Nhận xét kết quả bước đầu phẫu thuật kết xương nẹp khóa điều trị gãy xương gót
Đặt vấn đề
Từ những năm cuối Thế kỷ XX, nhiều loại nẹp khóa phù hợp hình thể giải phẫu
xương gót ra đời đã thúc đẩy xu thế phẫu thuật điều trị gãy xương gót. Nẹp khóa
xương gót được ứng dụng ở trong nước khoảng 2 năm trở lại đây. Mục tiêu của đề
tài này là nhận xét kết quả sớm ứng dụng phẫu thuật kết xương gót bằng nẹp khóa
xương gót.
Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu mô tả lâm sàng tiến cứu 16 BN với 17 xương gót gãy, loại Sanders
II, III, IV, được phẫu thuật kết xương bằng nẹp khóa xương gót, trong thời gian
từ 11/2014 đến 4/2016, tại Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108.
Tất cả BN đều đươc mổ theo đường mổ hình chữ L mặt ngoài vùng gót chân, kết
xương bằng nẹp khóa xương gót
Bạn đang xem tài liệu "Nhận xét kết quả bước đầu phẫu thuật kết xương nẹp khóa điều trị gãy xương gót", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận xét kết quả bước đầu phẫu thuật kết xương nẹp khóa điều trị gãy xương gót
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung 257 Nguyễn Lâm Bình Nguyễn Năng Giỏi Nguyễn Thế Bình Nguyễn Văn Lượng Nguyễn Vũ Tuấn Anh Phạm Thanh Tùng Lê Hoài Nam Đào Đăng Linh Nguyễn Đình Phong Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108. Email: [email protected] Nguyen Lam Binh et al NHẬN XÉT KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT KẾT XƯƠNG NẸP KHÓA ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG GÓT TÓM TẮT Đặt vấn đề Từ những năm cuối Thế kỷ XX, nhiều loại nẹp khóa phù hợp hình thể giải phẫu xương gót ra đời đã thúc đẩy xu thế phẫu thuật điều trị gãy xương gót. Nẹp khóa xương gót được ứng dụng ở trong nước khoảng 2 năm trở lại đây. Mục tiêu của đề tài này là nhận xét kết quả sớm ứng dụng phẫu thuật kết xương gót bằng nẹp khóa xương gót. Đối tượng và phương pháp Nghiên cứu mô tả lâm sàng tiến cứu 16 BN với 17 xương gót gãy, loại Sanders II, III, IV, được phẫu thuật kết xương bằng nẹp khóa xương gót, trong thời gian từ 11/2014 đến 4/2016, tại Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108. Tất cả BN đều đươc mổ theo đường mổ hình chữ L mặt ngoài vùng gót chân, kết xương bằng nẹp khóa xương gót. Kết quả Kết quả chỉnh góc Böhler sau mổ đạt 300 ± 60 (trước mổ là 50 ± 50), góc Gissane đạt từ 1150 đến 1400. Thời điểm phẫu thuật trung bình là 12,4 ± 3,1 ngày sau chấn thương. Vết mổ liền sẹo kỳ đầu 13 vết mổ, có 2 vết mổ thiểu dưỡng mép vạt da hình L, liền sẹo muộn và 2 vết mổ không liền phải tháo bỏ nẹp. Theo dõi được 14 ổ gãy sau mổ trên 6 tháng, đánh giá theo AOFAS Ankle-Hindfoot scale đạt 76,5 điểm (± 15,5 điểm). Kết luận Phẫu thuật kết xương gót bằng nẹp khóa xương gót là một phương pháp điều trị gãy xương gót loại Sanders II, III, IV cho kết quả phục hồi chức năng tốt. Đường mổ mở rộng ở mặt ngoài hình chữ L bộc lộ rõ khớp sên gót sau và thành ngoài xương gót được bộ lộ rõ, thuận lợi cho chỉnh các mảnh gãy và kết xương. Cần thận trọng bóc tách vạt chữ L đủ độ dầy và dẫn lưu vết mổ để tránh nguy cơ thiểu dưỡng, hoạt tử da, không liền vết mổ. Từ khóa gãy xương gót, nẹp khóa, nửa sau bàn chân THE PRELIMINARY RESULT OF THE OSTEOSYNTHESIS WITH LOCKING PLATE FOR TREATMENT OF THE CALCANEAL FRACTURE ABSTRACT Introduction Since the last of the 20th century, various anatomically locking calcaneal plates have been available, promote the surgical treatment trend for calcaneal fracture. In last 2 years, it has been used in Viet Nam. The objective of this project is to assess the early outcome of surgical treatment using calcaneal locking plate. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 258 Material and Method Prospetive observational study of 16 patients with 17 displaced calcaneal fractures type II, III, IV (Sanders’ classification) had osteosynthesis using the calcaneal locking plate, between Nov 2014 and April 2016 at The Institute of Trauma and Orthopaedics, 108 General Military Hospital. All patients were operated with L shape incision at lateral aspect of the heel and used the calcaneal locking plate. Results The mean post-operative Bӧhler’s angle was 300 ± 60 (pre-op 50 ± 50). The post- operative Gissane’s angle range from 1150 to 1400. Surgery was performed on an average of 12.4 days (± 3.1) after trauma. The incision was primary healing in 13 cases, delayed healing in 2 cases and not healing in 2 cases. In 14 cases follow up more than 6 months, the average AOFAS Ankle - Hindfoot scale was 76.5 points ( ± 15.5 ). Conclusion surgical treatment using The Locking Calcaneal Plate for calcaneus fracture grade II, III, IV provided good results. Using L shape incision gave good injuries exposition. Be careful to dissect L shape flap for preserve vessels. Key words calcaneus fracture, locking plate, hindfoot. ĐẶT VẤN ĐỀ Gãy xương gót chiếm tỉ lệ 1% đến 2% trong tổng số gãy xương trên cơ thể, là gãy xương thường gặp nhất trong số gãy các xương tụ cốt vùng cổ chân, bàn chân, và có tới 75% là gãy phạm khớp [4]. Trước đây, đối với những gãy xương gót phạm khớp có di lệch, chủ yếu là được điều trị bảo tồn và được phẫu thuật đóng cứng khớp sên gót khi có di chứng đau, hư khớp sên gót. Một số phẫu thuật viên chủ trương sớm đóng cứng khớp sên gót ở những trường hợp gãy xương gót phạm khớp, di lệch nhiều để BN nhanh chóng trở lại công việc [5]. Điều trị phẫu thuật kết xương gót mới được đề cập đến nhiều trong khoảng 30 năm trở lại đây, từ khi có chụp cắt lớp vi tính (chụp CT) cho xương gót. Dựa trên hình ảnh chụp CT xương gót, phân loại gãy xương gót của Sander R. năm 1993, được nhiều phẫu thuật viên ưa dùng. Tuy nhiên, kỹ thuật kết xương khá phức tạp, kết quả phục hồi chức năng không đạt tương xứng với kết quả phẫu thuật. Nhiều tác giả như Potter M.Q. [4], Thordarson D.B. [6], Buckley R. [2], Agren Per-H. [1] theo dõi và so sánh