Nhịn ăn gián đoạn ảnh hưởng lên tuổi thọ và sức khỏe

Trong nhịn ăn gián đoạn, có sự thay đổi chuyển hóa khi có sự thay đổi từ cho ăn sang nhịn năn và ngược lại.

Sự thay đổi này kích hoạt những con đường chuyển hóa đối lập nhau nhưng bổ sung cho nhau giúp tế bào và cơ

quan đề kháng với stress và tạo sự tăng trưởng và mềm dẻo của tế bào. Hiệu quả lâu dài của nhịn ăn gián đoạn

giúp giảm đề kháng insulin, tăng độ biến thiên nhịp tim, cải thiện chuyển hóa lipid và hệ vi sinh của ruột. Các

nghiên cứu trên mô hình động vật đã cho thấy nhịn ăn gián đoạn giúp kéo dài tuổi thọ và giúp cải thiện trong các

bệnh lí như béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, ung thư và rối loạn thần kinh. Mặc dù chỉ có các nghiên cứu

ngắn hạn trên người, các chế độ nhịn ăn nhịn ăn cách ngày, nhịn ăn gián đoạn 5:2 và ăn trong khoảng thời gian

hạn chế trong ngày cũng đã cho thấy nhịn ăn gián đoạn có đem lại lợi ích lâm sàng. Những kiến thức này là cơ sở

để tiến hành các thử nghiệm lâm sàng sâu rộng hơn và là định hướng để nghiên cứu phát triển các thuốc trong

phòng ngừa và điều trị một số bệnh mạn tính.

pdf 7 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Nhịn ăn gián đoạn ảnh hưởng lên tuổi thọ và sức khỏe", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhịn ăn gián đoạn ảnh hưởng lên tuổi thọ và sức khỏe

Nhịn ăn gián đoạn ảnh hưởng lên tuổi thọ và sức khỏe
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 1
NHỊN ĂN GIÁN ĐOẠN ẢNH HƯỞNG LÊN TUỔI THỌ VÀ SỨC KHỎE 
Đỗ Văn Dũng* 
TÓM TẮT 
Trong nhịn ăn gián đoạn, có sự thay đổi chuyển hóa khi có sự thay đổi từ cho ăn sang nhịn năn và ngược lại. 
Sự thay đổi này kích hoạt những con đường chuyển hóa đối lập nhau nhưng bổ sung cho nhau giúp tế bào và cơ 
quan đề kháng với stress và tạo sự tăng trưởng và mềm dẻo của tế bào. Hiệu quả lâu dài của nhịn ăn gián đoạn 
giúp giảm đề kháng insulin, tăng độ biến thiên nhịp tim, cải thiện chuyển hóa lipid và hệ vi sinh của ruột. Các 
nghiên cứu trên mô hình động vật đã cho thấy nhịn ăn gián đoạn giúp kéo dài tuổi thọ và giúp cải thiện trong các 
bệnh lí như béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, ung thư và rối loạn thần kinh. Mặc dù chỉ có các nghiên cứu 
ngắn hạn trên người, các chế độ nhịn ăn nhịn ăn cách ngày, nhịn ăn gián đoạn 5:2 và ăn trong khoảng thời gian 
hạn chế trong ngày cũng đã cho thấy nhịn ăn gián đoạn có đem lại lợi ích lâm sàng. Những kiến thức này là cơ sở 
để tiến hành các thử nghiệm lâm sàng sâu rộng hơn và là định hướng để nghiên cứu phát triển các thuốc trong 
phòng ngừa và điều trị một số bệnh mạn tính. 
Từ khóa: nhịn ăn gián đoạn, tuổi thọ 
ABSTRACT 
INTERMITTENT FASTING: ITS EFFECTS ON SURVIVAL AND HEALTH 
Do Van Dung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 01 - 07 
In intermittent fasting, there is a metabolic switch while changing from feeding to fasting condition and 
vice versa. The metabolic switch activates contrast metabolic pathways, however, complementing to others 
and improve the resistance of cells and organs to stress as well as cell growth and plasticity. Its long-term 
effects are increased insulin sensitivity, increased heart rate variability, improve lipid metabolism and gut 
microbiota. Animal models have shown that intermittent fasting lengthens survival and has benefits for 
many health conditions, such as obesity, diabetes mellitus, cardiovascular disease, cancers, and neurologic 
disorders. Although there have been only short-term trials on humans, interventions such as alternate-day 
fasting, 5:2 intermittent fasting, and daily time-restricted feeding have shown that they have clinical 
benefits. The discovery is the basis for design more clinical trials and the orientation to develop 
pharmacological approaches to prevent and treat chronic diseases. 
Keyword: intermittent fasting, survival 
TỔNG QUAN 
Các tài liệu hướng dẫn về dinh đưỡng 
thường khuyên ăn các bữa ăn chính và bữa ăn 
phụ theo đúng giờ, không bỏ bữa và nhất là 
không bỏ bữa sáng(1). Việc ăn sáng và các bữa ăn 
phụ giữa các bữa ăn chính sẽ giúp cung cấp 
carbonhydrates cần thiết cho duy trì lượng 
đường huyết. Những người làm dinh dưỡng 
thường nhắc đến câu nói của nhà dinh dưỡng 
học nổi tiếng người Mỹ Adelle Davis: “Ăn buổi 
sáng như hoàng đế, ăn buổi trưa như hoàng tử 
và ăn buổi tối như người ăn mày” để nhấn mạnh 
hơn nữa tầm quan trọng của việc ăn sáng(2). Vậy 
thì nếu có người cho rằng nên bỏ các bữa ăn và 
một cách tiện nhất là bỏ bữa sáng để thông minh 
hơn, khỏe mạnh hơn, sống lâu hơn thì điều đó 
có đáng tin không? 
Cơ sở của việc nhịn ăn gián đoạn bắt đầu từ 
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đỗ Văn Dũng Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Tổng Quan 
 2
một bài trình bày của Weindruch và Sohal trong 
một bài báo năm 1997 trên tạp chí NEJM. Trong 
bài trình bày tác giả có nêu lại một thí nghiệm 
trên giống chuột B1OC3F được chia làm 2 nhóm: 
một nhóm chứng với chế độ ăn bình thường và 
nhóm hạn chế với chế độ ăn thiếu dinh dưỡng 
nhưng không suy dinh dưỡng (hạn chế khẩu 
phần ăn nhưng có đủ các thành phần dinh 
dưỡng) từ khoảng 12 tháng tuổi. Kết quả cho 
thấy nhóm hạn chế có tuổi thọ nhiều hơn 11% so 
với nhóm chứng(3). Một số nghiên cứu khác trên 
mô hình động vật cũng đưa ra kết luận tương tự. 
Thông thường các nhà dinh dưỡng giải thích 
nguyên nhân của hiện tượng này là do sự giảm 
tỉ lệ mỡ trong cơ thể: có lẽ nhóm chứng có khối 
mỡ nhiều hơn nên bị các bệnh mạn tính nhiều 
hơn và tuổi thọ ngắn hơn. Tuy nhiên Weindruch 
và Sohal không đồng ý với lập luận này bởi vì 
các ông cũng làm thực nhiệm trên giống chuột 
C57BL/6J có mang gen béo phì. Giống chuột này 
ở chế độ ăn tự do có đến 67% khối lượng cơ thể 
là mỡ. Tỉ lệ mỡ trong cơ thể của giống chuột này 
ở chế độ ăn hạn chế là 48% cao hơn tỉ lệ ở loài 
chuột không có gen béo phì ở chế độ ăn tự do là 
22%. Nhưng giống chuột có gen béo phì ở chế độ 
ăn hạn chế cũng có tuổi thọ tương tự như chuột 
không có gen béo phì ở chế độ ăn hạn chế và cao 
hơn tuổi thọ của chuột không có gen béo phì có 
chế độ ăn tự do. Từ đó Weindruch và Sohal gợi 
ý rằng không phải là lượng mỡ hay trọng lượng 
cơ thể quyết định tuổi thọ mà chính là do chế độ 
ăn han chế giảm sự hình thành các gốc oxy tự do 
đã đem lại lợi ích về sức khỏe và tuổi thọ(4). 
Lý thuyết giải thích lợi ích của chế độ ăn 
hạn chế dựa trên hình thành gốc oxy tự do 
được cộng đồng khoa học lúc đó chấp nhận. 
Tuy nhiên về sau các nhà khoa học cũng phát 
hiện sự không chặt chẽ của lí giải này: chuột có 
gen béo phì có khẩu phần ăn hạn chế có lượng 
thức ăn vào cũng cao hơn chuột không có gen 
béo phì có chế độ ăn tự do, nhưng chuột có 
gen béo phì có khẩu phần ăn hạn chế vẫn sống 
lâu hơn. Vì vậy các nhà khoa học đưa ra lời 
giải thích là lợi ích của khẩu phần ăn hạn chế 
không phải do lượng chất béo trong cơ thể hay 
do sự tạo ra gốc oxy tự do mà do chính sự hạn 
chế trong khẩu phần ăn: Với khẩu phần ăn hạn 
chế chuột ăn hết khẩu phần của mình trong 
thời gian ngắn sau khi được cho ăn và thời 
gian nhịn ăn mỗi ngày lên đến 20 giờ và lợi ích 
đem lại là do sự hình thành các thể ketone 
trong thời gian nhịn đói (Cabo)(5). Lí giải này 
giải thích được các kết quả thí nghiệm do 
Weindruch và các nhà khoa học khác thực 
hiện. Tuy nhiên câu hỏi tiếp theo là điều này 
có hợp lí về mặt tiến hóa sinh học, có thể giải 
thích bằng cơ chế trao đổi chất và sinh học 
phân tử, có bằng chứng dựa trên các nghiên 
cứu tiền lâm sàng (thử nghiệm trên súc vật) và 
nghiên cứu lâm sàng (thử nghiêm con người) 
hay không. Điều đó được trả lời trong bài tổng 
quan này. 
