Nhiễm độc giáp trên bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao Báo cáo một trường hợp
Tần suất của thai trứng rất thay đổi tùy thuộc vị trí địa lý trên thế giới.1 Tuy nhiên, tình trạng
thai trứng kết hợp với cường giáp và gây nhiễm độc giáp là khá hiếm.11 Chúng tôi giới thiệu
một ca bệnh thai trứng kết hợp với nhiễm độc giáp.
Một phụ nữ 19 tuổi đã đến bệnh viện khám vì trễ kinh 2 tuần, xuất huyết âm đạo, đau bụng
lâm râm. Kết quả siêu âm nghi ngờ thai trứng. Bệnh nhân (BN) than phiền thấy hồi hộp, đánh
trống ngực. Nhịp tim 100 lần/phút không trở về bình thường sau nghỉ ngơi. Điện tâm đồ cho
kết quả nhịp xoang nhanh, sóng T âm, dẹt. β-hCG huyết thanh > 1.000.000 mIU/mL. Nồng
độ fT3, fT4 cao hơn bình thường trong khi nồng độ TSH lại thấp hơn. BN sau đó được chẩn
đoán nhiễm độc giáp và thai trứng nguy cơ cao và được điều trị với propylthiouracil (PTU),
lugol, dexamethasone trong 3 ngày trước khi tiến hành hút và nong nạo thai trứng. Kết quả
giải phẫu bệnh là thai trứng toàn phần. BN được điều trị với methotrexate đơn liều và acid
folianic vì thai trứng nguy cơ cao (β-hCG huyết thanh > 1.000.000 mIU/mL). BN hồi phục
tốt sau 12 ngày điều trị và xuất viện. BN được kiểm tra β-hCG mỗi 2 tuần. Tóm lại, thai trứng
đã hiếm gặp nhưng khi có sự kết hợp với nhiễm độc giáp thì lại còn hiếm gặp hơn. Đó là lý
do tại sao việc quản lý những trường hợp này là khó khăn vì khó được phát hiện sớm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhiễm độc giáp trên bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao Báo cáo một trường hợp
40 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 1, Tháng 5 – 2018 Nhiễm độc giáp trên bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao Báo cáo một trường hợp Huỳnh Minh Thắng*, Võ Minh Tuấn**. Tóm tắt Tần suất của thai trứng rất thay đổi tùy thuộc vị trí địa lý trên thế giới.1 Tuy nhiên, tình trạng thai trứng kết hợp với cường giáp và gây nhiễm độc giáp là khá hiếm.11 Chúng tôi giới thiệu một ca bệnh thai trứng kết hợp với nhiễm độc giáp. Một phụ nữ 19 tuổi đã đến bệnh viện khám vì trễ kinh 2 tuần, xuất huyết âm đạo, đau bụng lâm râm. Kết quả siêu âm nghi ngờ thai trứng. Bệnh nhân (BN) than phiền thấy hồi hộp, đánh trống ngực. Nhịp tim 100 lần/phút không trở về bình thường sau nghỉ ngơi. Điện tâm đồ cho kết quả nhịp xoang nhanh, sóng T âm, dẹt. β-hCG huyết thanh > 1.000.000 mIU/mL. Nồng độ fT3, fT4 cao hơn bình thường trong khi nồng độ TSH lại thấp hơn. BN sau đó được chẩn đoán nhiễm độc giáp và thai trứng nguy cơ cao và được điều trị với propylthiouracil (PTU), lugol, dexamethasone trong 3 ngày trước khi tiến hành hút và nong nạo thai trứng. Kết quả giải phẫu bệnh là thai trứng toàn phần. BN được điều trị với methotrexate đơn liều và acid folianic vì thai trứng nguy cơ cao (β-hCG huyết thanh > 1.000.000 mIU/mL). BN hồi phục tốt sau 12 ngày điều trị và xuất viện. BN được kiểm tra β-hCG mỗi 2 tuần. Tóm lại, thai trứng đã hiếm gặp nhưng khi có sự kết hợp với nhiễm độc giáp thì lại còn hiếm gặp hơn. Đó là lý do tại sao việc quản lý những trường hợp này là khó khăn vì khó được phát hiện sớm. CASE REPORT: HIGH RISK MOLAR PREGNANCY COMBINES WITH THYROTOXICOSIS Thang Huynh *, Tuan Vo**. ABSTRACT: Estimates of the incidence of molar pregnancy vary dramatically in different regions of the world. However, it can rarely be associated with hyperthyroidism, which may be associated with clinical features of hyperthyroidism.We present a case of hyperthyroidism and trophoblastic disease. A 19 year-old woman came to the hospital with