Nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ sanh tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2006

Một khảo sát gồm 605 ca mổ sanh được tiến hành tại bệnh viện phụ sản Hùng Vương nhằm xác định các đặc

điểm dịch tễ học của nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) sau mổ sanh. Tỉ lệ NKVM trong thời gian nằm viện là 3.3%

(KTC 95%: 1.9 – 4.7), trong đó viêm nội mạc tử cung chiếm gần một nữa. Nhóm sản phụ có chỉ số nguy cơ bệnh

nhân là 1 có khả năng bị NKVM cao hơn nhóm không có nguy cơ 3.4 lần (KTC 95%: 1.3 – 8.5), và ngoài ra, nếu

thời gian vỡ ối tăng mỗi 6 giờ, thì nguy cơ bị NKVM tăng 1.3 lần (KTC 95%: 1.1 – 1.5).

pdf 5 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ sanh tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2006", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ sanh tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2006

Nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ sanh tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2006
NHIỄM KHUẨN VẾT MỔ SAU MỔ SANH 
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG NĂM 2006 
Nguyễn Văn Trương 
Một khảo sát gồm 605 ca mổ sanh được tiến hành tại bệnh viện phụ sản Hùng Vương nhằm xác định các đặc 
điểm dịch tễ học của nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) sau mổ sanh. Tỉ lệ NKVM trong thời gian nằm viện là 3.3% 
(KTC 95%: 1.9 – 4.7), trong đó viêm nội mạc tử cung chiếm gần một nữa. Nhóm sản phụ có chỉ số nguy cơ bệnh 
nhân là 1 có khả năng bị NKVM cao hơn nhóm không có nguy cơ 3.4 lần (KTC 95%: 1.3 – 8.5), và ngoài ra, nếu 
thời gian vỡ ối tăng mỗi 6 giờ, thì nguy cơ bị NKVM tăng 1.3 lần (KTC 95%: 1.1 – 1.5). 
Surgical site infection following cesarean section in HungVuong hospital 
A  survey  including  605  cesarean  deliveries  was  conducted  in  HungVuong  Obstetric  and  Gynecological 
Hospital  to  identify  the  epidemiological  characteristics  of  surgical  site  infection  (SSI)  following  cesarean 
section. The rate of SSI diagnosed prior to discharge was 3.3% (95%CI: 1.9 – 4.7) and a half was endometritis. 
Women having patient risk  index of 1 were more  likely  to have SSI compared  to  those who were not at risk 
(OR = 3.4, 95%CI: 1.3 – 8.5), in addition, for every 6‐hour increase in duration of rupture of membranes, risk of 
having SSI increased 1.3 times (95%CI: 1.1 – 1.5). 
Khoa Chống nhiễm khuẩn, Bệnh viện Hùng Vương, 128 Hồng Bàng, Quận 05, Tp. HCM (NV Trương ThS.BS) 
Liên hệ: NV Trương (email: [email protected]) 
Đặt vấn đề 
Nhiễm  khuẩn  vết mổ  (NKVM)  là  loại  nhiễm 
khuẩn bệnh viện thường gặp thứ ba tại Hoa Kỳ 
[1]. Trong một điều tra tại 6 bệnh viện thuộc các 
tỉnh phía Nam Việt Nam vào năm 2005, NKVM 
chiếm  vị  trí  thứ  hai  trong  các  nhiễm  khuẩn 
bệnh  viện  [2]. Các  khảo  sát  tại  các nước phát 
triển cũng như tại Việt Nam cho thấy NKVM là 
biến  chứng  nặng,  làm  kéo  dài  thời  gian  nằm 
viện và tăng chi phí điều trị [3‐4].  
  Bệnh  viện Hùng Vương  tại  thành  phố Hồ 
Chí Minh  là  bệnh  viện  chuyên  khoa  phụ  sản 
với hơn 30.000  ca  sanh  trong năm 2006,  trong 
đó  số mổ  sanh vào khoảng  9.000  trường hợp. 
