Nhồi máu não người trẻ liên quan với thiếu hụt protein C di truyền: Báo cáo một trường hợp
Thiếu hụt protein C di truyền là bệnh di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Mối liên quan
giữa thiếu hụt protein C di truyền với sự hình thành huyết khối tĩnh mạch đã được nhắc đến
nhiều. Trong khi đó, huyết khối động mạch, đặc biệt là động mạch trong sọ, liên quan với thiếu
hụt protein C di truyền tương đối hiếm. Chúng tôi báo cáo trường hợp một bệnh nhân (BN) nam
20 tuổi, nhập Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175 vì đột ngột tê và yếu nhẹ nửa người
phải. Chụp cộng hưởng từ ghi nhận sang thương nhồi máu não (NMN) cấp tại đồi thị trái và
NMN mạn tính tại cầu não trái. Xét nghiệm định mức protein C trong máu là 53% (bình thường
70 - 130%). Không tìm thấy thêm bất kỳ nguyên nhân hoặc yếu tố nguy cơ nào khác của đột
quỵ. Xét nghiệm định mức protein C trong máu những người thân của BN ghi nhận có thiếu hụt
ở người mẹ, ở bố và em gái bình thường
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhồi máu não người trẻ liên quan với thiếu hụt protein C di truyền: Báo cáo một trường hợp
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 91 NHỒI MÁU NÃO NGƯỜI TRẺ LIÊN QUAN VỚI THIẾU HỤT PROTEIN C DI TRUYỀN: BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP Trương Đình Cẩm1, Tạ Vương Khoa1, Phí Ngọc Dương1 Hoàng Tiến Trọng Nghĩa1, Trương Công Nam1 TÓM TẮT Thiếu hụt protein C di truyền là bệnh di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Mối liên quan giữa thiếu hụt protein C di truyền với sự hình thành huyết khối tĩnh mạch đã được nhắc đến nhiều. Trong khi đó, huyết khối động mạch, đặc biệt là động mạch trong sọ, liên quan với thiếu hụt protein C di truyền tương đối hiếm. Chúng tôi báo cáo trường hợp một bệnh nhân (BN) nam 20 tuổi, nhập Khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175 vì đột ngột tê và yếu nhẹ nửa người phải. Chụp cộng hưởng từ ghi nhận sang thương nhồi máu não (NMN) cấp tại đồi thị trái và NMN mạn tính tại cầu não trái. Xét nghiệm định mức protein C trong máu là 53% (bình thường 70 - 130%). Không tìm thấy thêm bất kỳ nguyên nhân hoặc yếu tố nguy cơ nào khác của đột quỵ. Xét nghiệm định mức protein C trong máu những người thân của BN ghi nhận có thiếu hụt ở người mẹ, ở bố và em gái bình thường. * Từ khóa: Nhồi máu não; Người trẻ; Thiếu hụt protein C di truyền. ĐẶT VẤN ĐỀ Đột quỵ NMN người trẻ là đột quỵ xảy ra ở người < 50 tuổi. Nguyên nhân trong đa số trường hợp là do hình thành cục máu đông bất thường gây tắc động mạch não. NMN người trẻ là bệnh ít gặp (khoảng 10%) nhưng hậu quả khá nặng nề (một nửa thiệt hại về kinh tế, xã hội). Điều đáng lo ngại là, theo thống kê trong 3 thập niên trở lại đây, tỷ lệ đột quỵ NMN người trẻ đang không ngừng tăng. Nguyên nhân NMN người trẻ đa dạng và khó chẩn đoán, chi phí dành cho xét nghiệm tầm soát vì vậy cũng cao hơn nhiều so với NMN ở người lớn tuổi. Trong đó, nguyên nhân rối loạn tăng đông máu ít gặp hơn, kể cả trong NMN nói chung cũng như NMN người trẻ nói riêng. Có rất ít báo cáo ghi nhận trong y văn từ trước