Tổ tiên của con người từng là một loài linh 
trưởng và người tiền sử. Dù là vượn người hay 
người tiền sử, tổ tiên của chúng ta không thể có 
được 3 bữa ăn (chưa nói đến các bữa phụ) mỗi 
ngày một cách đều đặn với đầy đủ chất dinh 
dương khác. Cũng như các loài động vật khác 
(trừ các con vật nuôi ở trang trại), con người phải 
trải qua những lúc nhịn ăn xen kẽ với những lúc 
được ăn đầy đủ. Vì vậy về mặt tiến hóa, các 
động vật và con người phải có các cơ chế phân 
tử, tế bào, cơ quan và cơ thể về mặt chuyển hóa 
chất để thích ứng với tình trạng nhịn ăn gián 
đoạn này. Vì vậy việc ăn uống đều đặn và đầy 
đủ có lẽ mới là tình trạng không sinh lí và việc 
nhịn ăn gián đoạn là có lợi về mặt tiến hóa cho 
các loài động vật. Mặc dù lợi ích của việc nhịn ăn 
gián đoạn đến kéo dài tuổi thọ là khác nhau (ảnh 
hưởng bởi giới tính, chế độ ăn uống và yếu tố di 
truyền), các nghiên cứu trên chuột và linh 
trưởng cho thấy tác dụng hằng định của việc 
hạn chế khẩu phần ăn đối với tuổi thọ khỏe 
mạnh. Điều không may, trong thời đại hiện nay, 
hầu hết mọi người tiêu thụ ba bữa một ngày 
cộng với bữa phụ, do đó, việc nhịn ăn gián đoạn 
không xảy ra(6,7). 
Các nghiên cứu trên động vật và con người 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 3
đã chỉ ra rằng nhiều lợi ích sức khỏe của việc 
nhịn ăn gián đoạn không chỉ đơn giản là kết quả 
của việc giảm sản xuất gốc tự do hoặc giảm 
cân(6,8,9). Thay vào đó, nhịn ăn gián đoạn kích 
hoạt các phản ứng tế báo có tính chất thích ứng 
và được phát triển theo quá trình tiến hóa, tích 
hợp giữa các cơ quan và bên trong cơ quan theo 
cách cải thiện sự điều hòa glucose, tăng sức đề 
kháng stress và ức chế viêm. Trong quá trình 
nhịn ăn, các tế bào kích hoạt các con đường giúp 
tăng cường phòng thủ nội tại chống lại stress 
oxy hóa và trao đổi chất và con đường loại bỏ 
hoặc sửa chữa các phân tử bị hư hỏng(7). Trong 
giai đoạn nuôi dưỡng, các tế bào tham gia vào 
các quá trình tăng trưởng và tính mềm dẻo. 
Các nghiên cứu tiền lâm sàng luôn cho thấy 
hiệu quả của việc nhịn ăn gián đoạn ở mô hình 
động vật trong điều chỉnh quá trình bệnh tật của 
một loạt các rối loạn mãn tính, bao gồm béo phì, 
tiểu đường, bệnh tim mạch, ung thư và bệnh 
thoái hóa thần kinh(8,10,11,12). Việc tắt mở theo chu 
kì con đường chuyển hóa chất không chỉ cung 
cấp các ketone cần thiết để cung cấp năng lượng 
cho tế bào trong thời gian nhịn ăn mà còn tạo ra 
các phản ứng tế bào và toàn thân được phối hợp 
chặt chẽ có tính kéo dài đến trạng thái được nuôi 
ăn để tăng cường hiệu suất tinh thần và thể chất, 
cũng như khả năng kháng bệnh(13,14). 
NHỊN ĂN GIÁN ĐOẠN TẠO RA SỰ THAY 
ĐỔI CHUYỂN HÓA CHẤT 
Glucose và axit béo là nguồn năng lượng 
chính cho tế bào. Sau bữa ăn, glucose được sử 
dụng làm năng lượng và chất béo được lưu trữ 
trong mô mỡ dưới dạng triglyceride. Trong thời 
gian nhịn ăn, triglyceride được phân hủy thành 
axit béo và glycerol, được sử dụng làm năng 
lượng. Gan chuyển đổi axit béo thành thể 
ketone, cung cấp nguồn năng lượng chính cho 
nhiều loại mô, đặc biệt là não, trong thời gian 
nhịn ăn. Ở trạng thái cho ăn, nồng độ trong thể 
ketone trong máu ở mức thấp. Ở người, nồng độ 
thể ketone tăng lên trong vòng 8 đến 12 giờ sau 
khi bắt đầu nhịn ăn, đạt mức 0,2 đến 0,5 mM, và 
được duy trì cho đến 24 giờ, với mức tăng tiếp 
theo 1 đến 2 mM ở 48 giờ(15,16). Ở loài gặm nhấm, 
sự gia tăng nồng độ ketone huyết tương xảy ra 
trong vòng 4 đến 8 giờ sau khi bắt đầu nhịn ăn, 
đạt trên 1 mM trong vòng 24 giờ(17). Thời điểm 
của phản ứng này gợi ý thời gian nhịn ăn thích 
hợp trong chế độ nhịn ăn gián đoạn(6,8). 
Thể ketone không chỉ là nhiên liệu được sử 
dụng trong thời gian nhịn ăn; chúng là các phân 
tử truyền tín hiệu có tác động chủ yếu đến chức 
năng của tế bào và cơ quan(18). Thể ketone điều 
chỉnh sự biểu hiện và hoạt động của nhiều 
protein và phân tử chi phối sức khỏe và lão hóa. 
Chúng bao gồm peroxisome proliferator–
activated receptor γ coactivator 1α (PGC 1α) ), 
yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi(18,19,20), 
nicotinamide adenine dinucleotide (NAD +), 
sirtuins(21), poly (adenosine diphosphate [ADP) 
và ADP ribosyl cyclase (CD38)(22). Do tác động 
đến các con đường quan trọng của tế bào, thể 
ketone được tạo ra trong thời gian nhịn ăn có 
ảnh hưởng sâu sắc đến chuyển hóa toàn thân. 