Với một  số  lượng  lớn những  ca mổ  sanh như 
vậy, NKVM  đã  trở  thành vấn đề có  tầm quan 
trọng  đặc  biệt.  Trong  các  đơn  vị  sản  khoa, 
NKVM là loại nhiễm khuẩn bệnh viện hay gặp 
nhất  [5].  Các  chương  trình  giám  sát  NKVM 
kèm với phản hồi thông tin thích hợp cho phẫu 
thuật viên được chứng minh là một thành phần 
quan trọng trong chiến lược làm giảm nguy cơ 
NKVM  [6]. Một chương  trình giám sát NKVM 
như vậy trong sản phụ khoa đã được tiến hành 
tại Thụy Điển và sau 9 tháng triển khai đã làm 
giảm tỉ lệ NKVM từ 14% xuống còn 9% [7]. 
  Các  thông  tin dịch tễ về nhiễm khuẩn bệnh 
viện  tại  Việt  Nam  còn  rất  hạn  chế,  đặc  biệt 
trong  lĩnh  vực  sản  phụ  khoa.  Điều  tra  này 
nhằm  xác  định  các  đặc  điểm  dịch  tễ  học  của 
NKVM  sau  mổ  sanh  tại  bệnh  viện  Hùng 
Vương,  từ đó cung cấp  thông  tin để  tiến hành 
xây  dựng một  chương  trình  giám  sát NKVM 
hiệu quả. 
Phương pháp 
Đây  là một  khảo  sát  loại  cohort  đơn  tiền  cứu 
gồm những sản phụ đang trong thời gian nằm 
viện. Nghiên cứu được thiết kế theo các tiêu chí 
của một  điều  tra  giám  sát nhiễm  khuẩn  bệnh 
viện, cụ  thể  là đơn giản, chi phí  thấp, khả  thi, 
và có thể thực hiện lại theo chu kỳ [8]. 
  Cỡ mẫu  được  tính  sao  cho  ước  lượng  tỉ  lệ 
NKVM ở mức tin cậy 95% có sai số vào khoảng 
1%.  Tất  cả  các  trường  hợp mổ  sanh  tại  bệnh 
viện Hùng Vương trong thời gian điều tra đều 
được khảo sát. Thông tin từ mỗi sản phụ được 
ghi  nhận  vào một  phiếu  điều  tra  riêng  gồm 
những câu hỏi đã được cấu trúc sẵn. Thực hiện 
thu thập số liệu là các điều tra viên thuộc mạng 
lưới chống nhiễm khuẩn của bệnh viện. Tất cả 
đã  được  huấn  luyện  để  chuẩn  hóa  các  định 
nghĩa  của  các  biến  số  cần  thu  thập,  gồm  các 
thông  tin  liên  quan  đến  đặc  điểm  cơ  bản  của 
sản phụ,  thông  tin của ca phẫu  thuật, và hình 
thức sử dụng kháng sinh. Thông  tin được  thu 
thập vào ngày  thứ ba và ngày  thứ năm  trong 
thời  gian  hậu  phẫu.  Đối  với  các  trường  hợp 
NKVM,  do  thời  gian  nằm  viện  dài  hơn,  các 
thông  tin  vào  ngày  xuất  viện  được  thu  thập 
thêm.  
  NKVM được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của 
CDC năm 1992 [9]. Các tiêu chuẩn này được liệt 
kê  trong phiếu điều  tra, và điều  tra viên được 
yêu cầu đánh dấu vào  tiêu chuẩn đã dùng để 
chẩn đoán NKVM. Trong tất cả các trường hợp, 
chẩn đoán của bác sĩ điều trị được xem là tiêu 
chuẩn chẩn đoán. Các xét nghiệm cần  thiết để 
xác  định  chẩn  đoán  do  bác  sĩ  điều  trị  quyết 
định. 
  Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các 
đặc điểm của mẫu được khảo sát. Tỉ lệ NKVM 
được  tính  cho mỗi  100  ca mổ  sanh  trong  thời 
gian  nằm  viện.  Tỉ  lệ  này  cũng  được  báo  cáo 
theo  từng nhóm nguy cơ đặc hiệu, cụ  thể như 
theo  thang  điểm ASA  đánh giá nguy  cơ bệnh 
nhân  trước phẫu  thuật  [10],  theo phân  loại độ 
nhiễm vết thương phẫu thuật kinh điển [11] và 
cải biên của Emmons [12], và theo chỉ số nguy 
cơ phẫu  thuật của bệnh nhân  [13]. Chỉ  số này 
thay đổi từ 0 đến 3, là tổng số các yếu tố nguy 
cơ sau: (1) bệnh nhân có thang điểm ASA trước 
mổ  lớn hơn 2, (2) phẫu thuật thuộc loại nhiễm 
hoặc bẩn  theo phân  loại kinh điển, và  (3)  thời 
gian mổ sanh kéo dài quá 45 phút.  
  Thực  hiện  phân  tích  thăm  dò  các  yếu  tố 
nguy cơ của NKVM sau mổ sanh đã được xác 
định  theo  y  văn  [14‐15]  để  chọn  lựa  các  biến 
cho  mô  hình  hồi  qui  logistic  đa  biến  theo 
phương  pháp  được  mô  tả  bởi  Hosmer  và 
Lemeshow  [16].  Số  liệu  được  nhập  vào máy 
tính bằng phần mềm Microsoft Excel. Tất cả các 
phân  tích  được  thực  hiện  với  phần  mềm 
STATA 6 (Stata Corp, College Station, TX).  
Bảng 1. Một số đặc điểm cơ bản của các ca mổ sanh 
Đặc điểm N = 605 ca 
Tuổi (năm) 29.2 ± 5.4 
Địa chỉ 
TPHCM 75.2 
Tỉnh khác 24.8 
Số con sống đang có 
Không 58.0 
1 36.2 
>1 5.8 
Cân nặng (kg) 61.7 ± 8.2 
Chiều cao (cm) 154.1 ± 4.9 
Nồng độ Hb (g/L) trước mổ 125.6 ± 12.7 
Số liệu trong bảng được trình bày là tỉ lệ phần trăm 
hoặc trung bình ± độ lệch chuẩn 
Kết quả 
Từ  tháng 9  đến  tháng 10 năm 2006, đã có 605 
trường hợp mổ  sanh được khảo sát. Trong đó 
có 15% là mổ chủ động (89 ca). Các đặc điểm cơ 
bản  của mẫu  khảo  sát  được  trình  bày  cụ  thể 
trong Bảng 1.  
  Tỉ  lệ  chuyển  sang  sử dụng  loại kháng  sinh 
mạnh  hơn  do  được  nhận  định  có  diễn  tiến 
nhiễm khuẩn  trong  thời gian hậu phẫu  chiếm 
đến  7.8%  (47  ca),  trong  số  này  có  1  ca nhiễm 
khuẩn niệu. Đã có 26 ca được bác sĩ điều trị đổi 
kháng  sinh  như  trên,  nhưng  chúng  tôi  đã 
không  chẩn  đoán  là  có NKVM vì  không  thỏa 
đáng. Nếu chấp nhận 26 ca này thỏa tiêu chuẩn 
“chẩn đoán của bác sĩ điều trị có nhiễm khuẩn” 
thì  tỉ  lệ NKVM  là 7.6%  (46 ca). Trong số 26 ca 
này, 12 ca được đổi kháng sinh vì “vết mổ nề”, 
mặc dù những ca này không sốt, không có các 
bằng  chứng nhiễm khuẩn  trên vi  sinh và  sinh 
hóa, và thời gian nằm viện cũng không tăng so 
với nhóm còn lại (7 đến 8 ngày). Có 1 ca do có 
sốt  trong chuyển dạ, và có 1 ca sốt duy nhất 3 
giờ  vào  ngày  5  của  hậu  phẫu,  và  không  tìm 
thấy  lý do.  12  ca  còn  lại  là do CRP  tăng  đơn 
thuần  vào  ngày  thứ  3  hậu  phẫu,  không  kèm 
theo  các biểu hiện khác  của nhiễm khuẩn. Do 
vậy, nếu loại bỏ 26 ca đã phân tích như trên, chỉ 
có  20  ca NKVM  sau mổ  sanh  trong  thời  gian 
nằm viện, chiếm tỉ lệ 3.3% (KTC 95%: 1.9 – 4.7). 
