực hành tại Hà Nội hoặc thực địa. Việc đào tạo từ xa sẽ góp phần giải quyết được khó khăn về mặt kinh phí dành cho đào tạo của các đơn vị y tế dự phòng. V. KẾT LUẬN Các đơn vị y tế dự phòng đều đánh giá được vai trò của việc đào tạo liên tục cũng như việc lập kế hoạch đào tạo. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhu cầu đào tạo trong giai đoạn 2018-2022 khá cao: lĩnh vực kiểm soát bệnh lây nhiễm là 656 lượt học viên/năm, lĩnh vực xét nghiệm tăng mạnh trong 2 năm 2018, 2019 và sau đó giảm dần từ 2020-2022, lĩnh vực phòng chống bệnh không lây nhiễm là 730 lượt/năm. Đào tạo tư vấn phòng chống HIV/AIDS nhận được nhiều sự quan tâm của các đơn vị chiếm 15,7% trong tổng nhu cầu đào tạo hàng năm. Các đơn vị đều có nhu cầu tổ chức đào tạo tại Hà Nội. Tuy vậy, đào tạo từ xa bắt đầu nhận được sự quan tâm của các đơn vị (26,7%). SỐ 4 (45) - Tháng 07-08/2018 Website: yhoccongdong.vn112 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2018 TIẾNG VIỆT 1. Bộ Y tế (2012), Thông tư 22/2012-BYT về việc Hướng dẫn việc đào tạo liên tục cho cán bộ y tế . 2. Bộ Y tế (2013), Tài liệu hội thảo Đào tạo liên tục ngành Y tế. 3. Bộ Y tế (2015), Thông tư 01/2015/TT-BYT về việc Hướng dẫn tư vấn phòng, chống HIV/AIDS tại cơ sở y tế 4. Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự (2013), Thực trạng nhu cầu đào tạo của các Trung tâm Phòng chống HIV/ AIDS Khu vực Tây Nguyên 2012, Tạp chí Y học Dự phòng 11(147), tr. 127-133. 5. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (2017), Đánh giá nhu cầu hỗ trợ y tế dự phòng năm 2017 TIẾNG ANH 6. Marinopoulos, Spyridon S (2017), Effectiveness of Continuing Medical Education, Johns Hopkins University. 7. M. Cervero, Ronald (2014), Effectiveness of continuing medical education: updated synthesis of systematic review, Accreditation Council for Continuing Medical Education. 8. Ward J. (1993), Needs assessment in continuing medical education. Its feasibility and value in a seminar about skin cancer for general practitioners., The Medical Journal of Australia, Vol. 159(1).p.20-23. TÀI LIỆU THAM KHẢO
File đính kèm:
nhu_cau_dao_tao_cua_cac_don_vi_y_te_du_phong_tuyen_tinh_khu.pdf

