Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả lấy huyết tắc (embolectomy) điều trị tắc động mạch chi dưới cấp tính
Đặt vấn đề: Tắc động mạch chi dưới cấp tính là một cấp cứu nội - Ngoại khoa thường gặp trên lâm sàng. Hiện nay việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau mổ tắc động mạch chi dưới cấp tính còn nhiều khó khăn. Mục tiêu: Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả sau mổ lấy huyết tắc ở bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch Bệnh viện Việt Đức.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang trên 59 bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính được mổ lấy huyết tắc/mổ lấy huyết tắc kết hợp mở cân cẳng chân từ 1/2014-12/2015
Bạn đang xem tài liệu "Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả lấy huyết tắc (embolectomy) điều trị tắc động mạch chi dưới cấp tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả lấy huyết tắc (embolectomy) điều trị tắc động mạch chi dưới cấp tính
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 33 Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả lấy huyết tắc (embolectomy) điều trị tắc động mạch chi dưới cấp tính Đoàn Quốc Hưng*, Ngô Gia Mạnh** Trường Đại học Y Hà Nội*, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tắc động mạch chi dưới cấp tính là một cấp cứu nội - ngoại khoa thường gặp trên lâm sàng. Hiện nay việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau mổ tắc động mạch chi dưới cấp tính còn nhiều khó khăn. Mục tiêu: Nhận xét quy trình chăm sóc và kết quả sau mổ lấy huyết tắc ở bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch Bệnh viện Việt Đức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang trên 59 bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính được mổ lấy huyết tắc/mổ lấy huyết tắc kết hợp mở cân cẳng chân từ 1/2014-12/2015. Kết quả: Tuổi trung bình là 63,5±12,6 (38 nam, 21 nữ). Lấy huyết tắc kết hợp mở cân cẳng chân 9 BN. 59 BN (100%) được sử dụng kháng sinh và Heparin tĩnh mạch sau mổ, 55 bệnh nhân (93,2%) đáp ứng thuốc giảm đau là Perfalgan. 48 bệnh nhân (81,4%) được thay băng khi băng thấm dịch. Nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi nguy cơ không hồi phục có tỷ lệ cắt cụt chi thì hai cao hơn nhóm vào viện với tình trạng thiếu máu chi hồi phục. 62,8% bệnh nhân đạt kết quả tốt sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình là 10,1± 6,4 ngày (1 ngày-30 ngày). Kết luận: Phần lớn bệnh nhân đáp ứng với giảm đau bằng Perfalgan. Thay băng hàng ngày với BN có mở cân hoặc khi băng thấm dịch. Nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi nguy cơ không hồi phục có thời gian nằm viện dài hơn, có tỷ lệ cắt cụt thì hai cao hơn nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi hồi phục. Từ khóa: Tắc động mạch chi dưới cấp tính ĐẶT VẤN ĐỀ Tắc động mạch chi dưới cấp tính là hiện tượng tắc đột ngột một hoặc nhiều nhánh động mạch cấp máu cho chi dưới gây nên tình trạng thiếu máu cấp đòi hỏi điều trị nội - ngoại khoa cấp cứu. Đây là một bệnh lý thường gặp trên lâm sàng. Theo Dormandy tỷ lệ tắc động mạch chi dưới cấp tính trong dân số là 14 trên 100.000 dân, chiếm 10%-16% trong các bệnh lý về mạch máu [1]. Việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau mổ tốt giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục, giảm tỷ lệ biến chứng, giảm thời gian nằm viện cho bệnh nhân. Hiện nay, việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân sau mổ tắc động mạch chi dưới cấp tính còn nhiều khó khăn. Để điều trị toàn diện cho bệnh nhân tốt hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm rút ra nhận xét về quy trình chăm sóc và kết quả sau mổ lấy huyết khối gây tắc động mạch chi dưới cấp tính tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch lồng ngực Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn 2014-2015. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.201734 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Tất cả bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính được điều trị mổ lấy huyết khối hoặc mổ lấy huyết khối kết hợp mở cân cẳng chân tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch lồng ngực Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015. Loại khỏi nghiên cứu những bệnh nhân tắc mạch chi dưới do chấn thương, vết thương, các trường hợp tắc mạch chi dưới bệnh lý nhưng vào viện với dấu hiệu thiếu máu không Bảng 1. Tiêu chuẩn đánh giá tình trạng thiếu máu chi theo Rutherford 2010 [2] Tình trạng thiếu máu Cảm giác Vận động Doppler Động mạch Tĩnh mạch Hồi phục (Sống được) Bình thường Bình thường Rõ Rõ Nguy cơ không hồi phục Đau khi nghỉ Vừa phải Không rõ Rõ Không hồi phục Mất cảm giác Mất vận động Mất Mất Bảng 2. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả sau mổ trên lâm sàng theo Đặng Hanh Sơn [3] Tốt Không tốt Tồi Chi hồi phục hoàn toàn. Hết hoàn toàn các triệu chứng cơ năng trước mổ Giữ được chi nhưng các triệu chứng cơ năng chỉ giảm bớt Phải cắt cụt một phần chi hoặc bệnh nhân tử vong hay nặng về hồi phục buộc phải cắt cụt chi thì đầu, hoặc các trường hợp kèm theo phẫu thuật bắc cầu hay ghép mạch nhân tạo hay tự thân. Các trường hợp tắc mạch bệnh lý chi trên cũng bị loại. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Chọn mẫu: Chọn mẫu không xác suất. Cỡ mẫu: Thuận tiện. Thu thập số liệu: Sử dụng số liệu hồi cứu. Tiêu chuẩn đánh giá Tình trạng thiếu máu chi khi vào viện và kết quả phẫu thuật. Xử lý số liệu Bằng các thuật toán thống kê y học sử dụng phần mềm SPSS 22.0. KẾT QUẢ Từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015 có 59 bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính đạt tiêu chuẩn lựa chọn vào đối tượng nghiên cứu, với đặc điểm như sau: Đặc điểm chung bệnh nhân khi vào viện - Tuổi trung bình là 63,5±12,6 (từ 36 đến 86). Chủ yếu thuộc nhóm tuổi > 60 tuổi (57,6%). - Giới: Nam: 38 (64,4%). Nữ: 21 (35,6%). - Tình trạng thiếu máu chi lúc vào viện: thiếu máu còn hồi phục: 29 bệnh nhân (49,2%). Thiếu máu nguy cơ không hồi phục: 30 bệnh nhân (50,8%). - Phẫu thuật lấy huyết tắc đơn thuần 50 BN, lấy huyết tắc kết hợp mở cân cẳng chân 9 BN. Quy trình chăm sóc sau mổ - 59 BN (100%) được sử dụng kháng sinh và Heparin tĩnh mạch sau mổ. - Sử dụng thuốc giảm đau sau mổ: 55 bệnh nhân (93,2%) đáp ứng với Perfalgan, 4 bệnh nhân (6,8%) chỉ đáp ứng khi dùng Morphin. - Thay băng sau mổ: 9 bệnh nhân (15,2%) được NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 35 thay băng hàng ngày (là các trường hợp mở cân cẳng chân phối hợp), 48 bệnh nhân (81,4%) chỉ thay băng khi băng vết mổ thấm dịch, 2 bệnh nhân (3,4%) không thay băng. Kết quả và biến chứng sau mổ - Sau mổ có 37 bệnh nhân (62,8%) đạt kết quả tốt, 11 bệnh nhân (18,6%) có kết quả không tốt, 11 bệnh nhân (18,6%) có kết quả xấu. Bảng 3. Biến chứng sau mổ (N= 59) Thiếu máu chi hồi phục Nguy cơ không hồi phục Chung N % N % N % Tắc lại động mạch chi 4 13,8 7 23,3 11 18,6 Cắt cụt chi thì hai 0 0 8 26,7 8 13,6 Chảy máu vết mổ 1 3,4 1 3,3 2 3,4 Nhiễm khuẩn bệnh viện 0 0 2 6,7 2 3,4 Nhiễm trùng vết mổ 0 0 1 3,3 1 1,7 Tử vong và nặng về 1 3,4 2 6,7 3 5,1 Thời gian nằm viện sau mổ Bảng 4. Thời gian nằm viện và thời gian thiếu máu chi (N= 59) Thiếu máu hồi phục Nguy cơ không hồi phục Chung Thời gian nằm viện (ngày) 8,1±5,9 12,1±6,3 10,1±6,4 BÀN LUẬN Dịch tễ học Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn Đặng Hanh Sơn năm 2001 (tuổi trung bình là 56,8) [3]. Tuổi trung bình của bệnh nhân tắc động mạch chi dưới cấp tính có xu hướng tăng lên do tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên, tỷ lệ bệnh tim do thấp giảm. Giới: Tỷ lệ bệnh nhân nam gặp nhiều hơn bệnh nhân nữ, tương tự với kết quả của Đặng Hanh Sơn (nam 59,1%, nữ 40,9%) [3]. Quy trình chăm sóc sau mổ Tại Khoa Tim mạch Bệnh viện Việt Đức việc chăm sóc sau mổ bệnh nhân bị phẫu thuật lấy huyết tắc (Embolectomy), tái lập tuần hoàn mạch chi dưới thường được tuân theo một phác đồ nhất định, bao gồm: - Sử dụng kháng sinh và Heparin: được áp dụng cho 100% BN trong nghiên cứu, vì tất cả các trường hợp đều phải mổ cấp cứu, nguy cơ nhiễm trùng cao, đặc biệt với các trường hợp có mở cân cẳng chân phối hợp. Dù nguyên nhân tắc mạch là gì (tại tim, tại mạch máu, bệnh chuyển hóa) thì việc sử dụng Heparin liều 50-150 UI/kg là cần thiết nhằm hạn chế huyết tắc tái phát, tuy nhiên đối với các BN buộc phải mở cân cẳng chân cần thận trọng làm thao tác mở cân đúng kỹ thuật, cầm máu kỹ vết mổ (nhất là các tĩnh mạch nông) tránh nguy cơ chảy máu sau mổ do dùng Heparin. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.201736 - Kiểm soát đau sau mổ: Phần lớn bệnh nhân sau mổ đáp ứng với giảm đau bằng Perfalgan (93,2%). Điều này cho thấy việc kiểm soát đau cho bệnh nhân sau mổ tắc động mạch chi dưới cấp tính không quá khó khăn. Song song với việc kiểm soát đau tốt cần chú ý đến tình trạng tưới máu chi vì đau tăng có thể là biểu hiện của tắc động mạch lại. - Chăm sóc vết mổ: Việc thay băng, chăm sóc vết mổ có vai trò quan trọng giúp phòng nhiễm khuẩn vết mổ. Với những bệnh nhân có mở cân cẳng chân cần chú ý giữ độ ẩm thích hợp cho vết mổ và phòng mất nước cho bệnh nhân vì lượng dịch mất qua vết mở cân nhiều. Sau mổ phần lớn bệnh nhân được thay băng khi băng thấm dịch với 48 bệnh nhân (81,4%), và không có trường hợp nào nhiễm trùng chỗ mở cân. Có 2 bệnh nhân không được thay băng vì 1 bệnh nhân sau mổ 1 ngày được chuyển về tuyến dưới điều trị tiếp, 1 bệnh nhân còn lại tử vong sau mổ 1 ngày do bệnh nội khoa phối hợp. Kết quả này cho thấy việc chăm sóc sau mổ lấy huyết tắc mạch máu tại Khoa Tim mạch Bệnh viện Việt Đức đã khá bài bản, tuân thủ theo các phác đồ đã đặt ra và có kết quả chấp nhận được. Kết quả và biến chứng sau mổ (bảng 3) Tỷ lệ cắt cụt thì hai trong nghiên cứu của chúng tôi là 13,6% cao hơn nghiên cứu của Đặng Hanh Sơn (3,3%) [3], tương tự với các tác giả khác trên thế giới (Whithman 12,4%, Eliason 12,7 %) [4],[5]. Nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi nguy cơ không hồi phục có tỷ lệ cắt cụt chi thì hai cao hơn nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi sống được. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,03. Sau mổ có 37 bệnh nhân (62,8 %) có kết quả tốt sau mổ. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu của Đặng Hanh Sơn năm 2001 (27,3%) [3]. Tất cả các trường hợp mở cân cẳng chân đều không có biến chứng nhiễm trùng tại chỗ. Điều này được lý giải do hiện nay tỷ lệ bệnh nhân đến viện sớm cao hơn, kỹ thuật mổ hoàn thiện hơn, trang thiết bị y tế, điều kiện chăm sóc sau mổ tốt hơn. Tỷ lệ tử vong, nặng về trong nghiên cứu của chúng tôi là 5,1% tương tự nghiên cứu của Đặng Hanh Sơn (4,5%) [3], thấp hơn so với các tác giả khác trên thế giới (Whithman 12,4%, Eliason 9%) [4],[5]. Sự khác biệt này do các tác giả trên thế giới có thời gian theo dõi bệnh nhân dài hơn. Trong nghiên cứu có 3 bệnh nhân nặng về, tuy nhiên bệnh diễn biến nặng do bệnh lý kết hợp của bệnh nhân chứ không phải do biến chứng sau mổ. Trong 3 bệnh nhân, có 1 bệnh nhân xuất hiện nhồi máu não diện rộng, 1 bệnh nhân xuất hiện suy tim cấp/viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn van hai lá, 1 bệnh nhân xuất hiện ngừng tuần hoàn ngày thứ 2 sau mổ. Các tác giả trên thế giới đều nhận thấy rằng sau mổ bệnh nhân tử vong, nặng về do các bệnh lý kết hợp chứ không phải do biến chứng sau mổ lấy huyết khối. Thời gian nằm viện của nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng chi nguy cơ không hồi phục lớn hơn nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng chi sống được (12 ± 6,3 ngày so với 8,1 ± 5,9 ngày). Điều này lần nữa khẳng định vai trò của việc chẩn đoán, vận chuyển và xử trí sớm các trường hợp tắc mạch cấp tính chi, làm giảm thiểu nguy cơ cắt cụt chi và rút ngắn thời gian nằm viện, chi phí điều trị. KẾT LUẬN Phẫu thuật lấy huyết tắc/và hoặc phối hợp mở cân cẳng chân điều trị thiếu máu cấp tính chi dưới tại Bệnh viện Việt Đức là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Sau mổ lấy huyết tắc gây tắc động mạch chi dưới cấp tính phần lớn bệnh nhân đáp ứng với thuốc giảm đau bậc 1 là Perfalgan (93,2%), bệnh nhân được thay băng khi băng thấm dịch (81,4%). 62,8% bệnh nhân đạt kết quả tốt sau mổ. Tắc động mạch lại, cắt cụt chi thì hai là biến chứng thường gặp sau mổ tắc động mạch chi dưới cấp tính. Sau mổ NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 37 bệnh nhân tử vong, nặng về do các bệnh lý kết hợp chứ không phải do biến chứng sau mổ. Nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi nguy cơ không hồi phục có tỷ lệ cắt cụt thì 2 cao hơn, thời gian nằm viện dài hơn nhóm bệnh nhân vào viện với tình trạng thiếu máu chi sống được. RÉSUMÉ Introduction: L’ischémie des membres inférieurs est une urgence médico-chirurgicale fréquente. Le traitement et le soin post-opératoire pour les patients ayant l’ischémie aiguë des membres inférieurs posent beaucoup de problèmes. Objectif: Observer et évaluer les processus des soins post-opératoire aux patients ayant l’ischémie aiguë des membres inférieurs au service de chirurgie cardio-thoracique au CHU Viet Duc. Matériel et méthode: Il s’agit d’une étude rétrospective et d’une description transversale. La recherche est menée sur un échantillon de 59 patients ayant des ischémies aiguës des membres inférieurs. Ces patients ont été opérés par la thrombectomie ou la thrombectomie combinée avec la fasciotomie de la jambe de 1 / 2014 à 12 / 2015. Résultats: L'âge moyen etait de 63,5 ± 12,6 (38 hommes, 21 femmes), 9 patients ayant d’embolectomy plus fasciotomie. 100% des patients ont eu d’antibiotic et Héparine par voie intra veineuse Il y a eu 55 patients (93,2%) qui répondent à Perfalgan. Les bandages sont changéschez 48 patients (81,4%) après une soigntement de plaie. Les patients au stade menaçant ont eu plus de risque d'amputation secondaire que ceux au stade viable. 62,8% des patients etaient en bon état après l’opération. La durée moyenne d'hospitalisation etait de 10,1 ± 6,4 jours (1 jour-30 jours). Conclusion: La majorité des patients répondent à Perfalgan. Les patients sont changés bandages quand ils absorbent fluide. Les patients au stade menaçant ont de risques d'amputation secondaire et plus de temps d'hospitalisation que ceux au stade viable. Mots clés: L’ischémie aiguë des membres inférieurs. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Dormandy J, Vig S (1999). Acute limb ischemia. Semin Vasc Surg, 12(2), 148-153. 2. Jack L.C, Johnston K.W (2010). Acute Ischemia: Evaluation and Decision Making, Rutherford’s vascular Surgery, 7, Saunders, 2389-2411. 3. Đặng Hanh Sơn (2001). Chẩn đoán và thái độ xử trí nghẽn động mạch ngoại vi cấp tính, Luận văn Thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 4. Withman B, Foy C (2004). For the Thrombolysis Study Group. National audit of thrombolysis for acute leg ischemia (NATALI): Clinical factors asociated with early outcome. J Vasc Surg, 39, 1018-1025 5. Eliason J.L, Proctor M.C et al (2003). A national and single institutional experience in the contemporary treatment of acute lower extremity ischemia. Ann Surg, 238, 382-390
File đính kèm:
nhan_xet_quy_trinh_cham_soc_va_ket_qua_lay_huyet_tac_embolec.pdf

