Nhận xét thực trạng sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật Tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, làm cơ sở cho khuyến nghị nhằm tối ưu hóa việc sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên các bệnh nhân sau mổ tim có sử dụng tim phổi máy giai đoạn 2012 - 2013 tại khoa phẫu thuật Tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, theo phương pháp mô tả, hồi cứu và tiến cứu ghi nhận đặc điểm bệnh nhân, biến số kháng sinh (tên loại, phác đồ, thời gian, đường dùng, biến chứng), xét nghiệm vi sinh và chi phí sử dụng kháng sinh. Kết quả: Trong tổng số 217 bệnh nhân nghiên cứu, 208 (95,9%) bệnh nhân mổ sạch được sử dụng kháng sinh dự phòng (KSDP); có 53,8% kéo dài KSDP quá 48 giờ sau mổ. 100% bệnh nhân sử dụng kháng sinh sau mổ với kháng sinh thường gặp nhất là β-lactam (64,7%). 93,5% bệnh nhân dùng kháng sinh từ 7 ngày trở lên và 47,9% dùng nhiều hơn 2 loại kháng sinh. 98,2% bệnh nhân đáp ứng điều trị. 45 mẫu bệnh phẩm nuôi cấy dương tính (28,5%); trong đó 70,8% sử dụng kháng sinh phù hợp với kháng sinh đồ. Kháng sinh chiếm 19,6% tổng chi phí điều trị. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở là cần thiết, có tính hệ thống, tuy nhiên KSDP còn kéo dài sau mổ, chủ yếu dùng kháng sinh phổ rộng và ít có sự phối hợp với xét nghiệm vi sinh, chi phí điều trị kháng sinh còn cao

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Nhận xét thực trạng sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận xét thực trạng sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Nhận xét thực trạng sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201442
NHẬN XÉT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG KHÁNG SINH 
SAU MỔ TIM HỞ TẠI KHOA PHẪU THUẬT TIM MẠCH - 
LỒNG NGỰC BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
 Đoàn Quốc Hưng, Đoàn Bích Phương, Phùng Duy Hồng Sơn,
 Phạm tiến Quân, Nguyễn Hữu Ước
 Khoa phẫu thuật Tim mạch-Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
TÓM TẮT
 Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng sử dụng 
kháng sinh sau mổ tim hở tại khoa phẫu thuật 
Tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện Hữu Nghị 
Việt Đức, làm cơ sở cho khuyến nghị nhằm 
tối ưu hóa việc sử dụng kháng sinh sau mổ 
tim hở. Đối tượng và phương pháp: Nghiên 
cứu được tiến hành trên các bệnh nhân sau 
mổ tim có sử dụng tim phổi máy giai đoạn 
2012 - 2013 tại khoa phẫu thuật Tim mạch 
- Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, 
theo phương pháp mô tả, hồi cứu và tiến cứu 
ghi nhận đặc điểm bệnh nhân, biến số kháng 
sinh (tên loại, phác đồ, thời gian, đường dùng, 
biến chứng), xét nghiệm vi sinh và chi phí 
sử dụng kháng sinh. Kết quả: Trong tổng 
số 217 bệnh nhân nghiên cứu, 208 (95,9%) 
bệnh nhân mổ sạch được sử dụng kháng sinh 
dự phòng (KSDP); có 53,8% kéo dài KSDP 
quá 48 giờ sau mổ. 100% bệnh nhân sử dụng 
kháng sinh sau mổ với kháng sinh thường gặp 
nhất là β-lactam (64,7%). 93,5% bệnh nhân 
dùng kháng sinh từ 7 ngày trở lên và 47,9% 
dùng nhiều hơn 2 loại kháng sinh. 98,2% bệnh 
nhân đáp ứng điều trị. 45 mẫu bệnh phẩm nuôi 
cấy dương tính (28,5%); trong đó 70,8% sử 
dụng kháng sinh phù hợp với kháng sinh đồ. 
Kháng sinh chiếm 19,6% tổng chi phí điều 
trị. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy sử dụng 
kháng sinh sau mổ tim hở là cần thiết, có tính 
hệ thống, tuy nhiên KSDP còn kéo dài sau mổ, 
chủ yếu dùng kháng sinh phổ rộng và ít có sự 
phối hợp với xét nghiệm vi sinh, chi phí điều 
trị kháng sinh còn cao.