symptoms including menstrual period delayed in 2 weeks, vaginal bleeding, moderate abdominal pain. The ultrasound result suspected a case of molar pregnancy. She complained of nervousness and drumbeat. Her heart rate was 100 bpm but it didn’t return to normal range after rest. Electrocardiography (ECG) presented sinus tachycardia with flattened and negative T wave. Her level β-hCG was over 1,000,000 mIU/mL. In addition, her level of fT3, fT4 was higher than normal while the level of TSH was lower. She was then diagnosed with thyrotoxicosis and high risk trophoblastic disease. This case was treated with propylthiouracil (PTU), lugol, dexamethasone in 3 days before performing the suction, dilation and curettage the mole. The pathology result was complete molar pregnancy. She was treated with single-agent chemotherapy methotrexate and folianic acid due to high risk molar pregnancy (β-hCG > 1,000,000 mIU/mL). The patient recovered well after 12 days of treatment and was discharged. She needed to come back every 2 weeks for β-hCG examination. In conclusion, molar pregnancy is a rare but it becomes even rarer when combines with thyrotoxicosis. That is the reason why the management of those cases is difficult because hyperthyroidism is hard to diagnose early, which leads to unpredictable consequences. **Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM –0909727199–Email: [email protected] *Học viên Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM. 41 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Giới thiệu Thai trứng có thể được phân loại thành thai trứng toàn phần và thai trứng bán phần dựa trên hình ảnh đại thể, vi thể và bộ nhiễm sắc thể. Thai trứng toàn phần thường có bộ nhiễm sắc thể 46,XX nhưng khoảng 10% có bộ nhiễm sắc thể 46,XY. Bộ nhiễm sắc thể của thai trứng hoàn toàn có nguồn gốc từ cha với DNA của ty thể có nguồn gốc từ mẹ. Nguyên nhân là do một tinh trùng tự nhân đôi bộ nhiễm sắc thể của mình khi thụ tinh với 1 trứng có nhân trống hoặc nhân bất hoạt. Thai trứng bán phần thường có bộ nhiễm sắc thể 69 XXX, 69 XYY, 69 XXY. Nguyên nhân là do hai tinh trùng thụ tinh với 1 trứng.1 Cường giáp là sự tăng quá mức nồng độ hormone tuyến giáp trong mô gây ra do tăng tổng hợp của hormone tuyến giáp hoặc tiết quá mức tiền hormone giáp . Nguyên nhân thường gặp nhất là bệnh Graves.13 Bệnh án BN 19 tuổi, PARA 0010, tiền căn bỏ thai 1 lần cách đây 1 năm (lúc thai 16 tuần) vì mẹ bị bệnh tim thai kỳ. Tiền căn nội khoa chưa ghi nhận bệnh lý tuyến giáp, bệnh lý tim mạch khác. Hiện BN đến khám vì trễ kinh 2 tháng, ra huyết sậm ít 7 ngày, đau bụng lâm râm 1 tháng. Khám lâm sàng: mạch 96 lần/phút, huyết áp 120/80 mmHg, thân nhiệt 37oC. Tuyến giáp không to, không run tay. Tim đập đều nhanh, nhịp tim 98 lần/phút. Bề cao tử cung 20 cm, mật độ chắc. Hai phần phụ không sờ chạm. Cổ tử cung đóng. Âm đạo ít huyết sậm. Túi cùng trống. Siêu âm lúc nhập viện (3/11): lòng tử cung có khối echo hỗn hợp, đường kính 116 x 122 x 103 mm, bên trong có nhiều echo trống nhỏ (hình 1,2) va kết luận thai trứng. Hình 1. Siêu âm lòng tử cung có khối echo hỗn hợp Hình 2. Siêu âm kết luận thai trứng Kết quả xét nghiệm ngày 3/11/17: β- hCG > 1.000.000 mIU/mL. BC 13,44 x 109/l; Neutro. 74,1%; Lympho. 17,8%. HC 2,52 x 1012/l; Hb 6,9 g/dl; Hct 20,1 %; MCH 27,4 pg; PLT 384 x 109/l. AST 24 IU/l; ALT 18 IU/l. BN được chẩn đoán: Thai trứng nguy cơ cao. Tuy nhiên, sau đó BN vẫn tiếp tục than hồi hộp, đánh trống ngực, khám ghi nhận: huyết áp 120/80 mmHg, nhịp tim 100 lần/phút, T1 T2 rõ, không âm thổi bất thường. BN được đo điện tâm đồ, kết quả điện tâm đồ 3/11/17: nhịp xoang nhanh 105 lần/phút, sóng T âm dẹt. Hình 3 . Điện tâm đồ 3/11/17. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp (3/11/17): f-T3 10,02 pg/mL; f-T4 2,55 ng/mL 2,55; TSH 0,01 µIU/mL. 42 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 1, Tháng 5 – 2018 Bảng 1. Kết quả chức năng tuyến giáp theo thời gian sau khi được điều trị nhiễm độc giáp 3/11/17 4/11/17 7/11/17 10/11/17 f-T3 pg/mL 10,02 8,5 3,77 4,8 f-T4 ng/mL 2,55 2,45 2,35 1,81 TSH µIU/mL 0,01 0,01 0,01 0,01 Bảng 2. Thay đổi tình trạng lâm sàng của BN sau khi được điều trị nhiễm độc giáp Ngày Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân 3/11/17 BN thấy hồi hộp, đánh trống ngực, khó ngủ Huyết áp 120/80mmHg. Không sốt Nhịp tim 110 lần/phút. T1 T2 rõ, không âm thổi. 4/11/17 BN vẫn còn thấy hồi hộp, còn đánh trống ngực nhưng nhẹ hơn, vẫn khó ngủ Huyết áp 120/80mmHg. Không sốt Nhịp tim 100 lần/ phút. T1 T2 rõ, không âm thổi 5/11/17 BN hết hồi hộp, hết đánh trống ngực. Ngủ được Huyết áp 120/80mmHg. Không sốt Nhịp tim 88 lần/phút. T1 T2 rõ, không âm thổi 6/11/17 Sinh hiệu ổn. Nhịp tim 85 lần/phút Huyết áp 120/80mmHg. Không sốt Tim đều, T1 T2 rõ, không âm thổi Rõ ràng đây là một trường hợp cường giáp và đã có biểu hiện trên lâm sàng. BN đã được hội chẩn với chuyên khoa nội tiết và thống nhất chẩn đoán: Thai trứng nguy cơ cao và nhiễm độc giáp. Tóm tắt quá trình điều trị Từ 4/11/17 - 6/11/17, BN được điều trị với: propylthiouracil 50mg: 3 viên x 3 (uống); lugol 1% 20 giọt x 2 (uống); dexamethasone 4 mg: 1 ống x 2 (tiêm tĩnh mạch chậm). Trường hợp nhiễm độc giáp được phát hiện sớm, BN đáp ứng điều trị tốt với thuốc kháng giáp (bảng 1,2). Sau 3 ngày điều trị nhiễm độc giáp, BN đã không còn triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực với nhịp tim nhanh > 100 lần/phút, xét nghiệm chức năng tuyến giáp cũng trở về trong giới hạn bình thường. Sau khi tình trạng nhiễm độc giáp của BN tạm ổn, BN được nạo hút thai trứng vào 7/11/17. Kết quả giải phẫu bệnh là thai trứng toàn phần. BN được điều trị với methotrexate đơn liều và acid folianic (7-15/11/17) vì thai trứng nguy cơ cao (β-hCG huyết thanh > 1.000.000 mIU/mL). Sau điều trị với methotrexate, BN được xuất viện và tái khám để theo dõi nồng độ β-hCG huyết thanh/ mỗi 2 tuần. Bàn luận Cường giáp trong thai kỳ đã được báo cáo lâm sàng khá nhiều nhưng biểu hiện lâm sàng lại không phổ biến. Chính vì vậy, phương tiện chẩn đoán nhiễm độc giáp quan trọng nhất chính là xét nghiệm chức năng tuyến giáp. Ở thời điểm đạt nồng độ đỉnh của human chorionic gonadotropin (hCG) trong thai kỳ bình thường, nồng độ TSH sẽ giảm và có hình ảnh soi gương với đỉnh HCG. Sự sụt giảm TSH này gợi ý rằng HCG đã gây ra sự tăng tiết T3 và T4.3 Khi có dấu hiệu lâm sàng của nhiễm độc giáp, điều trị kháng giáp cần được sử dụng sớm nếu không có chống chỉ định. Vào năm 1954, Tisne và cộng sự8 báo cáo đầu tiên một trường hợp cường giáp với thai trứng. Và ngày nay, người ta đã chấp nhận có sự liên quan giữa biến chứng cường giáp với thai trứng. Tỉ lệ xuất hiện chính xác của cường giáp trong những 43 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC trường hợp thai trứng vẫn chưa được xác định rõ nhưng các báo cáo cho rằng hoạt động của tuyến giáp gia tăng từ 20% – 64% trong thai trứng.14 Từ ca lâm sàng này đã đặt ra 2 vấn đề cần thảo luận: Làm sao phân biệt được vấn đề cường giáp ở BN hiện nay là do tình trạng thai trứng gây ra hay là do một bệnh nền có sẵn như bệnh Graves? Trong trường hợp này thì có cần điều trị