Hơn nữa, thể ketone kích thích sự biểu hiện của 
gen chi phối yếu tố hướng thần kinh 
(neurotrophic factor) có nguồn gốc từ não. Điều 
này có ý nghĩa ứng dụng trong sức khỏe não bộ, 
các bệnh lí tâm thần và thoái hóa thần kinh(7). 
Một nghiên cứu trên chuột cho thấy nhịn ăn 
cách ngày làm giảm béo phì và chuyển mỡ trắng 
thành nâu(23). Một điều lí thú trong nghiên cứu 
này là khi cấy ghép vi khuẩn chí của các chuột 
thử nghiệm sang các con chuột khác thì cũng 
giúp cải thiện chuyển hóa chất. Điều này gợi ý 
lợi ích của chế độ nhịn ăn cũng thông qua cơ chế 
vi khuẩn chí đường ruột. 
Như đã lí giải ở trên, không phải toàn bộ lợi 
ích của khẩu phần ăn hạn chế và nhịn ăn gián 
đoạn là do giảm cân và do giảm khối lượng mỡ 
trong cơ thể và chủ yếu là do sự thay đổi về 
chuyển hóa chất trong cơ thể. Tuy nhiên lợi ích 
của nhịn ăn gián đoạn một phần cũng là do 
giảm cân: Những lợi ích từ giảm cân bao gồm cải 
thiện kiểm soát đường huyết, huyết áp và nhịp 
tim; hiệu quả của tập luyện sức bền(24,25) và giảm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Tổng Quan 
 4
mỡ bụng. 
TÁC DỤNG CỦA VIỆC NHỊN ĂN GIÁN 
ĐOẠN ĐỐI VỚI SỨC KHỎE VÀ SỰ LÃO HÓA 
Cho đến gần đây, các nghiên cứu về hạn chế 
calo và nhịn ăn gián đoạn tập trung vào lão hóa 
và tuổi thọ. Sau gần một thế kỷ nghiên cứu về 
hạn chế calo ở động vật, kết luận chung là việc 
giảm lượng thức ăn làm tăng rõ rệt tuổi thọ. 
Trong một trong những nghiên cứu sớm 
nhất về việc nhịn ăn gián đoạn, Goodrick và các 
đồng nghiệp đã báo cáo rằng tuổi thọ trung bình 
của chuột tăng lên tới 80% khi chúng được duy 
trì chế độ cho nhịn ăn cách ngày, bắt đầu khi 
chúng còn nhỏ. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng 
của việc hạn chế calo đối với tuổi thọ và tuổi thọ 
thay đổi và có thể bị ảnh hưởng bởi giới tính, chế 
độ ăn uống, tuổi tác và các yếu tố di truyền(10). 
Phân tích tổng hợp dữ liệu có sẵn từ năm 1934 
đến 2012 cho thấy hạn chế calo tăng tuổi thọ 
trung bình từ 14 đến 45% ở chuột cống nhưng 
chỉ từ 4 đến 27% ở chuột nhắt(26). Một nghiên cứu 
về 41 dòng chuột tái tổ hợp cho thấy sự thay đổi 
rộng, từ tuổi thọ kéo dài đến tuổi thọ rút ngắn, 
tùy thuộc vào chủng chuột và giới tính(27,28). Tuy 
nhiên, nghiên cứu chỉ sử dụng một loại chế độ 
hạn chế calo (hạn chế 40%) và không đánh giá 
các chỉ số sức khỏe, nguyên nhân tử vong hoặc 
cơ chế nền. Có một mối quan hệ nghịch đảo giữa 
giảm khối lượng mỡ trong cơ thể và tuổi thọ(28). 
Điều này có nghĩa là chuột giảm nhiều khối 
lượng mỡ trong cơ thể, là chuột bị chuyển nhanh 
qua trạng thái bị bỏ đói khi bị đưa vào khẩu 
phần ăn hạn chế, sẽ bị giảm tuổi thọ khi, trong 
khi chuột ít bị giảm khối lượng mỡ sẽ có tuổi thọ 
kéo dài. 
Hai nghiên cứu quan trọng trên khỉ cho kết 
quả khác nhau gây nghi ngại về sự liên quan 
hạn chế calo đến kéo dài tuổi thọ sức khỏe và 
kéo dài tuổi thọ chung. Nghiên cứu tại Đại học 
Wisconsin, cho thấy tác động tích cực của hạn 
chế calo đối đến sức khỏe và sự sống còn(29), 
trong khi đó nghiên cứu tại Viện Lão hóa Quốc 
gia, cho thấy không có sự giảm có ý nghĩa về 
tỷ lệ tử vong, mặc dù có sự cải thiện rõ rệt về 
sức khỏe(30). Sự khác biệt calo trong khẩu phần 
ăn hàng ngày, thời điểm bắt đầu can thiệp, 
khẩu phần ăn, chế độ cho ăn, giới tính và di 
truyền có thể giải thích các tác động khác biệt 
của việc hạn chế calo đối với tuổi thọ trong hai 
nghiên cứu này(10). 