 Từ khóa: Sử dụng kháng sinh, kháng sinh 
dự phòng, phẫu thuật tim hở 
ĐẶT VẤN ĐỀ
 Vấn đề sử dụng kháng sinh hợp lý đang 
là một thách thức lớn của toàn thế giới khi 
hiện tượng kháng kháng sinh ngày càng phổ 
biến và mang tính chất toàn cầu. Tại Việt Nam, 
tỷ lệ kháng kháng sinh đang ở mức cao mà đa 
phần là hậu quả của việc sử dụng kháng sinh 
không hợp lý [1]. Theo báo cáo của Bộ Y tế 
(2009), chi phí sử dụng kháng sinh chiếm 
khoảng 36,0% tổng chi phí cho thuốc và hóa 
chất (dao động 3 - 89%) [2]. Một nghiên cứu 
tiến hành trên bệnh nhân bị nhiễm khuẩn bệnh 
viện tại một số đơn vị điều trị tích cực cho kết 
quả 74% điều trị kháng sinh không thích hợp; 
trong đó tỷ lệ điều trị thất bại là 63% [3]. Một 
nghiên cứu khác cho thấy có tới 78,2% bệnh 
nhân dùng kháng sinh sau phẫu thuật không có 
biểu hiện nhiễm khuẩn [4].
 Khoa phẫu thuật Tim mạch - Lồng ngực 
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là trung tâm 
ngoại khoa lớn, tiếp nhận bệnh nhân nặng với 
nhiều bệnh lý khác nhau và luôn trong tình 
trạng quá tải. Do đó, sử dụng kháng sinh rất 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 43
được chú trọng, đặc biệt trong phẫu thuật tim 
khi mà biến chứng nhiễm khuẩn sau mổ để lại 
hậu quả nặng nề. Thời gian gần đây việc sử 
dụng kháng sinh rộng rãi tại viện đã làm gia 
tăng tỷ lệ kháng kháng sinh, đặc biệt là các vi 
khuẩn Gram âm, thậm chí đã xuất hiện các vi 
khuẩn đa kháng. Trước tình hình đó, nghiên 
cứu về thực trạng sử dụng kháng sinh là hết 
sức cần thiết, là căn cứ nhằm tối ưu hóa việc 
sử dụng kháng sinh sau mổ tim hở.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn: Mổ tim hở có chuẩn 
bị; từ 15 tuổi trở lên; hồ sơ đáp ứng đầy đủ các 
chỉ tiêu nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Mổ tim kín, mổ cấp 
cứu; dưới 15 tuổi; hồ sơ không đầy đủ; bệnh 
nhân tử vong ngay sau mổ.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu và 
tiến cứu dựa trên nghiên cứu hồ sơ bệnh án 
trong giai đoạn 01/07/2012 - 31/03/2013 lưu 
trữ tại phòng Kế hoạch tổng hợp và Khoa 
phẫu thuật Tim mạch - Lồng ngực Bệnh viện 
Hữu ghị Việt Đức.
Biến số thu thập
• Tuổi, giới, tiền sử nội khoa, phân loại 
tình trạng lâm sàng, nguyên nhân bệnh lý, 
chẩn đoán, tính điểm nguy cơ ASA, loại phẫu 
thuật, thời gian phẫu thuật, thở máy, hồi sức, 
nằm viện. 
• Loại, nhóm kháng sinh; phác đồ; số loại; 
đường dùng; thời gian dùng; biến chứng, chi 
phí.
• Tình hình xét nghiệm vi sinh và phân bố 
căn nguyên gây bệnh.
• Kết quả điều trị
Đáp ứng điều trị:
- Khỏi: Không có dấu hiệu nhiễm khuẩn, 
triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng trở về bình 
thường. Bệnh nhân ngừng kháng sinh trước 
khi ra viện. Đối với trường hợp Osler, ngoài 
các tiêu chí trên, bệnh nhân được ra viện sau 
4 - 6 tuần điều trị trở lên.
- Đỡ, giảm: Dấu hiệu lâm sàng, cận 
lâm sàng cải thiện hoặc tình trạng nhiễm 
trùng giảm.