cường giáp trước khi hút nạo hay không? Làm sao để phân biệt được vấn đề cường giáp của BN hiện nay là do tình trạng thai trứng gây ra hay là do một bệnh nền có sẵn như bệnh Graves? hCG là một glycoprotein bao gồm tiểu đơn vị α và β. Đơn vị α có cấu trúc gần giống với hormone kích thích tuyến giáp (thyroid-stimulating hormone – TSH), hormone hoàng thể (luteinising hormone – LH) và hormone kích thích nang noãn (follicle-stimulating hormone – FSH)3. Một vài thử nghiệm in vitro đã chỉ ra rằng có sự phản ứng chéo giữa những loại hormone này.3,5,6,9 Nồng độ hCG trong thai trứng có thể rất cao, > 300U/mL và thường > 100U/mL đã làm cho phản ứng chéo này nặng nề hơn.7 Tuy nhiên, tỉ lệ xuất hiện cường giáp trong thai trứng không nhiều. Vì vậy, những yếu tố khác cũng có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng này. Cường giáp được định nghĩa là sự ức chế TSH và tăng f-T3 hay f-T4 thường xảy ra trong bệnh lý nguyên bào nuôi hơn là thai kỳ bình thường. Có giả thiết cho rằng sự sản xuất hCG ở phụ nữ bị bệnh lý nguyên bào nuôi đã làm tăng hoạt động tuyến giáp hơn so với thai kỳ bình thường. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp cho thấy tăng nồng độ f-T4 và f-T3 và giảm nồng độ TSH. Tỉ lệ nồng độ f-T4/f-T3 sẽ cao hơn ở những BN bị nhiễm độc giáp trong bệnh lý nguyên bào nuôi so với BN có bệnh nền là bệnh Graves.14 Có sự giảm đáp ứng của TSH đối với TRH (thyrotropin – releasing hormone). Ngoài ra, kháng thể kháng giáp sẽ âm tính. Triệu chứng lâm sàng của cường giáp không do bệnh Graves là không có triệu chứng về mắt, đây là điểm trái ngược đầu tiên. Điểm thứ hai, tuyến giáp nhìn chung sẽ không to ra hoặc to ra rất ít nhưng trong một số trường hợp hiếm hoi có thể to gấp đôi kích thước bình thường. Ngoài ra, nồng độ TBG (thyroxine-binding globulin) sẽ tăng ít hơn ở phụ nữ có khối u nguyên bào nuôi so với thai bình thường vì những u này tiết ít estrogen hơn là mô nhau bình thường.14 Việc phân biệt giữa cường giáp liên quan đến thai trứng với cường giáp do bệnh Graves rất quan trọng vì phương pháp điều trị sẽ rất khác nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phụ nữ bị thai trứng có thể có triệu chứng lâm sàng rất đa dạng của cường giáp. Một vài trường hợp có thể không có triệu chứng lâm sàng, kết hợp tăng ít hay vừa f-T4, f-T3. Một vài trường hợp khác lại có sự tăng đáng kể hormone tuyến giáp và có triệu chứng cường giáp nặng nề. Một vài báo cáo cho thấy 5% phụ nữ bị thai trứng có biểu hiện triệu chứng lâm sàng của cường giáp bao gồm nhịp tim nhanh, nóng bức, sụt cân, run rẩy, lo âu.2 Sự đa dạng về biểu hiện lâm sàng này gợi ý hậu quả của sự tăng đột ngột của chức năng tuyến giáp làm cho những triệu chứng ngộ độc giáp không đủ thời gian để bộc lộ ra trên lâm sàng.12 Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu gợi ý rằng nồng độ hCG phải > 200 U/mL và duy trì trong vài tuần để có thể phát triển thành cường giáp lâm sàng.2 Ngày nay, việc sử dụng siêu âm thường quy cũng giúp phát hiện sớm thai trứng ở giai đoạn sớm, khi mà nó còn nhỏ và nồng độ hCG còn thấp nên những BN này hầu như sẽ không có những triệu chứng cường giáp. Có cần phải điều trị cường giáp trước khi nạo hút thai trứng không? Thai trứng bắt buộc phải được điều trị bằng cách hút nạo càng sớm càng tốt. Chẩn đoán sớm sẽ giúp tiên lượng chữa khỏi tốt hơn. Sau khi hút nạo, nồng độ 44 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 1, Tháng 5 – 2018 hCG, T4, T3 sẽ giảm và sẽ kéo theo sự sụt giảm của hoạt động kích thích tuyến giáp. Hiện nay, việc điều trị cường giáp trước