Nhận xét qua 32 trường hợp chuyển mổ mở và biến chứng cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại bụng Bệnh viện Quân Y 175
Nghiên cứu hồi cứu 32 trường hợp phải chuyển sang mổ mở do tai biến, biến chứng
cũng như khó khăn kỹ thuật trong tổng số 814 trường hợp được cắt túi mật nội soi tại
Khoa Ngoại bụng bệnh viện 175 từ 7/2000 đến 6/2014 cho thấy có 23 bệnh nhân nam
và 9 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 56,71± 13,84. 29 trường hợp phải chuyển sang mổ
mở ngay trong mổ, trong đó có 7 chảy máu không kiểm soát được (24,14%), khó khăn
kỹ thuật 15 (51,72%), rách thanh mạc cơ đại tràng ngang 2 (6,9%), tổn thương đường
mật 5 (17,24%). 3 trường hợp biến chứng phát hiện sau mổ: 1 rò mật do tổn thương ống
gan phải trong mổ không phát hiện ra, 1 chảy máu giường túi mật, 1 hẹp phần thấp ống
mậ
Bạn đang xem tài liệu "Nhận xét qua 32 trường hợp chuyển mổ mở và biến chứng cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại bụng Bệnh viện Quân Y 175", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận xét qua 32 trường hợp chuyển mổ mở và biến chứng cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại bụng Bệnh viện Quân Y 175
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 107 TÓM TẮT Nghiên cứu hồi cứu 32 trường hợp phải chuyển sang mổ mở do tai biến, biến chứng cũng như khó khăn kỹ thuật trong tổng số 814 trường hợp được cắt túi mật nội soi tại Khoa Ngoại bụng bệnh viện 175 từ 7/2000 đến 6/2014 cho thấy có 23 bệnh nhân nam và 9 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình là 56,71± 13,84. 29 trường hợp phải chuyển sang mổ mở ngay trong mổ, trong đó có 7 chảy máu không kiểm soát được (24,14%), khó khăn kỹ thuật 15 (51,72%), rách thanh mạc cơ đại tràng ngang 2 (6,9%), tổn thương đường mật 5 (17,24%). 3 trường hợp biến chứng phát hiện sau mổ: 1 rò mật do tổn thương ống gan phải trong mổ không phát hiện ra, 1 chảy máu giường túi mật, 1 hẹp phần thấp ống mật chủ. Nguyên nhân chủ yếu của chuyển mổ mở và tai biến biến chứng là do tình trạng túi mật bị viêm dính, biến đổi về giải phẫu, và một phần do trình độ phẫu thuật viên. Tổn thương đường mật là tai biến hết sức nguy hiểm trong phẫu thuật để lại hậu quả rất nặng nề. Việc xử trí các tai biến và biến chứng phụ thuộc vào từng loại thương tổn, có ý nghĩa sống còn trong chất lượng điều trị. SOME REMARKS 32 CASES TO SWITCH TO OPEN SURGERY DUE TO COMPLICATIONS, COMPLICATIONS OF LAPAROSCOPIC CHOLECYSTECTOMY ABDOMINAL SURGERY AT 175 MILITARY HOSPITAL SUMMARY This retrospective study of 32 cases to switch to open surgery due to casualties, complications and technical difficulties of the total 814 cases of laparoscopic cholecystectomy at Abdominal Surgery Department at Hospital 175 from 7/2000 to 6/2014 showed that 23 male and 9 female patients , average age 56,71± 13,84. 29 cases were immediately switched to open surgery during surgery while 7 of uncontrolled bleeding (24,14%), 15 of technical difficulties (51,72%), 2 of tearbar opening the transverse colonmuscle (6,9%), 5 of biliary lesions (17,24%). 