Ở người, các biện pháp can thiệp nhịn ăn 
gián đoạn làm giảm béo phì, đề kháng insulin, 
rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và viêm(31). Có 
lẽ việc nhịn ăn gián đoạn đem lại lợi ích sức 
khỏe ở mức độ lớn hơn lợi ích của giảm lượng 
calo trong khẩu phần ăn đơn thuần. Trong một 
thử nghiệm, 16 người tham gia khỏe mạnh được 
chỉ định chế độ nhịn ăn cách ngày trong 22 ngày 
chỉ giảm 2,5% trọng lượng ban đầu và 4% khối 
lượng chất béo, nhưng giảm đến 57% nồng độ 
insulin lúc đói(32). Trong thử nghiệm khác, phụ 
nữ thừa cân (khoảng 100 phụ nữ trong mỗi thử 
nghiệm) được chỉ định theo chế độ nhịn ăn gián 
đoạn 5: 2 hoặc giảm 25% lượng calo tiêu thụ 
hàng ngày. Phụ nữ trong hai nhóm giảm cân 
như nhau trong thời gian 6 tháng, nhưng những 
người trong nhóm nhịn ăn gián đoạn 5: 2 có tăng 
độ nhạy cảm với insulin và giảm vòng eo nhiều 
hơn(25,33). 
NHỊN ĂN GIÁN ĐOẠN VÀ KHÁNG STRESS 
Khác với con người hiện đại, tổ tiên loài 
người không có ba bữa ăn chính và cá ... oạt 
động sáng tạo, trí tưởng tượng, ngôn ngữ và các 
thay đổi về thể chất cho phép con người đi xa 
hơn để săn bắt thú(9). 
Như vậy hầu hết các cơ quan đều phản ứng 
với việc nhịn ăn gián đoạn bằng cách cho phép 
sinh vật chịu đựng thử thách và sau đó hồi phục 
cân bằng nội môi. Trải qua các giai đoạn nhịn ăn 
nhiều lần sẽ hình thành phản ứng thích nghi, tạo 
ra sức đề kháng cho những thử thách tiếp theo. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 5
Các tế bào phản ứng với việc nhịn ăn gián đoạn 
bằng cách tham gia vào phản ứng thích ứng với 
stress dẫn đến tăng biểu hiện bảo vệ chống oxy 
hóa, sửa chữa DNA, kiểm soát chất lượng 
protein, sinh tổng hợp ty thể và tự thực, và điều 
chỉnh làm giảm viêm. Những phản ứng thích 
nghi với chu kì nhịn ăn và cho ăn được bảo tồn 
trên các ngành động vật khác nhau(12). Ở động 
vật với chế độ nhịn ăn gián đoạn, tế bào trên 
người và ở não có chức năng được cải thiện và 
khả năng chống lại một loạt các xâm hại, bao 
gồm stress về chuyển hóa, oxy hóa, ion , chấn 
thương và độc tính protein(14). Nhịn ăn gián đoạn 
kích thích tự thực và ức chế con đường tổng hợp 
protein mTOR (mammalian target of 
rapamycin). Những phản ứng này cho phép các 
tế bào loại bỏ các protein và ty thể bị tổn thương 
do oxy hóa và tái tạo các thành phần phân tử 
không bị hư hại trong khi tạm thời giảm tổng 
hợp protein để bảo tồn năng lượng và phân tử 
hóa học. Những con đường này không được 
khai thác hoặc bị ức chế ở những người ăn quá 
nhiều và ít vận động. 
TÁC DỤNG CỦA NHỊN ĂN GIÁN ĐOẠN 
LÊN THỂ CHẤT VÀ NHẬN THỨC 
Ở động vật và con người, chức năng thể chất 
được cải thiện với việc nhịn ăn gián đoạn. Ví dụ, 
mặc dù có trọng lượng cơ thể tương tự, những 
con chuột được nhịn ăn cách ngày có sức bền 
trong chạy nhảy tốt hơn những con chuột có chế 
độ ăn không hạn chế. Cân bằng và phối hợp 
cũng được cải thiện ở động vật được nhịn ăn ở 
thời gian trong ngày hoặc chế độ nhịn ăn cách 
ngày(34). Các thanh niên nhịn ăn 16 giờ mỗi ngày 
sẽ giảm mỡ trong khi vẫn duy trì khối lượng cơ 
bắp trong 2 tháng luyện tập với kháng lực(35). 
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy việc 
nhịn ăn gián đoạn giúp tăng cường nhận thức 
trong nhiều lĩnh vực, bao gồm trí nhớ không 
gian, trí nhớ kết hợp và trí nhớ làm việc(36); 
nhịn ăn cách ngày và hạn chế calo hàng ngày 
đảo ngược các tác động bất lợi của béo phì, 
tiểu đường và viêm thần kinh đối với trí nhớ 
không gian. 
Trong một thử nghiệm lâm sàng, những 
người lớn tuổi với chế độ ăn hạn chế calo trong 
thời gian ngắn đã cải thiện trí nhớ lời nói(37). 