đến nay về mối liên quan giữa bệnh thiếu hụt protein C di truyền - một trong những nguyên nhân thuộc nhóm rối loạn tăng đông máu và đột quỵ NMN người trẻ. CA LÂM SÀNG Bệnh nhân Trịnh Thanh T., nam, 20 tuổi, nhập viện ngày 31/10/2019, số bệnh án 19047255. Tiền sử không mắc bệnh lý nội khoa, không chấn thương vùng đầu cổ, không sử dụng các chất gây nghiện như thuốc lá, rượu, ma túy. Cách nhập viện 2 tháng, BN có 1 lần nói ngọng và yếu nửa người trái xuất hiện đột ngột, tự phục hồi hoàn toàn sau khoảng 5 phút. Lần này, BN nhập viện tại 1. Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding author): Tạ Vương Khoa ([email protected]) Ngày nhận bài: 14/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/02/2020 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 92 Bệnh viện Quân y 87 ở ngày thứ ba của bệnh vì đột ngột tê và yếu nửa người phải, sau đó chuyển tuyến lên Bệnh viện Quân y 175 và được điều trị nội trú tại Khoa Nội Thần kinh. Khám thực thể ghi nhận mạch và huyết áp bình thường, yếu kín đáo nửa người phải, giảm nhẹ cảm giác nông nửa người phải, phản xạ gân cơ tứ chi bình thường, phản xạ bệnh lý bó tháp âm tính, không rối loạn cơ vòng. DWI T1 Hình 1: Tăng tín hiệu đồi thị trái (hình trái, dấu mũi tên); giảm tín hiệu cầu não trái (hình phải, dấu mũi tên). Hình 2: Giảm tín hiệu đồi thị trái (hình trái, dấu mũi tên); giảm tín hiệu cầu não trái (hình phải, dấu mũi tên). T2 FLAIR Hình 3: Tăng tín hiệu đồi thị trái (hình trái, dấu mũi tên); tăng tín hiệu cầu não trái (hình phải, dấu mũi tên). Hình 4: Tăng tín hiệu đồi thị trái (hình trái, dấu mũi tên); giảm tín hiệu cầu não trái (hình phải, dấu mũi tên). MRA Hình 5: Không hẹp/tắc động mạch lớn trong và ngoài sọ; thiểu sản động mạch đốt sống trái. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 93 CT sọ não không thấy bất thường, MRI sọ não ghi nhận sang thương NMN mới tại đồi thị trái (tăng tín hiệu trên DWI, giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2, tăng tín hiệu trên FLAIR) và sang thương NMN cũ tại cầu não trái (giảm tín hiệu trên DWI, giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2, giảm tín hiệu trên FLAIR). MRA ghi nhận thiểu sản động mạch đốt sống trái, không có hẹp hay tắc các động mạch lớn trong và ngoài sọ. Siêu âm Doppler động mạch cảnh và động mạch đốt sống vùng cổ (ngoài sọ) không ghi nhận bất thường. Siêu âm tim qua thành ngực không ghi nhận bất thường. Siêu âm tim qua thực quản không thấy tồn tại lỗ bầu dục. X quang ngực bình thường. Điện tim 12 đạo trình và Holter ECG 24 giờ (2 lần) ghi nhận nhịp xoang, không có rung nhĩ. Xét nghiệm đông máu ghi nhận TQ, TCK, INR, fibrinogen, số lượng tiểu cầu bình thường, D-dimer tăng nhẹ 405 ng/ml (bình thường < 255 ng/ml). Xét nghiệm VS, CRP bình thường. Xét nghiệm sinh hóa máu bao gồm glucose, lipid, điện giải đồ, men gan, chức năng thận đều bình thường. Xét nghiệm định mức antithrombin III và protein S trong máu bình thường, protein C trong máu giảm 53% (bình thường 70 - 130%, Phòng Xét nghiệm MEDLATEC TP. Hồ Chí Minh). Xét nghiệm định mức protein C cho bố, mẹ và em gái của