3 cases of post operative NHẬN XÉT QUA 32 TRƯỜNG HỢP CHUYỂN MỔ MỞ VÀ BIẾN CHỨNG CẮT TÚI MẬT NỘI SOI TẠI KHOA NGOẠI BỤNG BỆNH VIỆN QUÂN Y 175 Trịnh Văn Thảo1, Nguyễn Xuân Thắng1 Nguyễn Thành Nam1, Trương Đức Cường1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Trịnh Văn Thảo ([email protected]) Ngày gửi bài: 4/4/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 17/4/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 108 complications detected: 1 of leaking bile duct by the right hepatic duct lesion which was not detected during surgery, 1 of bleeding gallbladder bed, 1 of narrow lower part of the bile duct. The main causes of the switch to open surgery and complications were due to gallbladder inflammation stick, anatomic variations, and partly due to the qualifications of the surgeons. Biliary lesion is a very dangerous complication and surgical consequences are very severe. The management of casualties and complications depending on the type of lesions and regarded as the vital factor for quality of treatment. ĐẶT VẤN ĐỀ Kể từ khi Phillip- Mouret thực hiện cắt túi mật nội soi đầu tiên vào năm 1987 cho đến nay có tới > 90% các bệnh lý của túi mật được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi. Thực tiễn đã cho thấy, phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm so với phẫu thuật mở kinh điển như: tính thẩm mỹ cao, đau sau mổ ít, thời gian nằm viện ngắn và người bệnh nhanh chóng trở lại với hoạt động bình thường. Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi không thể thay thế hoàn toàn mổ mở do khó khăn về giải phẫu cũng như kinh nghiệm của phẫu thuật viên.Vấn đề lo ngại nhất trong phẫu thuật CTMNS là biến chứng chảy máu và tổn thương đường mật chính, đây là những biến chứng nguy hiểm có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ thậm chí tính mạng của bệnh nhân. Việc chuyển sang mổ mở cũng như cách xử trí tai biến biến chứng của phẫu thuật CTMNS là việc làm cần thiết nhằm bảo đảm an toàn cho người bệnh. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn: gồm các bệnh nhân phải chuyển sang mổ mở và có tai biến, biến chứng trong cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại bụng Bệnh viện 175 từ 7/2001 đến tháng 6/ 2014. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: các bệnh nhân chuyển sang mổ mở bởi các lí do không liên quan tới cắt túi mật nội soi. 2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu theo phương pháp hồi cứu. - Ghi nhận các dữ kiện lâm sàng, BC, Billirubine, siêu âm, chẩn đoán trước và sau mổ. - Ghi nhận các trường hợp phải chuyển mổ mở vì tai biến trong mổ, do khó khăn kỹ thuật, các biến chứng sau mổ. Các loại tổn thương đường mật và phương pháp xử trí. - Phân loại tổn thương đường mật chính trong mổ theo Busmuth 1982 có 5 kiểu:. Kiểu I: tổn thương đường mật chính dưới hợp lưu > 2 cm. Kiểu II: tổn thương đường mật chính dưới hợp lưu < 2 cm. Kiểu III: tổn thương OGC sát ngã 3, còn hợp lưu. Kiểu IV: tổn thương cắt rời OGP và OGT Kiểu V: tổn thương OGP có hoặc không tổn thương OGC. Kết quả nghiên cứu được xử lí bằng các thuật toán thống kê y học SPSS 14.0. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 109 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 7/2000 đến tháng 6/2014 trong tổng số 814 trường hợp được cắt túi mật nội soi tại khoa ngoại bụng bệnh viện 175 có 32 trường hợp phải chuyển sang mổ mở và gặp các tai biến, biến chứng chiếm 4,72%. Đặc điểm chung của nghiên cứu Bảng 1. Tuổi Nhóm tuổi n Tỷ lệ % < 60 18 56,25 > 60 14 43,75 Tổng 32 100 Tuổi cao nhất 79, thấp nhất 22, trung bình ±56,71 ± 13,84 ; tuổi < 60 (62%), tuổi > 60 (38%). Giới tính: nam 23, nữ 9; tỷ lệ nam/nữ ≈ 2,55 Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng Đặc điểm lâm sàng N Tỷ lệ % Đau hạ sườn phải 28 87,5 Phản ứng cơ hạ sườn phải 17 53,12 Sờ thấy túi mật to 6 18,75 Sốt 15 46,87 Vàng da 1 3,10 Về lâm sàng hầu hết bệnh nhân đều có đau vùng hạ sườn phải (87,5%), phản ứng thành bụng 17 trường hợp (53,12%), sốt cao 38- 390 (46,87%), TM to 6 (18,75%); vàng da nhẹ 1(3,1%). Bảng 3. Tình trạng túi mật ghi nhận trong mổ (n= 32) Tình trạng túi mật Số TH Tỷ lệ % Viêm cấp 13 40,62 Viêm hoại tử 4 12,50 Viêm mạn 5 15,63 Sỏi đơn thuần 10 31,25 Tổng 32 100 Viêm TM cấp và viêm TM hoại tử chiếm 53,12%; sỏi TM đơn thuần 31,25%; viêm mạn 15,63% TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 110 Bảng 4. Lý do chuyển sang mổ mở trong mổ (n=29) Lý do Số TH Tỷ lệ % Khó khăn kỹ thuật 15 51,72 Chảy máu 7 24,14 Tổn thương đường mật chính 5 17,24 Tổn thương đại tràng 2 6,90 Tổng 29 100 Chuyển mổ mở do khó khăn kỹ thuật chiếm hầu hết các trường hợp với 51,72%; Chảy máu 24,14%; Tổn thương đường mật chính phát hiện trong mổ 5 (17,24%). Bảng 5. Tai biến trong mổ (n= 15) Loại BC Số TH Tỷ lệ% Tổn thương ĐMC 6 40,00 Chảy máu GTM 5 46,68 Chảy máu ĐMTM 2 Tổn thương ĐT 2 13,32 Biến chứng chảy máu (46,68%)và tổn thương đường mật chính (40%)chiếm đa số. Bảng 6. Loại tổn thương đường mật chính theo Busmuth 1982 và PP xử lý (n=6). Tổn thương ĐMC trong mổ sau mổ Số TH Xử trí tai biến Kiểu I 2 2 Khâu OMC + Kerh Kiểu II 1 1 Nối OGC- HT Roux en Y Kiểu III 1 1 Nối OGC- HT Roux en Y Kiểu V 1 1 2 Nối OGP- HT Roux en Y Vết thương bên OMC: khâu + dẫn lưu Kerh; vết thương mất đoạn OMC,OGC, OGP nối mật- ruột. Bảng 7. Biến chứng sau mổ và PP xử lý Biến chứng sau mổ Số trường hợp PP xử lý biến chứng Chảy máu giường túi mật 1 Mổ lại đốt cầm máu giường túi mật Rò ống gan phải 1 Nối OGP- Hỗng tràng Roux- en-Y Hẹp ống mật chủ 1 ERCP đặt stent Một trường hợp chảy máu giường TM và 1 TH bỏ sót tổn thương OGP phải mổ lại, một trường hợp hẹp OMC được nội soi mật tụy ngược dòng đặt stent OMC. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 111 BÀN LUẬN Hầu hết các tác giả cho thấy, phẫu thuật nội soi cắt túi mật là phương pháp an toàn và hiệu quả. Mặc dù tỷ lệ chuyển mổ mở vì tai biến biến chứng và do khó khăn kỹ thuật là thấp, nhưng hậu quả để lại rất nặng nề nếu chúng ta không có phương pháp xử lý phù hợp. Theo thống kê hiện nay, tỷ lệ chuyển mổ hở vẫn vào khoảng 5%, trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ chuyển mổ mở do cả nguyên nhân tai biến và khó khăn kỹ thuật là 29/814(3,56%). Trong 29 trường hợp phải chuyển mổ mở, lí do chảy máu không cầm được bằng nội soi 7(24,14%), khó khăn kỹ thuật do viêm dính quanh túi mật 15 (51,72%), tổn thương đường mật chính 5 (17,24%), tổn thương đại tràng 2 (6,9%). Như vậy, hầu hết lí do chuyển mổ mở là viêm dính chiếm 51,72%. Nguyễn Đình Hối trong 2589 ca CTMNS chuyển mổ mở do viêm dính là 42 trường hợp chiếm 59,52% [5], Đoàn Ngọc Giao tỷ lệ chuyển mổ mở do viêm dính 63,64% [4]. Tác giả người pháp Perrier (1994) khi phẫu thuật cho 500 trường hợp CTMNS cho thấy 2 nguyên nhân chủ yếu phải chuyển mổ mở là viêm dính và chảy máu, trong đó viêm dính chiếm 44%[trích 4]. Chúng tôi gặp 8 trường hợp chảy máu, trong đó chảy máu trong mổ phải chuyển mổ mở 7 (24,14%) bao gồm 5 trường hợp chảy máu do rách động mạch túi mật, 2 trường hợp chảy máu từ giường túi mật. Các trường hợp chảy máu chủ yếu do túi mật viêm dính khi phẫu tích không nhận rõ giải phẫu động mạch túi mật, 2 trường hợp chảy máu từ giường túi mật do túi mật ấn sâu vào giường túi mật làm chảy máu. Các trường hợp chảy máu khó cầm làm mờ phẫu trường, và hầu hết là những trường hợp xảy ra trong thời gian đầu thực hiện CTMNS. Như vậy, tỷ lệ chảy máu phải chuyển mổ mở trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của tác giả Đoàn Ngọc Giao với tỷ lệ chảy máu trong mổ phải chuyển mổ mở là 33,6%[4]. Tổn thương đường mật chính: trong các tai biến của cắt túi mật nội soi, tổn thương đường mật là biến chứng nặng nhất, khắc phục khó khăn nhất và để lại hậu quả nặng nề nhất nếu không kịp thời phát hiện và có biện pháp điều trị phù hợp. Chúng tôi gặp 6 trường hợp tổn thương đường mật chính trong tổng số 814 TH được phẫu thuật CTMNS (0,74%) và chiếm 40% các tai biến trong mổ (5 phát hiện trong mổ, 1 phát hiện sau mổ), trong đó có: 2 trường hợp cắt vào thành bên OMC, 2 trường hợp cắt đứt OGC, 2 trường hợp cắt OGP. Tỷ lệ tổn thương ĐMC của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Quốc Việt là 0,93%[7], và Đỗ kim Sơn là 0,9%[6]. Theo Đỗ Kim Sơn, tổn thương đường mật chính phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên, tỷ lệ tổn thương đường mật chính của người mổ > 25 ca ít hơn người mổ < 25 ca là 0,73% so với 1,63%. Nguyễn Hoàng Bắc cũng cho rằng, nguyên nhân chính của biến chứng này là do thiếu kinh nghiệm của phẫu thuật viên và do sỏi kẹt cổ túi mật [1]. Khi phát hiện tổn thương đường mật chính, cách thức xử lí đúng sẽ mang lại sự bình phục sớm cho người bệnh. Theo Schol[8], các tổn thương loại nhẹ (độ I, II, IIIa) chỉ cần khâu nối trên kerh, loại nặng (IIIb, IV) phải nối mật ruột. Trong nghiên cứu của chúng tôi 3 ca loại IIIb, 2 ca loại IV đều được nối mật- ruột theo Roux En Y, 1 trường hợp loại II được làm ERCP vào tuần thứ 2 sau mổ. Trong 6 ca tổn thương đường mật chính được can thiệp lại thì 5/6 (83,3%) cho kết quả tốt, 1 trường hợp có biểu hiện hẹp miệng nối mật ruột phải làm lại miệng nối sau 3 tháng. Tổn thương tạng chúng tôi gặp 2 trường hợp. Đây là những trường hợp túi mật bị viêm cấp, đại tràng ngang dính chặt TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 112 vào túi mật, khi phẫu tích tách đại tràng ra khỏi túi mật đã