Trong một nghiên cứu liên quan đến người 
trưởng thành thừa cân bị suy giảm nhận thức 
nhẹ, 12 tháng hạn chế calo dẫn đến cải thiện trí 
nhớ bằng lời nói, chức năng điều hành và nhận 
thức chung(38). Gần đây, một thử nghiệm lâm 
sàng lớn, đa trung tâm, ngẫu nhiên cho thấy 2 
năm hạn chế calo hàng ngày làm cải thiện đáng 
kể trí nhớ làm việc(39). Chắc chắn cần phải thực 
hiện các nghiên cứu sâu hơn về việc nhịn ăn và 
nhận thức gián đoạn ở người lớn tuổi, đặc biệt là 
sự chưa có điều trị bằng thuốc nào có thể cải 
thiện được sự già hóa của não và tiến triển của 
bệnh thoái hóa thần kinh(14). 
CÂN NHẮC THỰC TẾ 
Ở người có 3 chế độ ăn nhịn ăn gián đoạn 
được nghiên cứu rộng rãi là chế độ nhịn ăn cách 
ngày (ăn bình thường một ngày và nhịn ăn một 
ngày), nhịn ăn gián đoạn 5:2 (nhịn ăn 2 ngày mỗi 
tuần) và ăn trong khoảng thời gian hạn chế trong 
ngày (ăn trong cửa sổ thời gian từ 4 đến 8 tiếng 
và nhịn đói liên tục từ 16-20 giờ trong ngày). 
Mặc dù có bằng chứng về lợi ích sức khỏe của 
việc nhịn ăn gián đoạn và khả năng áp dụng đối 
với nhiều bệnh, có những trở ngại đối với việc 
áp dụng rộng rãi các kiểu ăn uống này trong 
cộng đồng và bệnh nhân. Đầu tiên, chế độ ăn 
kiêng ba bữa với bữa phụ mỗi ngày đã ăn sâu 
vào văn hóa của chúng ta đến nỗi một sự thay 
đổi trong mô hình ăn uống này ít khi được xem 
xét bởi bệnh nhân hoặc bác sĩ. Ở người chấp 
nhận chế độ ăn 3 buổi trong ngày thì việc bỏ qua 
bữa ăn sáng, chỉ ăn buổi trưa và buổi chiều thì 
đã là thực hiện việc ăn trong khoảng thời gian 
hạn chế trong ngày. Một nghiên cứu cho thấy ở 
người muốn giảm cân sau 12 tuần điều trị nhóm 
bỏ qua bữa ăn sáng giảm cân được 8,9 kg và 
nhóm có ăn sáng chỉ giảm 6,2 kg(40). Một bài viết 
cho cộng đồng do Bs Tello gợi ý mỗi người nên 
xem xét dạng nhịn ăn gián đoạn đơn giản nhất 
như giới hạn khoảng thời gian chúng ta ăn trong 
ngày, thí dụ như chỉ ăn từ 10 giờ sáng đến 6 giờ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Tổng Quan 
 6
tối để có thể sử dụng các thông tin khoa học này 
nhằm cải thiện sức khỏe(41). Tuy nhiên sự phong 
phú và tiếp thị rộng rãi của thực phẩm ở các 
quốc gia phát triển cũng là những trở ngại lớn 
cần phải vượt qua. 
Thứ hai, khi chuyển sang chế độ nhịn ăn 
gián đoạn, nhiều người sẽ bị đói, khó chịu và 
giảm khả năng tập trung trong thời gian hạn chế 
thực phẩm. Tuy nhiên, những tác dụng phụ ban 
đầu này thường biến mất trong vòng 1 tháng và 
bệnh nhân nếu được thông báo về điều này sẽ 
dễ dàng vượt qua hơn(25,33). 
Thứ ba, hầu hết các bác sĩ không được đào 
tạo để chỉ định các can thiệp nhịn ăn gián đoạn 
cụ thể. Các bác sĩ có thể khuyên bệnh nhân dần 
dần, trong khoảng thời gian vài tháng, giảm 
khoảng thời gian cho phép được ăn uống trong 
ngày, với mục tiêu nhịn ăn từ 16 đến 18 giờ mỗi 
ngày. Ngoài ra, các bác sĩ có thể khuyên bệnh 
nhân thực hiện chế độ ăn kiêng nhịn ăn 5:2, với 
900 đến 1000 calo tiêu thụ 1 ngày mỗi tuần trong 
tháng đầu tiên và sau đó 2 ngày mỗi tuần trong 
tháng thứ hai, sau đó giảm thêm 750 calo 2 ngày 
mỗi tuần cho tháng thứ ba và cuối cùng, 500 calo 
2 ngày mỗi tuần trong tháng thứ tư. Cần có sự tư 
vấn và giáo dục của chuyên gia dinh dưỡng để 
đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân 
đang được đáp ứng. Tương tự với các can thiệp 
lối sống khác, điều quan trọng là các bác sĩ cung 
cấp thông tin đầy đủ, tiếp tục truyền thông và hỗ 
trợ liên tục cũng như thường xuyên phản hồi 
tích cực cho bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Các nghiên cứu trên mô hình động vật và 
trên người đã cho thấy nhịn ăn gián đoạn đem 
lại nhiều lợi ích cho nhiều bệnh lí khác nhau như 
béo phì, đái tháo đường, bệnh tim mạch, ung 
thư và rối loạn thần kinh. Mặc dù các mô hình 
động vật cho thấy việc nhịn ăn gián đoạn giúp 
cải thiện sức khỏe trong toàn bộ vòng đời, 
những nghiên cứu lâm sàng trên con người chủ 
yếu liên quan đến các can thiệp ngắn hạn, chỉ 
trong một vài tháng. Vì vậy vẫn còn phải xác 
định con người có thể duy trì việc nhịn ăn gián 
đoạn trong nhiều năm và đạt được các lợi ích từ 
chế độ ăn này tương tự như súc vật hay không. 