  Theo  tiêu chuẩn chẩn đoán của CDC, trong 
12 ca NKVM nông, có 4 ca chảy mủ từ vết mổ, 
8 ca còn  lại do bác  sĩ  điều  trị chẩn  đoán,  có 3 
trường hợp được gửi cấy vi sinh dịch từ vết mổ 
và cả 3 đều không phân lập được vi khuẩn. Tất 
cả 8 ca được chẩn đoán  là NKVM  tại cơ quan 
hoặc tại khoang cơ thể đều là viêm nội mạc tử 
cung, trong đó có 3 ca được gửi sản dịch để cấy 
tìm vi khuẩn. Kết quả có 1 mẫu vi khuẩn không 
mọc,  2  trường  hợp  còn  lại  phân  lập  được 
Serratia odorifera và Escherichiea coli. 
  Tỉ  lệ  NKVM  cũng  được  báo  cáo  theo  các 
nguy  cơ đã  được xác nhận  trong y văn  (Bảng 
2). Chỉ có 23 ca  (3.8%) có điểm ASA ghi nhận 
theo đánh giá của bác sĩ gây mê thuộc nhóm 2; 
và  trong  nhóm  này  không  có  ca NKVM  nào. 
Theo phân loại vết mổ kinh điển [11], phần lớn 
các ca mổ sanh thuộc nhóm sạch nhiễm, chỉ có 
9 ca (1.5%) là mổ nhiễm và không quan sát thấy 
có  trường  hợp  NKVM  nào  trong  nhóm  này. 
Phân  loại vết  thương có cải biên dành cho mổ 
sanh  của  Emmons  [12]  dường  như  phù  hợp 
hơn, với 48.3% các trường hợp là mổ nhiễm, và 
tỉ  lệ NKVM  trong nhóm này  cũng  cao hơn  rõ 
rệt. Chỉ số nguy cơ của bệnh nhân có thể là một 
yếu tố dự báo tốt, với tỉ lệ NKVM trong nhóm 
có chỉ số nguy cơ bằng 1 cao gấp 3  lần so với 
nhóm có chỉ số nguy cơ bằng 0. 
  Các yếu tố nguy cơ đã được xác định trong 
y văn của NKVM sau mổ sanh được phân tích 
thăm dò  để  tìm  xem mức  độ  ảnh hưởng. Kết 
quả của phân tích đơn biến được tóm tắt trong 
Bảng 3. Thời gian vỡ ối và thời gian phẫu thuật 
được phân  tích  như  biến  liên  tục. Các  yếu  tố 
như thời gian vỡ ối, thời gian phẫu thuật, dùng 
kháng  sinh  trước mổ,  và  chỉ  số  nguy  cơ  của 
bệnh  nhân  được  chọn  vào  mô  hình  hồi  qui 
logistic đầu tiên. Mô hình cuối cùng chỉ gồm 2 
yếu tố, cụ thể, sản phụ có chỉ số nguy cơ bệnh 
nhân là 1 có khả năng bị NKVM cao hơn nhóm 
không có nguy cơ 3.4  lần (KTC 95%: 1.3 – 8.5), 
và ngoài ra, nếu thời gian vỡ ối tăng mỗi 6 giờ, 
thì nguy  cơ bị NKVM  tăng 1.3  lần  (KTC 95%: 
1.1 – 1.5). 
Bàn luận 
Trong  số 605  trường hợp mổ  sanh  được quan 
sát trong thời gian nằm viện, tỉ lệ NKVM chiếm 
3.3%. Theo một điều tra vào năm 1997 tại bệnh 
viện Hùng Vương  [17],  tỉ  lệ NKVM  trong  thời 
gian  30  ngày  hậu phẫu  là  9.7%. Thật  khó  kết 
luận liệu tỉ lệ NKVM sau mổ sanh có khác biệt 
gì so với 10 năm trước. 
Bảng 2. Tỉ lệ NKVM sau mổ sanh theo các nguy cơ 
Loại nguy cơ Số ca Số ca NKVM (%) 
Điểm ASA 
1 562 20 (3.4) 
2 23 0 (0.0) 
3 KAD 
4 KAD 
Phân loại kinh điển 
sạch KAD 
sạch nhiễm 576 20 (3.4) 
nhiễm 9 0 (0.0) 
Phân loại Emmons 
sạch 87 2 (2.3) 
sạch nhiễm 220 4 (1.8) 
nhiễm 278 14 (4.8) 
Chỉ số nguy cơ 
0 489 12 (2.4) 
1 96 8 (7.7) 
2 KAD 
3 KAD 
KAD: không áp dụng 
  Vào đầu thập niên 90, Weigelt [18] đã quan 
sát thấy có đến 35% các trường hợp NKVM của 
các phẫu  thuật nói  chung  được phát hiện  sau 
khi xuất viện. Sau đó,  trong một điều  tra gồm 
469 phẫu thuật sản phụ khoa [19], có 41.7% (10 
ca) NKVM  được  phát  hiện  sau  xuất  viện. Do 
đó,  tỉ  lệ NKVM  trong  thời  gian  nằm  viện  sẽ 
thấp hơn  tỉ  lệ NKVM quan  sát  trong vòng  30 
ngày hậu phẫu theo như định nghĩa của CDC. 
  Cho đến nay, các phân tích xác định yếu tố 
nguy  cơ  của NKVM  sau mổ  sanh,  có mẫu  đủ 
lớn, vẫn chưa đề cập đến  liệu các yếu tố nguy 
cơ này có liên quan đến NKVM trong thời gian 
nằm  viện  hay  sau  khi  xuất  viện  [14,  20‐22]. 
Trong  một  nghiên  cứu  của  Schneid‐Kofman 
gồm 19.416 trường hợp mổ sanh [15], các yếu tố 
nguy  cơ  của NKVM  trong  thời gian nằm viện 
được  xác  định  gồm  béo  phì,  tiểu  đường,  cao 
huyết áp, ối vỡ sớm, mổ sanh cấp cứu, và song 
thai. Ngoại  trừ  song  thai,  các  yếu  tố  nguy  cơ 
được  nhận  diện  từ  nghiên  cứu  này  hầu  như 
không khác với những yếu  tố nguy cơ của các 
nghiên  cứu  sử  dụng  kết  cục NKVM  trong  30 
ngày hậu phẫu.  
  Điều này gợi ý rằng, nếu các yếu tố nguy cơ 
chỉ  làm  tăng NKVM trong thời gian nằm viện, 
thì  trong  tương  lai nên  tập  trung điều  tra  tỉ  lệ 
NKVM trong thời gian nằm viện, và tiến hành 
can thiệp làm giảm các yếu tố nguy cơ này, nếu 
có  thể. Một  chiến  lược như vậy  sẽ  ít  tốn kém 
hơn do  chi phí  điều  tra  thấp hơn. Tuy nhiên, 
nếu các yếu tố nguy cơ đã được xác định trong 
y văn có liên quan đến ngay cả NKVM sau xuất 
viện,  thì  chỉ  điều  tra NKVM  trong  thời  gian 
nằm  viện  là  chưa  đủ,  và  có  thể  dẫn  đến  các 
đánh giá sai lệch về hiệu quả của chương trình 
kiểm soát NKVM. 