kết quả xa sau nhiều năm giữa nhóm gãy xương gót có di lệch mặt khớp sên gót sau, được phẫu thuật kết xương với nhóm điều trị không phẫu thuật, kết quả cho thấy các chỉ số đánh giá chức năng ở nhóm được mổ kết xương có tốt hơn so với nhóm được điều trị bảo tồn. Từ những năm cuối Thế kỷ XX, nẹp khóa phù hợp với hình thể giải phẫu của xương gót (nẹp khóa xương gót) ra đời đã thúc đẩy xu thế điều trị phẫu thuật kết xương gót. Tuy nhiên, kết quả và tỉ lệ biến chứng còn là vấn đề có nhiều bàn luận. Trong nước, cũng có nhiều phẫu thuật viên thực hiện phẫu thuật điều trị gãy xương gót nhưng chưa có báo cáo nào về kết quả phẫu thuật kết xương gót. Nẹp khóa xương gót mới được nhập và ứng dụng vào điều trị phẫu thuật kết xương gót trong khoảng 2 năm trở lại đây. Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài: “Nhận xét kết quả bước đầu phẫu thuật kết xương nẹp khóa điều trị gãy xương gót”. Với mục tiêu: nhận xét kết quả sớm ứng dụng phẫu thuật kết xương gót bằng nẹp khóa xương gót. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Đối tượng nghiên cứu 16 bệnh nhân (BN) gãy xương gót đã được phẫu thuật kết xương nẹp khóa (loại nẹp khóa cho xương gót), tại Viện Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện TƯQĐ 108 từ tháng 11/2014 đến tháng 4/2016. Lứa tuổi từ 21 đến 50 tuổi, gồm 15 nam và 1 nữ. Tất cả BN đều đươc mổ theo đường mổ hình chữ L mặt ngoài vùng gót chân, kết xương bằng nẹp khóa xương gót (chất liệu thép, của hãng Mikromed, Ba Lan). 2. Phương pháp nghiên cứu Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung 259 Nghiên cứu mô tả lâm sàng tiến cứu, không nhóm chứng. * Lựa chọn BN: gãy kín xương gót, có hình ảnh gãy phạm khớp sên gót sau (posterior subtalar joint), di lệch trên phim Xquang thường quy và phim chụp cắt lớp vi tính (CT, Computer Tomography); di lệch mặt khớp ≥ 2 mm, loại II, III, IV theo phân loại của Sanders R. * Kỹ thuật mổ: BN nằm nghiêng về bên chân lành, bàn mổ có thể dùng được máy chụp Xquang tăng sáng (C-arm). Phẫu thuật theo đường mổ mở rộng của Seattle (Seattle approach), hình chữ L mặt ngoài vùng gót chân (hình 1A) [7]. Chỉnh mở ổ gãy, chú ý mặt khớp sên gót sau, đặt nẹp khóa mặt ngoài xương gót, kết xương nẹp khóa (hình 1B), kiểm tra dưới C-arm. Hình 1: Đường mổ của Seattle và kết xương bằng nẹp khóa xương gót * Tập luyện sau mổ: đi lại chống 1 nạng từ sau mổ 6 tuần; đi không nạng từ sau mổ 8 đến 10 tuần. * Chỉ tiêu đánh giá: Đánh giá kết quả phẫu thuật: mức độ chỉnh trục kết xương dựa vào hình ảnh Xquang thường quy sau mổ; tình trạng tại chỗ sau mổ và khả năng liền vết mổ; các tai biến, biến chứng sớm. Đánh giá kết quả sớm (từ sau mổ 6 tháng đến 1 năm) dựa theo thang điểm đánh giá cho cổ chân và nửa sau bàn chân của Hội chỉnh hình cổ chân – bàn chân Mỹ (AOFAS Ankle-Hindfoot scale). KẾT QUẢ Có 16 BN với 19 ổ gãy xương gót (3 BN gãy cả 2 xương gót) kết xương nẹp khóa cho 17 xương gót (n = 17), 2 BN chỉ kết xương nẹp khóa xương gót 1 bên còn bên kia điều trị bảo tồn. Nguyên nhân chấn thương: 15 BN do ngã cao, 1 BN do tai nạn giao thông. Chấn thương khác kết hợp: 3 BN chấn thương cột sống không liệt tủy. 1 BN gãy 1/3T xương chày (gãy 2 xương gót) Tổn thương xương gót theo phân loại của Sanders (n = 17): 8 ổ gãy loại II, 7 ổ gãy loại III, 2 ổ gãy loại IV. Thời điểm phẫu thuật: từ 5 ngày đến 19 ngày sau chấn thương, trung bình là 12,4 ± 3,1 ngày. Kết quả chỉnh ổ gãy, kết xương: - Góc Bӧhler trước mổ từ 200 đến -100, trung bình là 50 ± 50; sau mổ từ 200 đến 400, trung bình là 300 ± 60. - Góc Gissane: từ 1150 đến 1400, trung bình là 1310 ± 5,50. Tình trạng tại chỗ sau mổ: - Liền sẹo kỳ đầu: 13 vết mổ kết xương gót. - Thiểu dưỡng mép vạt da hình L, liền sẹo muộn: 2 vết mổ. - Không liền vết mổ, lộ nẹp: 2 vết mổ. Theo dõi sau mổ trên 6 tháng được 13 BN với 14 ổ gãy xương gót, kết quả theo thang điểm AOFAS Ankle- Hindfoot scale: 76,5 điểm (± 15,5 điểm). BÀN LUẬN Xương gót chịu lực “đội lên đầu mình” gần toàn bộ trọng lượng cơ thể và gãy xương gót thường là do lực chấn thương trực tiếp. Tổng hợp của nhiều nghiên cứu cho thấy nguyên nhân do ngã cao, chân tiếp đất luôn chiếm tỉ lệ cao nhất 55% đến 85%. Trong 16 BN gãy xương gót có tới 15 trường hợp bị ngã cao từ trên 2 m và 1 trường hợp do tai nạn giao thông. Chấn thương khác kèm theo gồm có 1 BN bị gãy 1/3T xương chày, 3 BN bị chấn thương cột sống không liệt tủy. Những trường hợp tổn thương liệt tủy, chúng tôi không tiến hành kết xương gót. Phần lớn BN ngã cao do tai nạn lao động, lứa tuổi từ 21 đến 50 tuổi và tỉ lệ nam/nữ là 15/1. Chấn thương gãy xương gót thường kèm theo phù nề nhiều ở vùng bàn chân. Nhiều trường hợp máu tụ, phù nề, phỏng nước hoặc mảnh xương di lệch đội dưới da gây thiểu dưỡng da. Buckley R. [2] khuyến cáo nên đợi cho phần mềm vùng nửa sau bàn chân giảm nề nhiều rồi hãy tiến hành phẫu thuật, thông thường phải chờ khoảng 8 đến 14 ngày. Có những trường hợp phẫu thuật phải chậm lại sau chấn thương 3 tuần, nhưng tác giả cũng khuyên không nên để quá 3 tuần, sẽ khó chỉnh ổ gãy do can xương hình thành. Các tác giả Zwipp H. và CS [7] đã tiến hành phẫu thuật cho 496 BN gãy xương gót vào thời điểm trung bình là 8,8 ngày sau chấn thương (từ ngày đầu đến ngày thứ 23) bằng nhiều đường mổ khác nhau. Thời điểm phẫu thuật 16 BN của chúng tôi trong khoảng từ 5 ngày đến 19 ngày sau chấn thương, trung bình là 12,4 ± 3,1 ngày. Theo Sanders R. [5], những trường hợp mảnh xương đội dưới da, nhất là trong loại gãy mảnh nửa trên sau xương gót di lêch chếch lên trên (Tongue type), nên được phẫu thuật sớm trong những giờ đầu khi mới chấn thương. Chúng tôi có gặp 2 trường TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 260 hợp như vậy, nhưng BN đến muộn, bàn chân phù nề nhiều, đã phải lùi phẫu thuật sau 2 tuần. Có nhiều đường mổ vào xương gót được Zwipp H. và CS [7], Sanders R. và CS [5], Cronier P. và CS [3] mô