BN ghi nhận giảm protein C ở người mẹ (73%) (bình thường 82 - 112%, Phòng Xét nghiệm MEDLATEC Thanh Xuân, Hà Nội), còn bố và em gái bình thường. BN được chẩn đoán đột quỵ NMN cấp tái phát tại đồi thị trái do tắc các nhánh động mạch xuyên, rối loạn tăng đông máu do thiếu hụt protein C di truyền. Trong 3 ngày đầu nhập viện, khi chưa xác định chính xác căn nguyên, chúng tôi điều trị kháng huyết khối dự phòng tái phát bằng thuốc kháng tiểu cầu aspirin 81mg x 3 viên/ngày; từ ngày thứ 4 sau khi có chẩn đoán xác định căn nguyên, aspirin được thay bằng thuốc kháng đông rivaroxaban (20mg x 1 viên/ngày. BN được lưu lại bệnh viện điều trị 2 tuần, tình trạng tê và yếu nửa người phải cải thiện rõ. Khi xuất viện, BN được kê toa, dặn dò kỹ càng lộ trình tái khám và giải thích chiến lược uống thuốc kháng đông dài hạn. Chúng tôi cũng đồng thời tư vấn giáo dục cho BN và người mẹ về cách phát hiện triệu chứng đột quỵ, chú trọng vào cách phòng ngừa đột quỵ trong trường hợp phải đối mặt với các tình huống tiềm ẩn nguy cơ đột quỵ cao. BÀN LUẬN - Chẩn đoán đột quỵ NMN tái phát ở BN này dựa vào lâm sàng và hình ảnh MRI sọ não, trong đó đồi thị trái là định khu bệnh mới đợt này (khởi phát cách nhập viện 3 ngày), còn cầu não trái là định khu bệnh cũ đợt trước (không xác định được thời điểm vì không biểu hiện triệu chứng lâm sàng). Ngoài ra, qua thăm khám BN, chúng tôi cho rằng còn có một cơn thiếu máu não thoáng qua cách đợt bệnh lần này 2 tháng. BN mới 20 tuổi nên được xếp vào nhóm đột quỵ người trẻ. Chúng tôi dựa theo bảng phân loại TOAST (Trial of Org 10172 in Acute Stroke Treatment) [4] về nguyên nhân đột quỵ NMN ở cả BN lớn và trẻ tuổi để định hướng, tìm nguyên nhân trong ca bệnh này: T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 94 + Đầu tiên, 2 nhóm nguyên nhân hàng đầu của NMN ở người lớn tuổi được loại trừ là xơ vữa động mạch lớn (do không có bằng chứng của hẹp vữa xơ các động mạch lớn ngoài sọ lẫn trong sọ trên MRA, siêu âm) và bệnh lý mạch máu nhỏ (do không có bằng chứng của sự hiện diện các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường). + Tiếp theo, 3 nhóm nguyên nhân còn lại thường gặp hơn ở NMN người trẻ được chúng tôi ưu tiên quan tâm là nhóm bệnh tim tạo huyết khối (một số nguyên nhân hàng đầu là rung nhĩ, tồn tại lỗ bầu dục ở tim), nhóm bệnh lý ít gặp chẩn đoán được (một trong những nguyên nhân hàng đầu là rối loạn tăng đông máu di truyền hoặc mắc phải) và nhóm không tìm được nguyên nhân. Chúng tôi đã nỗ lực thực hiện các xét nghiệm tầm soát nhiều nhất có thể và duy nhất một bất thường ghi nhận được ở BN là thiếu hụt protein C trong máu. Về mặt lý thuyết, chẩn đoán thiếu hụt protein C dựa trên giảm mức protein C trong máu. Tuy nhiên, ngưỡng tuyệt đối để chẩn đoán thiếu hụt protein C không rõ ràng, khoảng giá trị của protein C biến thiên rộng. Hầu hết các phòng xét nghiệm thiết lập khoảng giá trị bình thường từ 70 - 140%. Người trưởng thành khỏe mạnh có mức protein C điển hình khoảng 95%. Mức protein C < 55% nhiều khả năng là do thiếu hụt protein C di truyền, trong đó thể dị hợp tử thường có mức điển hình