Không đáp ứng điều trị: Dấu hiệu lâm 
sàng, cận lâm sàng không được cải thiện, tình 
trạng nhiễm trùng gia tăng hoặc diễn biến lâm 
sàng nặng lên.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Trong giai đoạn từ 01/07/2012 đến 
31/03/2013, có 217 bệnh nhân đủ các tiêu 
chuẩn lựa chọn nghiên cứu; trong đó, 128 
(59,0%) nữ; độ tuổi trung bình là 44,08 ± 
15,33 tuổi (15 - 79 tuổi), tập trung chủ yếu 
vào nhóm tuổi 31 - 60 chiếm 63,6%. 
Về đặc điểm tiền sử nội khoa và tình trạng 
bệnh lý: 54,7% bệnh nhân có tiền sử nội khoa 
(chủ yếu là tiền sử thấp khớp 15,9%); 70,1% 
bệnh nhân có điểm số nguy cơ ASA từ 3 trở 
lên; 78,3% bệnh lý mắc phải; 48,4% trường 
hợp bệnh van 2 lá phối hợp với van tim khác.
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201444
Bảng 1: Đặc điểm về phẫu thuật và điều trị
Đặc điểm X ± SD Min – max
 Thời gian phẫu thuật (phút) 245,99 ± 65,06 120 – 510
 Thời gian thở máy (ngày) 2,86 ± 5,32 1 – 44
 Thời gian hồi sức (ngày) 11,34 ± 9,45 4 – 84
 Thời gian nằm viện (ngày) 25,7 ± 15,24 9 – 119
 Loại phẫu thuật
 Sạch 95,9%
 Bẩn 4,1%
Kháng sinh trước và trong mổ
• 24 (11,1%) bệnh nhân sử dụng kháng sinh trước mổ: điều trị Osler (9 bệnh nhân), nhiễm 
khuẩn bệnh viện (3 bệnh nhân), phẫu thuật khác (12 bệnh nhân).
• 100% bệnh nhân được sử dụng kháng sinh trong mổ, với cefamandol 92,9%. Trong đó 
95,9% bệnh nhân được sử dụng KSDP cho phẫu thuật sạch; 53,8% các trường hợp kéo dài 
KSDP quá 48 giờ sau mổ. 
Kháng sinh sau mổ 
 Bảng 2: Kháng sinh sử dụng sau mổ
Nhóm kháng sinh Số lượng (n) Tỷ lệ %
 β-lactam
 Penicillin kết hợp chất ức chế β-lactamase 51 7,7
64,7 Cephalosporin
Thế hệ 2 212 31,9
Thế hệ 3 82 12,4
Thế hệ 4 51 7,7
 Carbapenem 32 5,0
 Aminosid 64 9,7
 Quinolon 52 8,0
 Macrolid, Licosamid 10 1,5
 Dẫn chất nitro-imidazol 20 3,0
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 45
 Fosfomycin 30 4,5
 Glycopeptid 30 4,5
 Nhóm khác (Tetracylin, Dẫn xuất triazol, Sulfonamid kết hợp trimethoprim, 
Polymycin, Rifamycin) 31 4,8
Tổng số 665 100
*Vì bệnh nhân có thể điều trị nhiều kháng sinh nên tổng tỷ lệ >100%
Biểu đồ 1: Phác đồ kháng sinh sử dụng
 • 100% bệnh nhân được sử dụng kháng sinh sau mổ với tổng số 34 loại trên 13 nhóm 
kháng sinh.
• 215 phác đồ đơn độc (49,1%): β-lactam chiếm ưu thế 88,8%.
• 153 phác đồ 2 kháng sinh (34,9%) : β-lactam + Aminosid chiếm tỷ lệ cao nhất 27,5%; 
trong đó Cephalosporin + Aminosid (78,8%).
• 55 phác đồ 3 kháng sinh (12,8%): β-lactam + Glycopeptid + Quinolon (16,5%).