nạo hút thai trứng có thể cần hoặc không cần thiết dựa vào triệu chứng lâm sàng có trầm trọng hay không. Tuy nhiên, chúng ta cần phải lưu ý rằng ở những BN với tình trạng cường giáp không được kiểm soát tốt thì phẫu thuật, thủ thuật hay cả phương pháp vô cảm cũng sẽ ảnh hưởng đến tử suất quanh thời điểm thực hiện.4 BN có thể xuất hiện triệu chứng mạch nhanh, tăng thân nhiệt, quá tải tuần hoàn và có thể tiến tới tình trạng đe dọa tính mạng do cơn bão giáp. Chính vì vậy, việc kiểm tra nồng độ tuyến giáp ở mọi BN có bệnh lý nguyên bào nuôi là rất quan trọng để có thể dự phòng và chuẩn bị cho những biến chứng có thể xảy ra trong suốt quá trình điều trị.10 Kết luận Trong ca lâm sàng này cho thấy việc điều trị với thuốc kháng giáp làm giảm nhanh các triệu chứng nhiễm độc giáp của bệnh nhân. Điều cần thiết là phải phối hợp toàn diện giữa lâm sàng và cận lâm sàng để chẩn đoán sớm và chính xác những trường hợp thai trứng kết hợp với cường giáp nhằm giảm biến chứng và tử vong do bệnh lý này gây ra. Nếu cần, chúng ta nên hội chẩn với chuyên khoa nội tiết để có hướng xử trí thích hợp nhất. Tài liệu tham khảo 1. Berek J. S., "Berek and Novak's Gynecology 15th edition". Wolters Kluwer Health, 2012, pp. 2537-2547. 2. Cavaliere A., Ermito S., Dinatale A., et al., "Management of molar pregnancy", J Prenat Med, 2009, 3 (1), pp. 15-7. 3. Hershman J. M., "Physiological and pathological aspects of the effect of human chorionic gonadotropin on the thyroid", Best Pract Res Clin Endocrinol Metab, 2004,18 (2), pp. 249-65. 4. Kim J. M., Arakawa K., McCann V., "Severe hyperthyroidism associated with hydatidiform mole", Anesthesiology, 1976, 44 (5), pp. 445- 8. 5. Kohn L. D., Shimura H., Shimura Y., et al., "The thyrotropin receptor", Vitam Horm, 1995, 50, pp. 287-384. 6. Nagayama Y., Rapoport B., "The thyrotropin receptor 25 years after its discovery: new insight after its molecular cloning", Mol Endocrinol, 1992, 6 (2), pp. 145-56. 7. Samra T., Kaur R., Sharma N., et al., "Peri- operative concerns in a patient with thyroid storm secondary to molar pregnancy", Indian J Anaesth, 2015, 59 (11), pp. 739-42. 8. Tisne L., Barzelatto J., Stevenson C., "Study of thyroid function during pregnancy-puerperal state with radioactive iodine", Boletin. Sociedad Chilena de Obstetricia y Ginecologia, 1954, 20 (8-9), pp. 246-251. 9. Vaitukaitis J. L., "Human chorionic gonadotropin--a hormone secreted for many reasons", N Engl J Med, 1979, 301 (6), pp. 324-6. 10. Virmani S., Srinivas S. B., Bhat R., et al., "Transient Thyrotoxicosis in Molar Pregnancy", J Clin Diagn Res, 2017, 11 (7), pp. Qd01-2. 11. Walkington L., Webster J., Hancock B. W., et al., "Hyperthyroidism and human chorionic gonadotrophin production in gestational trophoblastic disease", Br J Cancer, 2011,104 (11), pp. 1665-9. 12. Alexander E. K., Pearce E. N., Brent G. A., et al., "2017 Guidelines of the American Thyroid Association for the diagnosis and management of thyroid disease during pregnancy and the postpartum", Thyroid, 2017, 27 (3), pp. 315- 389. 13. Kahaly G. J., Bartalena L., Hegedüs L., The American Thyroid Association/American Association of Clinical Endocrinologists guidelines for hyperthyroidism and other causes of thyrotoxicosis: a European perspective, 2011. Mary Ann Liebert, Inc. 140 Huguenot Street, 3rd Floor New Rochelle, NY 10801 USA. 14. Wondisford F. E., Radovick S., "Clinical Management of Thyroid Disease E-Book". Elsevier Health Sciences, 2009.
File đính kèm:
nhiem_doc_giap_tren_benh_nhan_thai_trung_nguy_co_cao_bao_cao.pdf