làm thủng đại tràng. Cả 2 trường hợp này chúng tôi đều mổ mở nhỏ, kéo đại tràng ngang ra ngoài để khâu lại thành đại tràng, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Biến chứng sau mổ có 3 trường hợp:1 trường hợp chảy máu riềm túi mật phát hiện vào ngày hôm sau, mổ mở tìm điểm chảy máu, đốt cầm máu. 1 trường hợp rò mật sau mổ qua ống dẫn lưu, siêu âm nhiều dịch trong ổ bụng, mổ lại sau 3 ngày thấy tổn thương ống gan phải, xử trí: nối ống gan phải hỗng tràng Roux- en- Y. 1 trường hợp đã xuất viện, sau 7 ngày thấy mệt mổi, sốt nhẹ, vàng da- mắt tăng, siêu âm hẹp phần thấp OMC, xử trí: ERCP đặt stent. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 32 trường hợp phải chuyển sang mổ mở và có tai biến biến chứng của phẫu thuật nội soi cắt TM tại Bệnh viện Quân Y 175 từ 7/2000- 6/2014 chúng tôi thu được kết quả như sau: 1. Nguyên nhân chuyển mổ mở - Chuyển mổ mở 29 TH: khó khăn kỹ thuật 51,72%; tai biến chảy máu 24,14%; tổn thương đường mật chính 17,24 %. 2. Tai biến trong mổ và biến chứng sau mổ - Tai biến trong mổ 15 TH: chảy máu 7(46,68%), tổn thương ĐMC 6(40 %), tổn thương tạng 2 (13,32%). - Biến chứng sau mổ 3: chảy máu 33%, rò mật 33%, hẹp OMC 33% 3. Biện pháp xử lý tai biến, biến chứng - Chảy máu: mổ mở cầm máu 100 % - Tổn thương ĐMC: khâu ĐMC + dẫn lưu kerh 33,3%, nối mật- ruột 66,6%. - Tổn thương tạng ( tổn thương đại tràng ngang): mở nhỏ khâu thanh mạc cơ. - Hẹp OMC: nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) đặt stent OMC. 4. Kết quả điều trị Kết quả điều trị: tốt 96,87%; khá 0%; trung bình 3,12 %; xấu 0 %. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoàng bắc, Bùi An Thọ (1998), “ Tổn thương đường mật chính trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi”, Ngoại khoa, tập 33, số 6, tr 38- 45. 2. Nguyễn Tấn Cường (1997), điều trị sỏi túi mật bằng phẫu thuật cắt túi mật qua soi ổ bụng, Luận án PTS khoa học Y Dược TP.HCM. 3. Trần Bình Giang, Đỗ Mạnh Hùng, Đỗ Tuấn Anh (1998), “Phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Việt Đức” , Ngoại khoa tập 33, số 6, tr 7- 10. 4. Đoàn Ngọc Giao (2002), Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ chuyển mổ mở và tai biến biến chứng cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Việt- Đức, Luận văn Thạc sỹ y học HN 5. Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Tấn Cường (2001), Cắt túi mật bằng phẫu thuật nội soi. Ngoại khoa, số 01, tr: 7- 14. 6. Đỗ Kim Sơn và cs (2003), “Nghiên cứu nguyên nhân và phương pháp xử lý tai biến biến chứng của phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa số 3 tập 53, tr 1-9. 7. Nguyễn Quốc Việt, Trần Bảo Long (2011), Đánh giá kết quả cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang. Ngoại khoa, số 04, tr: 31-38 8. Schol FPG, et al (1994), Risks fac- tors for bile duct injury in laparoscopic cholesystectomy: Analysis of 49 case, Br J Surg, 1, 1786- 1788. 9. Bismuth H, F. lazorthes F (1982), les traumatismes operatoires de la voie biliaire principale, J Chir, 118, 10, 601- 609.
File đính kèm:
nhan_xet_qua_32_truong_hop_chuyen_mo_mo_va_bien_chung_cat_tu.pdf