  CDC đưa ra định nghĩa NKVM [9], trong đó 
có  sử  dụng  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  của  bác  sĩ 
điều  trị.  Tiêu  chuẩn  này  làm  tăng  khả  năng 
phát hiện NKVM khi  sử dụng  điều dưỡng  để 
thu  thập số  liệu  trong quá  trình giám sát. Tuy 
nhiên, trong thực hành tại cơ sở của chúng tôi, 
tiêu chuẩn này trở nên khá chủ quan. Áp dụng 
chẩn đoán viêm nội mạc tử cung thay đổi theo 
các bác sĩ điều trị. Nếu tuân thủ tiêu chuẩn này 
một cách máy móc, tỉ lệ NKVM là 7.6%. Chúng 
tôi hồi cứu lại hồ sơ bệnh án và cân nhắc loại bỏ 
26 ca, chỉ còn 20 ca NKVM sau mổ sanh trong 
thời gian nằm viện, chiếm tỉ lệ 3.3% (KTC 95%: 
1.9  –  4.7).  Sai  số  khi  ước  lượng  tỉ  lệ NKVM 
được giảm đến mức  tối đa có  thể được, nhằm 
tạo sự chính xác cho các so sánh về sau. 
Bảng 3. Các yếu tố nguy cơ của NKVM (phân tích đơn biến) 
Yếu tố Số ca Tỉ lệ % NKVM OR thô (KTC 95%) p-value 
Ối vỡ sớm 605 KAD a 1.3 (1.1-1.5) 0.016 
Thời gian phẫu thuật 605 KAD b 1.2 (0.9-1.7) 0.252 
Mổ chủ động 0.545 
Có 89 2.2 0.6 (0.0-2.5) 
Không 516 3.5 1.0 
Dùng KS trước mổ 0.262 
Có 202 4.5 1.7 (0.7-4.0) 
Không 403 2.7 1.0 
Chỉ số nguy cơ bn 0.014 
0 501 2.4 1.0 
1 104 7.7 3.4 (1.4-8.3) 
(a): OR cho ối vỡ lâu hơn mỗi 6 giờ 
(b): OR cho thời gian phẫu thuật lâu hơn mỗi 10 phút 
p-value của likelihood ratio test 
KAD = không áp dụng 
  Bác sĩ điều  trị chẩn đoán 46  trường hợp có 
NKVM và đã chuyển sang sử dụng kháng sinh 
mạnh  hơn,  nhưng  chỉ  có  6  ca  được  gửi  bệnh 
phẩm  đi  cấy,  và  định  danh  được  vi  khuẩn 
trong 3  trường hợp. Kháng  sinh hiện  được  sử 
dụng  theo  kinh  nghiệm,  và  thiếu  các  bằng 
chứng  xác  đáng  ủng  hộ.  Trong  điều  tra  vào 
năm  1997  của  Tran  ST,  cũng  tại  bệnh  viện 
Hùng  Vương  [17],  phân  lập  được  54  trường 
hợp trong tổng số 125 mẫu cấy. Staphylococcus 
aureus và Escherichia coli chiếm tỉ lệ cao nhất, 
lần lượt là 30% và 20%. Đáng tiếc là tác giả đã 
không báo cáo  loại vi khuẩn  thường gặp nhất 
cho mỗi vị trí NKVM để giúp cho định hướng 
sử  dụng  kháng  sinh.  Tuy  nhiên,  ngay  cả  nếu 
điều này được biết, vẫn nên có các bằng chứng 
vi  sinh  trong  các  trường  hợp NKVM  để  giúp 
chọn kháng sinh  thích hợp, vì  luôn có sự  thay 
đổi  theo  hướng  tăng  tính  kháng  thuốc  của  vi 
khuẩn. 