Hơn nữa, các nghiên cứu trên con người tập 
trung chủ yếu vào những người trẻ tuổi và trung 
niên thừa cân, và chúng ta không thể khái quát 
lợi ích và sự an toàn của việc nhịn ăn gián đoạn 
từ các nghiên cứu này cho các nhóm tuổi khác. 
Nhiều người không thể hoặc không sẵn 
lòng tuân thủ chế độ nhịn ăn gián đoạn dù các 
lợi ích do nó đem lại. Với sự hiểu biết rõ hơn 
cơ chế của sự liên quan giữa nhịn ăn gián đoạn 
và lợi ích sức khỏe, sự thay đổi quá trình trao 
dổi chất và đề kháng stress của tế bào, chúng 
ta có thể phát triển các loại thuốc để đạt được 
lợi ích của nhịn ăn gián đoạn mà không cần 
thay đổi đáng kể thói quen cho ăn. Các nghiên 
cứu về cơ chế hạn chế calo và nhịn ăn gián 
đoạn trong mô hình động vật đã dẫn đến sự 
phát triển và thử nghiệm các biện pháp can 
thiệp bằng thuốc đem lại lợi ích về sức khỏe và 
điều chỉnh bệnh bắt chước lợi ích của việc nhịn 
ăn gián đoạn. Một số chất gây ảnh hưởng đến 
quá trình trao đổi chất (2-deoxyglucose, 
metformin), thuốc tăng cường sinh tổng hợp ty 
thể (ketone ester hoặc nicotinamide riboside), 
hoặc ức chế đường dẫn mTOR. Tuy nhiên cho 
đến nay sự an toàn và hiệu quả của các 
phương pháp điều trị bằng thuốc này vẫn kém 
hơn so với việc nhịn ăn gián đoạn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Schiff W (2011). Nutrition for healthy living, 2nd ed. New York: 
McGraw-Hill. 
2. Chiang Z (2018). Eat Breakfast Like a King. URL: 
https://www.diabetes.org.sg/resources/0412-eat.pdf. 
3. Weindruch R, Walford RL (1982). Dietary restriction in mice 
beginning at 1 year of age: effect on life-span and spontaneous 
cancer incidence. Science, 215(4538):1415-1418. 
4. Weindruch R, Sohal RS (1997). Seminars in medicine of the Beth 
Israel Deaconess Medical Center. Caloric intake and aging. N 
Engl J Med, 337(14):986-994. 
5. de Cabo R, Mattson MP (2019). Effects of Intermittent Fasting on 
Health, Aging, and Disease. N Engl J Med, 381(26):2541-2551. 
6. Panda S (2016). Circadian physiology of metabolism. Science, 
354(6315):1008-1015. 
7. Mattson MP, Moehl K, Ghena N, Schmaedick M, Cheng A 
(2018). Intermittent metabolic switching, neuroplasticity and 
brain health. Nat Rev Neurosci, 19(2):63-80. 
8. Di Francesco A, Di Germanio C, Bernier M, de Cabo R (2018). A 
time to fast. Science, 362(6416):770-775. 
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 7
9. Mattson MP (2019). An Evolutionary Perspective on Why Food 
Overconsumption Impairs Cognition. Trends Cogn Sci, 23(3):200-
212. 
10. Mattison JA, Colman RJ, Beasley TM, et al (2017). Caloric 
restriction improves health and survival of rhesus monkeys. Nat 
Commun, 8:14063-14063. 
11. Meynet O, Ricci JE (2014). Caloric restriction and cancer: 
molecular mechanisms and clinical implications. Trends Mol 
Med, 20(8):419-427. 
12. Speakman JR, Mitchell SE (2011). Caloric restriction. Mol Aspects 
Med, 32(3):159-221. 
13. Anton SD, Moehl K, Donahoo WT, et al (2018). Flipping the 
Metabolic Switch: Understanding and Applying the Health 
Benefits of Fasting. Obesity (Silver Spring), 26(2):254-268. 
14. Mattson MP, Arumugam TV (2018). Hallmarks of Brain Aging: 
Adaptive and Pathological Modification by Metabolic States. 
Cell Metab, 27(6):1176-1199. 
15. Cahill GF (1970). Starvation in man. N Engl J Med, 282(12):668-
675. 
16. Patel S, Alvarez-Guaita A, Melvin A, et al (2019). GDF15 
Provides an Endocrine Signal of Nutritional Stress in Mice and 
Humans. Cell Metab, 29(3):707-718.e708. 
17. Browning JD, Baxter J, Satapati S, Burgess SC (2012). The effect 
of short-term fasting on liver and skeletal muscle lipid, glucose, 
and energy metabolism in healthy women and men. J Lipid Res, 
53(3):577-586. 
18. Newman JC, Verdin E (2017). β-Hydroxybutyrate: A Signaling 
Metabolite. Annu Rev Nutr, 37:51-76. 
19. Fisher FM, Maratos-Flier E (2016). Understanding the 
Physiology of FGF21. Annu Rev Physiol, 78:223-241. 