khoảng 50%. Ở BN này, mức giá trị 53% thấp hơn giới hạn dưới của giá trị bình thường là hoàn toàn hợp lý để chẩn đoán thiếu hụt protein C. - Về sinh bệnh học, protein C là chất kháng đông phụ thuộc vitamin K tổng hợp tại gan. Protein C lưu hành trong máu như một proenzym (zymogen) và thực hiện chức năng kháng đông máu sau khi kích hoạt protein C hoạt hóa (aPC: activated protein C). Chức năng chính của aPC là bất hoạt các yếu tố đông máu Va và VIIIa - yếu tố cần thiết để sản xuất đầy đủ thrombin và hoạt hóa yếu tố X. Hiệu quả bất hoạt các yếu tố đông máu của aPC còn được thúc đẩy bởi protein S, một chất kháng đông phụ thuộc vitamin K khác. Vì vậy, thiếu hụt protein C có thể gây rối loạn tăng đông máu, tăng nguy cơ hình thành huyết khối dẫn đến tắc mạch (trong đó tắc động mạch não sẽ gây đột quỵ NMN). Tuy nhiên, lưu ý trong chẩn đoán căn nguyên đột quỵ NMN là sự hiện diện của thiếu hụt protein C trong máu chỉ mới được thừa nhận là yếu tố nguy cơ. Để khẳng định có phải là nguyên nhân của đột quỵ không, cần phân tích thêm nhiều yếu tố khác. Nguyên tắc chẩn đoán theo y văn hướng dẫn là phương pháp loại trừ, nghĩa là cần phải loại trừ tất cả nguyên nhân hay yếu tố nguy cơ gây đột quỵ NMN khác, chỉ khi nào không tìm thấy bất kỳ yếu tố nào trong số này, thiếu hụt protein C mới có thể được xem là nguyên nhân gây bệnh. Mặc dù đã cố gắng thực hiện nhiều xét nghiệm tầm soát, chúng tôi không phát hiện thêm bất kỳ nguyên nhân hay yếu tố nguy cơ nào khác. Vì vậy, chúng tôi cho rằng thiếu hụt protein C trong máu chính là nguyên nhân dẫn đến hình thành cục máu đông gây đột quỵ NMN trong trường hợp này. - Nguyên nhân của thiếu hụt protein C có thể là di truyền hoặc mắc phải. Ở BN T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 95 này, chúng tôi xác định do di truyền, sau khi loại trừ tất cả các nguyên nhân mắc phải khác (đông máu nội mạch lan tỏa, suy tế bào gan nặng, nhiễm não mô cầu, ure huyết cao, ung thư, hóa trị ung thư, sử dụng thuốc kháng vitamin K, thiếu vitamin K thường do suy dinh dưỡng hoặc dùng kháng sinh kéo dài). Gen quy định protein C nằm trên nhiễm sắc thể thường số 2 (2q13-14). Thiếu hụt protein C di truyền do xảy ra một hoặc nhiều đột biến điểm trên gen này, chúng tôi phát hiện có > 160 đột biến điểm. Đây là bệnh di truyền trội, vì vậy hoàn toàn hợp lý khi mẹ BN có mức protein C trong máu là 73%, thấp hơn tiêu chuẩn của phòng xét nghiệm (bình thường 82 - 112%, Phòng Xét nghiệm MEDLATEC Thanh Xuân, Hà Nội), tức là người mẹ có thiếu hụt protein C. Như vậy, BN nhận alen đột biến từ người mẹ. Do điều kiện kỹ thuật không cho phép, chúng tôi không làm được xét nghiệm di truyền học (phương pháp giải trình tự gen) để xác định đột biến điểm cụ thể của ca bệnh để củng cố thông tin chẩn đoán. Thiếu hụt protein C di truyền là bệnh lý ít gặp. Tần suất mắc bệnh khác nhau tùy theo dân số, khoảng 0,2 - 0,5% ở dân số khỏe mạnh [10] và 2 - 5% ở dân số bị huyết khối tĩnh mạch [2, 5]. Theo y văn, tăng nguy cơ biến cố huyết khối ở BN có thiếu hụt protein di truyền hầu hết là huyết khối tĩnh mạch (thường gặp nhất là tĩnh mạch