Bảng 3: Số loại kháng sinh
Số loại kháng sinh Số lượng (n) Tỷ lệ %
1 loại 67 30,9
2 loại 46 21,2
≥ 3 loại 104 47,9
X ± SD
(Min - max)
3,06 ± 2,41
1 – 12
Tổng số 217 100
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201446
Bảng 4: Thời gian sử dụng kháng sinh sau mổ
Thời gian sử dụng (ngày) Số lượng (n) Tỷ lệ %
< 7 14 6,5
7 – 10 99 45,6
˃ 10 104 47,9
X ± SD
(Min - max)
14,24 ± 10,59
5 – 72
Tổng số 217 100
 Đường dùng kháng sinh: chủ yếu là đường tĩnh mạch 217 (74%); đường uống 47 (16%); 
tưới rửa 18 (6,1%); khí dung 10 (3,4%); chỉ có 1 trường hợp tiêm bắp chiếm 0,5%.
 Theo dõi biến chứng trong quá trình sử dụng: 15,3% bệnh nhân gặp biến chứng; trong 
đó kháng thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất 6,3%. Suy thận gặp 7 trường hợp chiếm 3,2%; 5 (2,2%) 
suy gan; 5 (2,2%) dị ứng (ngứa, mẩn đỏ); 3 (1,4%) bệnh nhân bị giảm bạch cầu hạt.
Tình hình xét nghiệm vi sinh và phân lập căn nguyên gây bệnh
Xét nghiệm nuôi cấy vi sinh: 158 mẫu cấy được thực hiện trên 51 (23,5%) bệnh nhân; trong 
đó 43,0% từ máu; 12,7% từ đờm; 11,4% từ catheter; 11,4% từ dịch vết mổ; 10,1% từ đầu sonde 
tiểu; 9,5% từ tổ chức van tim và 1,9% từ bệnh phẩm khác (huyết khối, ) 
 Kết quả nuôi cấy vi sinh: 26 (51,0%) bệnh nhân có bệnh phẩm nuôi cấy dương tính; 45 
(28,5%) mẫu bệnh phẩm cho kết quả nuôi cấy dương tính; trong đó 29,2% sử dụng kháng sinh 
không phù hợp với kháng sinh đồ.
 Phân bố căn nguyên gây bệnh phân lập được: 63,8% vi khuẩn Gram âm; 19% vi khuẩn 
Gram dương và 17,2% nấm Candida spp. Trong đó, vi khuẩn hay gặp nhất là Acinetobacter spp. 
chiếm 24,1%; E. faecalis (13,8%); S. aureus và E. coli cùng chiếm tỷ lệ %8,6.
Hiệu quả điều trị
Bảng 5: Kết quả điều trị
Kết quả điều trị Số lượng (n) Tỷ lệ %
Đáp ứng
 Khỏi 176
213
81,1
98,2
 Đỡ, giảm 37 17,1
 Không đáp ứng 04 1,8
Tổng số 217 100
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 47
 Chi phí sử dụng kháng sinh: Tổng chi phí điều trị trung bình là 41.908.233 đồng/bệnh 
nhân. Chi phí sử dụng kháng sinh trung bình là 8.222.395 đồng/bệnh nhân; chiếm 19,6% so 
với tổng chi phí điều trị.