  Trong thực hành giám sát NKVM nói chung, 
chỉ số nguy cơ của bệnh nhân được khuyến cáo 
sử  dụng  [23]  để  hiệu  chỉnh  yếu  tố  gây  nhiễu 
khi so sánh  tỉ  lệ NKVM. Tuy nhiên, phân  loại 
vết mổ kinh  điển dường như không phù hợp 
cho mổ sanh. Cụ thể, trong 605 trường hợp mổ 
sanh điều tra, 98.5% được xếp loại sạch nhiễm. 
Phân  loại  theo  kiểu này  không  giúp  tách  biệt 
được nguy cơ NKVM sau mổ sanh. Horan cũng 
đã nhận xét rằng chỉ số nguy cơ của bệnh nhân 
không phù hợp  cho  tất  cả các  loại phẫu  thuật 
[24]. Phân  loại cải biên của Emmons 12 dường 
như  phù  hợp  hơn,  cho  thấy  NKVM  có  tăng 
theo mức  độ nhiễm  của phẫu  thuật  (Bảng  2). 
Tuy nhiên, mốc thời gian ối vỡ 2 giờ được chọn 
để phân loại mức độ nhiễm của phẫu thuật mổ 
sanh là tùy chọn của tác giả.  
  Nhìn chung, đây  là một điều  tra được  thiết 
kế  theo các  tiêu chí của một điều  tra giám sát 
nhiễm khuẩn bệnh viện, cụ thể là đơn giản, chi 
phí  thấp, khả  thi, và  có  thể  thực hiện  lại  theo 
chu kỳ. Điều  tra đã cung cấp được một số các 
đặc  điểm  dịch  tễ  ban  đầu  về NKVM  sau mổ 
sanh  trong  thời  gian  nằm  viện.  Để  giải  quyết 
các vấn đề như phát hiện NKVM sau xuất viện, 
phân  loại  phân  loại mức  độ  nhiễm  của  phẫu 
thuật mổ sanh, xây dựng chỉ số nguy cơ bệnh 
nhân phù hợp với mổ  sanh, hình  thái vi  sinh 
của các NKVM sau mổ sanh, cần tiến hành một 
nghiên cứu qui mô hơn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Graves EJ, Gillum BS. Detailed diagnoses and 
procedures, National Hospital Discharge Survey, 1994. 
Vital Health Stat 13 1997; (127):1-145. 
2. Nguyễnn Thị Thanh Hà. Nhiễm khuẩn bệnh viện – tỉ lệ 
hiện mắc, yếu tố nguy cơ tại 6 bệnh viện phía Nam. Tạp 
chí Y học Thực hành 2005:81-7. 
3. Poulsen KB, Bremmelgaard A, Sorensen AI, Raahave D, 
Petersen JV. Estimated costs of postoperative wound 
infections. A case-control study of marginal hospital and 
social security costs. Epidemiol Infect 1994; 113(2):283-
95. 
4. Cao Văn Vinh , Lê Như Lan , Nghiêm Thọ Thông. Tình 
hình nhiễm khuẩn vết mổ ngoại khoa tại bệnh viện Thanh 
Nhàn năm 2002. Tạp chí Y học Thực hành 2005:56-60. 
5. National Nosocomial Infections Surveillance (NNIS) 
System Report, Data Summary from January 1992-June 
2001, issued August 2001. Am J Infect Control 2001; 
29(6):404-21. 
6. Haley RW, Culver DH, White JW et al. The efficacy of 
infection surveillance and control programs in preventing 
nosocomial infections in US hospitals. Am J Epidemiol 
1985; 121(2):182-205. 
7. Evaldson GR, Frederici H, Jullig C, Mannerquist K, 
Nystrom B. Hospital-associated infections in obstetrics 
and gynecology. Effects of surveillance. Acta Obstet 
Gynecol Scand 1992; 71(1):54-8. 
8. Thacker SB, Parrish RG, Trowbridge FL. A method for 
evaluating systems of epidemiological surveillance. 