20. 20. Gälman C, Lundåsen T, Kharitonenkov A, et al (2008). The 
circulating metabolic regulator FGF21 is induced by prolonged 
fasting and PPARalpha activation in man. Cell Metab, 8(2):169-
174. 
21. Imai SI, Guarente L (2016). It takes two to tango: NAD(+) and 
sirtuins in aging/longevity control. NPJ Aging Mech Dis, 2:16017-
16017. 
22. Lee HC (2001). Physiological functions of cyclic ADP-ribose and 
NAADP as calcium messengers. Annu Rev Pharmacol Toxicol, 
41:317-345. 
23. Li G, Xie C, Lu S, et al (2017). Intermittent Fasting Promotes 
White Adipose Browning and Decreases Obesity by Shaping 
the Gut Microbiota. Cell Metab, 26(4):672-685.e674. 
24. Anson RM, Guo Z, de Cabo R, et al (2003). Intermittent fasting 
dissociates beneficial effects of dietary restriction on glucose 
metabolism and neuronal resistance to injury from calorie 
intake. Proc Natl Acad Sci USA, 100(10):6216-6220. 
25. Harvie M, Wright C, Pegington M, et al (2013). The effect of 
intermittent energy and carbohydrate restriction v. daily energy 
restriction on weight loss and metabolic disease risk markers in 
overweight women. Br J Nutr, 110(8):1534-1547. 
26. Swindell WR (2012). Dietary restriction in rats and mice: a meta-
analysis and review of the evidence for genotype-dependent 
effects on lifespan. Ageing Res Rev, 11(2):254-270. 
27. Liao CY, Rikke BA, Johnson TE, Diaz V, Nelson JF (2010). 
Genetic variation in the murine lifespan response to dietary 
restriction: from life extension to life shortening. Aging Cell, 
9(1):92-95. 
28. Liao CY, Rikke BA, Johnson TE, Gelfond JAL, Diaz V, Nelson JF 
(2011). Fat maintenance is a predictor of the murine lifespan 
response to dietary restriction. Aging Cell, 10(4):629-639. 
29. Colman RJ, Anderson RM, Johnson SC, et al (2009). Caloric 
restriction delays disease onset and mortality in rhesus 
monkeys. Science, 325(5937):201-204. 
30. Mattison JA, Roth GS, Beasley TM, et al (2012). Impact of caloric 
restriction on health and survival in rhesus monkeys from the 
NIA study. Nature, 489(7415):318-321. 
31. Redman LM, Smith SR, Burton JH, Martin CK, Il'yasova D, 
Ravussin E (2018). Metabolic Slowing and Reduced Oxidative 
Damage with Sustained Caloric Restriction Support the Rate of 
Living and Oxidative Damage Theories of Aging. Cell Metab, 
27(4):805-815.e804. 
32. Heilbronn LK, Smith SR, Martin CK, Anton SD, Ravussin E 
(2005). Alternate-day fasting in nonobese subjects: effects on 
body weight, body composition, and energy metabolism. Am J 
Clin Nutr, 81(1):69-73. 
33. Harvie MN, Pegington M, Mattson MP, et al (2011). The effects 
of intermittent or continuous energy restriction on weight loss 
and metabolic disease risk markers: a randomized trial in young 
overweight women. Int J Obes, 35(5):714-727. 
34. Chaix A, Zarrinpar A, Miu P, Panda S (2014). Time-restricted 
feeding is a preventative and therapeutic intervention against 
diverse nutritional challenges. Cell Metab, 20(6):991-1005. 
35. Moro T, Tinsley G, Bianco A, et al (2016). Effects of eight weeks 
of time-restricted feeding (16/8) on basal metabolism, maximal 
strength, body composition, inflammation, and cardiovascular 
risk factors in resistance-trained males. J Transl Med, 14(1):290-
290. 
36. Wahl D, Coogan SC, Solon-Biet SM, et al (2017). Cognitive and 
behavioral evaluation of nutritional interventions in rodent 
models of brain aging and dementia. Clin Interv Aging, 12:1419-
1428. 
37. Witte AV, Fobker M, Gellner R, Knecht S, Flöel A (2009). Caloric 
restriction improves memory in elderly humans. Proc Natl Acad 
Sci USA, 106(4):1255-1260. 
38. Horie NC, Serrao VT, Simon SS, et al (2016). Cognitive Effects of 
Intentional Weight Loss in Elderly Obese Individuals With Mild 
Cognitive Impairment. J Clin Endocrinol Metab, 101(3):1104-1112. 
39. Leclerc E, Trevizol AP, Grigolon RB, et al (2020). The effect of 
caloric restriction on working memory in healthy non-obese 
adults. CNS Spectr, 25(1):2-8. 
40. Schlundt DG, Hill JO, Sbrocco T, Pope-Cordle J, Sharp T (1992). 
The role of breakfast in the treatment of obesity: a randomized 
clinical trial. Am J Clin Nutr, 55(3):645-651. 
41. Tello M (2020). Intermittent fasting: Surprising update. URL: 
https://www.health.harvard.edu/blog/intermittent-fasting-
surprising-update-2018062914156. 
Ngày nhận bài báo: 05/03/2020 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020 

File đính kèm:

  • pdfnhin_an_gian_doan_anh_huong_len_tuoi_tho_va_suc_khoe.pdf