BÀN LUẬN
Khảo sát cho thấy điều trị kháng sinh ở 
nhóm bệnh nhân phẫu thuật tim hở là cần 
thiết, được sử dụng một cách hệ thống, tuy 
nhiên còn nhiều điểm cần bàn luận. Trong 
nhóm bệnh nhân nghiên cứu 100% được sử 
dụng kháng sinh trong mổ với cefamandol 
chiếm 92,9%; trong đó 95,9% là phẫu thuật 
sạch được sử dụng KSDP vào thời điểm phẫu 
thuật (tính từ lúc gây mê). Đa số các tài liệu 
hướng dẫn đều khuyến cáo rằng thời gian sử 
dụng KSDP phải ngắn và kéo dài không quá 
48 giờ sau mổ đối với phẫu thuật tim [5]. Một 
nghiên cứu tiến hành trên 2641 bệnh nhân 
phẫu thuật bắc cầu mạch vành đã chứng minh 
rằng việc tiếp tục kéo dài KSDP sau mổ không 
làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ mà còn 
làm tăng tỷ lệ đề kháng kháng sinh và tăng 
chi phí điều trị [6]. Đáng chú ý là sau phẩu 
thuật có tới 53,8% bệnh nhân kéo dài KSDP 
quá 48 giờ, 100% bệnh nhân điều trị kháng 
sinh với 50,9% các phác đồ phối hợp 2 loại, 
3 loại hoặc thậm chí là 4 loại kháng sinh và 
hơn 2/3 (69,1%) tổng số bệnh nhân dùng từ 
2 loại kháng sinh trở lên. Điều này được giải 
thích một phần bởi Bệnh viện Hữu nghị Việt 
Đức là trung tâm ngoại khoa lớn, có lịch sử 
lâu dài, nhiều bệnh nhân nặng, thể trạng kém, 
thời gian điều trị hậu phẫu kéo dài, nhiều 
chủng vi khuẩn kháng thuốc, cơ sở vật chất 
còn hạn chế, do đó để giảm tỉ lệ biến chứng 
nhiễm khuẩn cần kéo dài thời gian điều trị 
kháng sinh dự phòng. Khi gặp chủng vi khuẩn 
đa kháng không có kháng sinh đặc hiệu ở Việt 
Nam, việc phối hợp 2 hay 3 loại kháng sinh là 
cần thiết để đạt hiệu quả. 
Nghiên cứu về nhóm kháng sinh, chúng 
tôi thấy rằng có 34 loại kháng sinh trong 
tổng số 13 nhóm kháng sinh được sử dụng 
với β-lactam được dùng nhiều nhất (64,7%); 
trong đó, Cephalosporin chiếm ưu thế 52%. 
Điều này phù hợp với tình hình thực tế, tại 
viện đã xuất hiện các vi khuẩn đa kháng trong 
khi đây là kháng sinh có phổ kháng khuẩn 
rộng, tác dụng tốt trên vi khuẩn Gram âm và 
đặc biệt bền vững với β-lactamase. Theo báo 
cáo năm 2009, 30 - 70% các vi khuẩn Gram 
âm đã kháng với Cephalosporin thế hệ 3 và 4; 
xấp xỉ 40 - 60% kháng với kháng sinh nhóm 
Aminosid và Fluoroquinolon [1]. 
Về thời gian sử dụng kháng sinh sau mổ: 
trung bình là 14,24 ± 10,59 ngày, dao động 
từ 5 tới 72 ngày; kéo dài hơn so với thời gian 
hồi sức (11,34 ± 9,45 ngày). Bệnh nhân trong 
nghiên cứu của chúng tôi đã được sử dụng 
kháng sinh trong suốt thời gian hồi sức dù có 
dấu hiệu nhiễm khuẩn hay không. Tỷ lệ bệnh 
nhân dùng kháng sinh từ 7 ngày trở lên chiếm 
93,5%. Theo các tài liệu hướng dẫn thì thời 
gian sử dụng kháng sinh tốt nhất là từ 5 - 7 
ngày. Việc sử dụng kháng sinh dài ngày sẽ gây 
nhiều tác dụng phụ đặc biệt gây độc lên chức 
năng gan thận và nguy cơ kháng thuốc. Do 
đó, cần thiết phải tiến hành xét nghiệm kiểm 
tra chức năng gan thận trong suốt quá trình 
điều trị.
Về đường dùng kháng sinh, đường tĩnh 
mạch chiếm tỷ lệ chủ yếu 74%, đường uống 
16%. Việc sử dụng kháng sinh đường tĩnh 
mạch nhằm mục đích phát huy nhanh tác dụng 
của thuốc. Tuy nhiên, chính việc sử dụng 
kháng sinh với tỷ lệ lớn và chủ yếu là đường 
tĩnh mạch dẫn tới việc tăng chi phí điều trị 
và tăng nguy cơ mắc nhiễm trùng liên quan 
tới catheter. Gần đây, các nghiên cứu về việc 
chuyển kháng sinh từ đường dùng tĩnh mạch 
Nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.201448
sang đường uống sẽ tiết kiệm được chi phí, 
thời gian nằm viện ngắn hơn, giảm phản ứng 
có hại liên quan đến việc dùng kháng sinh 
đường tĩnh mạch [7].