sâu ở chân và tĩnh mạch phổi). Nguy cơ tương đối của huyết khối tĩnh mạch cao gấp 7 lần ở người có thiếu hụt protein C di truyền so với người không có rối loạn tăng đông do di truyền [7, 9]. Huyết khối động mạch, trong đó huyết khối động mạch não tương đối hiếm gặp và thường liên quan với đột quỵ NMN người trẻ [1, 3, 6]. Ca bệnh chúng tôi báo cáo thuộc số rất ít ca bệnh dạng này được ghi nhận trong y văn. - Về điều trị, bên cạnh các điều trị kinh điển như tái thông khẩn cấp và phục hồi chức năng sớm, dự phòng tái phát cũng là khâu rất quan trọng trong chiến lược điều trị đột quỵ NMN nói chung và đột quỵ NMN có liên quan với thiếu hụt protein C di truyền nói riêng. Hiện chưa có hướng dẫn nào từ các hiệp hội chuyên khoa lớn đề cập riêng cho điều trị dự phòng thứ phát đối với nhóm bệnh lý đột quỵ NMN người trẻ liên quan với thiếu hụt protein C di truyền. Việc điều trị chủ yếu dựa theo chiến lược (với sự đồng thuận của các chuyên gia) dành cho huyết khối tĩnh mạch cấp ở BN có rối loạn tăng đông do di truyền, bao gồm thiếu hụt protein C di truyền. Theo đó, y văn (UpToDate 12/2019) xem thuốc kháng đông là điều trị nền tảng và khuyến cáo hầu hết BN bị huyết khối tĩnh mạch cấp có liên quan với thiếu hụt protein C di truyền cần được điều trị dự phòng thứ phát bằng thuốc kháng đông xác định thời gian trong ít nhất 3 tháng, một số trường hợp ít nhất 6 - 12 tháng. Sau khoảng thời gian này, một số BN có nguy cơ huyết khối tái phát cao được khuyên có thể có lợi nếu tiếp tục sử dụng thuốc kháng đông không xác định thời gian: + Không có yếu tố khởi phát huyết khối tĩnh mạch nào khác. + Huyết khối tĩnh mạch tái phát. + Huyết khối thuyên tắc phổi nặng đe dọa tính mạng hoặc huyết khối tĩnh mạch sâu rất gần gốc chi. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 96 + Huyết khối tĩnh mạch ở các vị trí không thường gặp (tĩnh mạch mạc treo, tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch não). + Tiền sử gia đình có người bị huyết khối tĩnh mạch. + Thiếu hụt protein C di truyền thể đồng hợp tử hoặc dị hợp tử phức tạp. + Có nhiều hơn 1 rối loạn tăng đông máu di truyền (chẳng hạn thiếu hụt protein C cộng với thiếu hụt protein S hoặc yếu tố V Leiden di truyền). + Giới nam. Theo danh sách trên, thay huyết khối tĩnh mạch bằng đột quỵ NMN, BN của chúng tôi thuộc nhóm được khuyên nên sử dụng thuốc kháng đông không xác định thời gian, do đáp ứng một số tiêu chí: + Không có yếu tố khởi phát đột quỵ nào khác (thiếu hụt protein C di truyền trong trường hợp này được xác định là yếu tố nguyên nhân duy nhất của bệnh và bản chất đây là yếu tố không thể đảo nghịch). + Đột quỵ tái phát (đây là lần đột quỵ thứ ba, tính cả cơn thiếu máu não thoáng qua). + Giới nam. Ngoài hướng dẫn sử dụng thuốc kháng đông phù hợp, các chuyên gia cũng lưu ý vấn đề tư vấn giáo dục cho người bệnh trong chiến lược điều trị dự phòng huyết khối. Tất cả BN có rối loạn tăng đông máu di truyền (bao gồm thiếu hụt protein C di truyền) nên được tư vấn giáo dục về các biểu hiện và triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch và động mạch, đặc biệt chú trọng