World Health Stat Q 1988; 41(1):11-8. 
9. Horan TC, Gaynes RP, Martone WJ, Jarvis WR, Emori 
TG. CDC definitions of nosocomial surgical site 
infections, 1992: a modification of CDC definitions of 
surgical wound infections. Am J Infect Control 1992; 
20(5):271-4. 
10. Owens WD, Felts JA, Spitznagel EL Jr. ASA physical 
status classifications: a study of consistency of ratings. 
Anesthesiology 1978; 49(4):239-43. 
11. Berard F, Gandon J. Postoperative wound infections: the 
influence of ultraviolet irradiation of the operating room 
and of various other factors. Ann Surg 1964; 160:SUPPL 
1:1-192. 
12. Emmons SL, Krohn M, Jackson M, Eschenbach DA. 
Development of wound infections among women 
undergoing cesarean section. Obstet Gynecol 1988; 
72(4):559-64. 
13. Culver DH, Horan TC, Gaynes RP et al. Surgical wound 
infection rates by wound class, operative procedure, and 
patient risk index. National Nosocomial Infections 
Surveillance System. Am J Med 1991; 91(3B):152S-7S. 
14. Tran TS, Jamulitrat S, Chongsuvivatwong V, Geater A. 
Risk factors for postcesarean surgical site infection. 
Obstet Gynecol 2000; 95(3):367-71. 
15. Schneid-Kofman N, Sheiner E, Levy A, Holcberg G. 
Risk factors for wound infection following cesarean 
deliveries. Int J Gynaecol Obstet 2005; 90(1):10-5. 
16. Hosmer DW, Lemeshow S. Model-building strategies 
and methods for logistic regression . Hosmer DW, 
Lemeshow S. Applied logistic regression. 2 edition. New 
York: John Wiley & Sons, 2000: 91-141. 
17. Tran TS, Jamulitrat S, Chongsuvivatvong V, Geater A. 
Postoperative hospital-acquired infection in Hungvuong 
Obstetric and Gynaecological Hospital, Vietnam. J Hosp 
Infect 1998; 40(2):141-7. 
18. Weigelt JA, Dryer D, Haley RW. The necessity and 
efficiency of wound surveillance after discharge. Arch 
Surg 1992; 127(1):77-81; discussion 81-2. 
19. Gravel-Tropper D, Oxley C, Memish Z, Garber GE. 
Underestimation of surgical site infection rates in 
obstetrics and gynecology. Am J Infect Control 1995; 
23(1):22-6. 
20. Kasatpibal N, Jamulitrat S, Chongsuvivatwong V. 
Standardized incidence rates of surgical site infection: a 
multicenter study in Thailand. Am J Infect Control 2005; 
33(10):587-94. 
21. Mah MW, Pyper AM, Oni GA, Memish ZA. Impact of 
antibiotic prophylaxis on wound infection after cesarean 
section in a situation of expected higher risk. Am J Infect 
Control 2001; 29(2):85-8. 
22. Chaim W, Bashiri A, Bar-David J, Shoham-Vardi I, 
Mazor M. Prevalence and clinical significance of 
postpartum endometritis and wound infection. Infect Dis 
Obstet Gynecol 2000; 8(2):77-82. 
23. National Nosocomial Infections Surveillance (NNIS) 
report, data summary from October 1986-April 1996, 
issued May 1996. A report from the National Nosocomial 
Infections Surveillance (NNIS) System. Am J Infect 
Control 1996; 24(5):380-8. 
24. Horan T, Gaynes R, Culver D, National Nosocomial 
Infections Surveillance (NNIS) System, CDC. 
Development of predictive risk factors for nosocomial 
surgical site infections (SSI) [abstract]. Infect Control 
Hosp Epidemiol 1994;15(Suppl):P46 (M72) 

File đính kèm:

  • pdfnhiem_khuan_vet_mo_sau_mo_sanh_tai_benh_vien_hung_vuong_nam.pdf