Tỷ lệ cấy bệnh phẩm tìm vi khuẩn vẫn 
còn thấp, chỉ có 51 bệnh nhân (23,5%) được 
tiến hành nuôi cấy vi sinh mặc dù 100% sử 
dụng kháng sinh sau mổ. Trong 158 mẫu bệnh 
phẩm được tiến hành nuôi cấy, 45 (28,5%) 
mẫu cấy cho kết quả dương tính. Điều này 
gây khó khăn lớn cho các bác sĩ trong việc 
lựa chọn kháng sinh ban đầu phù hợp với căn 
nguyên gây bệnh và dẫn tới việc lựa chọn 
hầu như chỉ theo kinh nghiệm. Đối với những 
bệnh phẩm có kết quả nuôi cấy dương tính, có 
tới 29,2% sử dụng kháng sinh không phù hợp 
với kháng sinh đồ. Chính thực trạng gia tăng 
đề kháng kháng sinh mà điển hình là sự xuất 
hiện của các vi khuẩn đa kháng đã dẫn tới việc 
lựa chọn kháng sinh không còn phù hợp. Thực 
tế cũng đã cho thấy, việc sử dụng kháng sinh 
không có tham khảo từ kháng sinh đồ đã tạo 
nên những mầm bệnh mới đa kháng thuốc và 
siêu kháng thuốc.
Kết quả nuôi cấy chủ yếu là vi khuẩn 
Gram âm (64,8%) với vi khuẩn hay gặp nhất 
là Acinetobacter spp. chiếm 24,1%. Đây là vi 
khuẩn đa kháng, kháng với hầu hết các kháng 
sinh thông thường, ngay cả kháng sinh dòng 
mới như Carbapenem tỷ lệ đề kháng cũng cao. 
Điều này là đáng báo động do các kháng sinh 
này đã từng là lựa chọn rất hiệu quả trong điều 
trị nhiễm khuẩn do Acinetobacter [1]. Nghiên 
cứu cũng cho kết quả 17,2% nhiễm nấm 
Candida spp. Sau mổ tim, bệnh nhân thường 
được điều trị dài ngày với kháng sinh phổ rộng 
và phải thực hiện nhiều thủ thuật là điện kiện 
thuận lợi dẫn tới việc xuất hiện các chủng nấm. 
Thực tế đã cho thấy tầm quan trọng của xét 
nghiệm vi sinh, kháng sinh đồ cũng như nghiên 
cứu sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh 
nhằm hạn chế tối đa việc lựa chọn kháng sinh 
ban đầu không phù hợp. 
Về mặt kinh tế chi phí sử dụng kháng 
sinh là một vấn đề được quan tâm. Việc tìm 
hiểu chi phí cho sử dụng kháng sinh là một 
tiêu chí đánh giá sử dụng kháng sinh hợp lý. 
Trong nghiên cứu này, chi phí sử dụng kháng 
sinh trung bình là 8.222.395 đồng/bệnh nhân, 
chiếm gần 1/5 (19,6%) tổng chi phí điều trị. 
Thực tế cũng đã cho thấy, các loại kháng sinh 
đắt tiền đang được sử dụng ngày càng nhiều, 
điển hình là phân nhóm Carbapenem, mặc 
dù sử dụng ít hơn các nhóm kháng sinh khác 
nhưng lại có giá thành tương đối cao, do đó 
đã chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí 
thuốc kháng sinh tại bệnh viện [1]. 
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã cho thấy sử dụng kháng 
sinh sau mổ tim hở là cần thiết, được sử dụng 
một cách hệ thống, tuy nhiên KSDP còn kéo 
dài sau mổ, chủ yếu dùng kháng sinh phổ rộng 
và ít có sự phối hợp với xét nghiệm vi sinh, 
chi phí điều trị kháng sinh còn cao.
1. Nên phân loại phẫu thuật tim theo mức 
độ sạch trước mổ, từ đó có chiến lược sử dụng 
KSDP hợp lý.
2. Tăng cường xét nghiệm vi sinh và làm 
kháng sinh đồ tìm căn nguyên gây bệnh.
3. Cần thiết phải xây dựng các tài liệu chỉ 
dẫn và phác đồ cho việc sử dụng kháng sinh 
trong dự phòng và điều trị riêng tại bệnh viện, 
phù hợp với đặc điểm dịch tễ học nhiễm khuẩn 
bệnh viện, mô hình vi khuẩn và dựa theo các 
tài liệu chỉ dẫn quốc tế.