điều trị dự phòng đối với những đối tượng tiềm ẩn nguy cơ biến chứng huyết khối cao (chẳng hạn phẫu thuật lớn, mang thai, uống thuốc tránh thai chứa estrogen, một số phụ nữ đang trong giai đoạn hậu sản). Đánh giá nguy cơ huyết khối cho những người thân có mối quan hệ đời F1 với người bệnh để xây dựng kế hoạch điều trị dự phòng phù hợp cũng là vấn đề quan trọng. Chúng tôi đã thực hiện chiến lược theo hướng dẫn từ các chuyên gia cho BN của mình và người thân của BN. KẾT LUẬN Đột quỵ NMN người trẻ liên quan với thiếu hụt protein C di truyền tương đối hiếm gặp, có rất ít ca lâm sàng được ghi nhận trong y văn. Xét nghiệm định mức protein C trong máu sẽ chứng minh có thiếu hụt protein C. Nên làm xét nghiệm di truyền học tìm đột biến điểm của gen quy định protein C (trên nhiễm sắc thể số 2) để củng cố chẩn đoán. Nên tầm soát thiếu hụt protein C cho tất cả người thân đời F1 của BN để chủ động có biện pháp phòng ngừa đột quỵ NMN. Liên quan vấn đề điều trị phòng ngừa NMN thứ phát cho BN, quan điểm nhận được sự đồng thuận rộng rãi từ các chuyên gia là dùng thuốc kháng đông không xác định thời gian, kết hợp với tư vấn giáo dục. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Camerlingo M., Finazzi G., Casto L., Laffranchi C., Barbui T., Mamoli A. Inherited protein C deficiency and nonhemorrhagic arterial stroke in young adults. Neurology. 1991, 41 (9), p.1371. 2. Gladson C.L., Scharrer I., Hach V., Beck K.H., Griffin J.H. The frequency of type I heterozygous protein S and protein C deficiency in 141 unrelated young patients with venous thrombosis. Thromb Haemost. 1988, 59 (1), p.18. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 97 3. Grewal R.P., Goldberg M.A. Stroke in protein C deficiency. Am J Med. 1990, 89 (4), p.538. 4. Harold P., Adams Jr. et al. Classification of subtype of acute ischemic stroke definitions for use in a multicenter clinical trial. Stroke. 1993, 24, pp.35-41. 5. Heijboer H., Brandjes D.P., Büller H.R., Sturk A., ten Cate J.W. Deficiencies of coagulation-inhibiting and fibrinolytic proteins in outpatients with deep-vein thrombosis. N Engl J Med. 1990, 323 (22), p.1512. 6. Kohler J., Kasper J., Witt I., von Reutern G.M. Ischemic stroke due to protein C deficiency. Stroke. 1990, 21 (7), p.1077. 7. Koster T. et al. Protein C deficiency in a controlled series of unselected outpatients: An infrequent but clear risk factor for venous thrombosis (Leiden thrombophilia study). Blood. 1995, 85 (10), p.2756. 8. Miletich J., Sherman L., Broze G. Absence of thrombosis in subjects with heterozygous protein C deficiency. N Engl J Med. 1987, 317 (16), p.991. 9. Martinelli I. et al. Different risks of thrombosis in four coagulation defects associated with inherited thrombophilia: A study of 150 families. Blood. 1998, 92 (7), p.2353. 10. Tait R.C., Walker I.D., Reitsma P.H., Islam S.I., McCall F., Poort S.R., Conkie J.A., Bertina R.M. Prevalence of protein C deficiency in the healthy population. Thromb Haemost. 1996, 73 (1), p.87.
File đính kèm:
nhoi_mau_nao_nguoi_tre_lien_quan_voi_thieu_hut_protein_c_di.pdf