4. Tăng cường thực hiện các nghiên cứu sử 
dụng kháng sinh và kháng kháng sinh cũng 
như đảm bảo công tác kiểm soát nhiễm khuẩn 
bệnh viện. 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 65.2014 49
ABTRACT 
REMARKS ON ANTIBIOTIC TREATMENT AFTER OPEN HEART SURGERY AT 
DEPARTMENT OF CARDIOVASCULAR AND THORACIC SURGERY VIET DUC UNIVERSITY 
HOSPITAL
Objective: To describe the usage of antibiotics after open heart surgery at Department of Cardiovascular and Thoracic 
surgery, Viet Duc University Hospital and give advice for optimization of antibiotic treatment after open heart surgery. 
Patients and methods: This was a retrospective, prospective and descriptive study for a period from 2012 to 2013. The study 
focused on patient’s characteristics (sex, age, types of surgery), parameters of antibiotic therapy (name, 
treatment regimen, duration, method of administration, complication), microbiological tests and cost of antibiotic 
treatment. Results: There are 217 patients in the study. 208 (95,9%) patients, who had a clean wound were prescribed 
prophylactic antibiotic treatment and 53,8% of them were prolonged for more than 48 hours after operation. 100% of 
patients underwent post - operative antibiotic therapy with the most common antibiotic being β-lactam (64,7%). 93,5% 
of patients used antibiotics at least seven days and 47,9% received more than two antibiotics. There were positive 
microbiological cultures in 45 cases (28,5%), and in only 70,8% of them was antibiotic therapy in concordance with 
antibiogram results. The cost of antibiotics accounted for 19,6% of the total treatment costs. Conclusion: The study proved 
that antibiotic treatment is very important and routine after open heart surgery. So duration of antibiotic prophylactic is 
prolonged and usually used broad-spectrum antibiotics for treatment without coordination with microbiological tests. The 
cost of antibiotics accounted for a high percentage of the total treatment costs. Keywords: use of antibiotics, prophylactic 
antibiotics, open heart surgery. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Global Antibiotic Resistance Partnership - Việt Nam (2009), “Báo cáo về sử dụng kháng sinh và kháng kháng 
sinh tại 15 Bệnh viện Việt Nam 2008 - 2009”.
2. Global Antibiotic Resistance Partnership - Việt Nam (2010), “Phân tích thực trạng: Sử dụng kháng sinh và kháng 
kháng sinh ở Việt Nam”.
3. Lý Ngọc Kính, Ngô Thị Bích Hà và cộng sự (2011), “Tình hình sử dụng kháng sinh ở người bệnh bị nhiễm khuẩn 
bệnh viện tại một số đơn vị điều trị tích cực”, Y học thực hành, 763 (5), tr. 51 - 53.
4. Nguyễn Việt Hùng và cộng sự (2010), “Đặc điểm dịch tễ học nhiễm khuẩn vết mổ và tình hình sử dụng kháng sinh 
ở bệnh nhân phẫu thuật tại một số bệnh viện tỉnh phía Bắc năm 2008”, Y học thực hành, 705 (2), tr. 48 – 52.
5. Lador A., Nasir H., Mansur N. et al (2011), “Antibiotic prophylaxis in cardiac surgery: systematic review and meta 
- analysis”, J Antimicrob Chemother, 3, pp. 1 - 10.
6. Harbarth S., Samore M.H., Lichtenberg D. et al (2000), “Prolonged antibiotic prophylaxis after cardiovascular 
surgery and its effect on surgical site infections and antimicrobial resistance”, Circulation, 101, pp. 2916 – 2921.
7. Vogtlander N.P., Van Kasteren M.E, Natsch S. et al (2004), “Improving the process of antibiotic therapy in daily 
practice: Interventions to optimize timing, dosage adjustment to renal function and switch therapy”, Arch Intern Med, 164 
(11), pp. 1206 - 1212.

File đính kèm:

  • pdfnhan_xet_thuc_trang_su_dung_khang_sinh_sau_mo_tim_ho_tai_kho.pdf