tả chi tiết cho từng loại gãy và từng kỹ thuật kết xương gót. Có 2 đường mổ được phẫu thuật viên ưa dùng mổ mở vào mặt ngoài xương gót: một đường có hình chữ L (mô tả của Seattle) và một đường mổ song song với gân 2 cơ mác dài, mác ngắn đi từ sau dưới mắt cá ngoài, vén 2 gân này xuống dưới (mô tả của Palmer) [7]. Theo Sanders R. [5], Cronier P. [3], đường mổ của Palmer chỉ đi vào được khớp sên chày sau và rất khó bộc lộ được mặt ngoài nửa sau xương gót để có thể chỉnh trục và đặt nẹp xương gót. Đường mổ mở rộng hình chữ L có thể bộ lộ rõ khớp sên gót sau và mặt ngoài xương gót, thuận lợi cho nắn chỉnh mặt khớp, trục xương gót và kết xương. Tuy nhiên, các tác giả cũng cảnh báo đường mổ của Seattle rất có nguy cơ thiểu dưỡng vạt da chữ L nếu bóc tách không đủ độ dầy hoặc để máu tụ dưới vạt. Trong 453 BN, Zwipp H. và CS [7] gặp biến chứng máu tụ dưới vạt da chiếm 4,7%, hoại tử một phần vạt da 6,7%, nhiễm khuẩn phần mềm là 4,3%, nhiễm khuẩn xương 2,2%. Chúng tôi gặp 4 trường hợp biến chứng tại vết mổ, trong đó có 2 vết mổ đã liền sẹo muộn, còn 2 trường hợp không liền vết mổ, lộ nẹp. Vạt da của 3/4 trường hợp này bị thiểu dưỡng dẫn đến 1 trường hợp hoại tử da, lộ nẹp và 2 trường hợp liền vết mổ muộn. Trường hợp hoại tử da đã được cắt lọc hoại tử, điều trị liệp pháp hút áp lực âm. BN đã được tháo bỏ nẹp ở thời điểm sau mổ kết xương 7 tuần, ghép da là liền vết mổ. Có 1 trường hợp không liền vết mổ do máu tụ dưới vạt da được phát hiện muộn. BN đã được tách vết mổ, lấy máu tụ, khâu da kỳ hai nhưng vết mổ không liền hoàn toàn và phải tháo bỏ nẹp sau 2 tháng. Cả 2 trường hợp tháo bỏ nẹp sớm, xương gót không bị di lệch thứ phát và không có trường hợp nào bị viêm xương. Chúng tôi cho rằng, độ dày của vạt da chữ L, động tác nhẹ nhàng khi nâng vạt trong quá trình mổ và dẫn lưu dưới vạt là yếu tố quan trọng để tránh biến chứng tại vết mổ. Bằng đường mổ rộng hình chữ L, chỉnh các di lệch mặt khớp sên chày sau và thân xương gót thường rất thuận lợi. Trong quá trình mổ có thể kiểm soát bằng mắt mặt khớp sên chày sau, góc Bӧhler và góc Gissane. Trong nghiên cứu này, góc Bӧhler cải thiện từ 50 ± 50 trước mổ thành 300 ± 60 sau mổ, góc Gissane sau mổ đạt được từ 1150 đến 1400, trung bình là 1310 ± 5,50. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Thordarson D.B. và CS [6], góc Bӧhler đạt trung bình từ 110 trước mổ thành 260 sau mổ. Các tác giả Cronier P. và CS [3] cho rằng trong chỉnh gãy xương gót, góc Gissane là quan trọng cần phải đạt được về bình thường trong khoảng từ 1250 đến 1400 khi chỉnh di lệch sập lún ở khớp sên chày sau. Phân loại 17 ổ gãy xương gót theo Sanders R., có 8 ổ gãy loại II, 7 ổ gãy loại III, 2 ổ gãy loại IV. Chúng tôi nhận thấy trong phẫu thuật, kỹ thuật chỉnh mặt khớp mức độ khó tăng dần từ loại II đến loại IV. Qua đường mổ mặt ngoài, rất khó kiểm soát mảnh gãy di lệch phía bên trong, ở những trường hợp gãy loại IIC, IIIAC, IIIBC và IV. Đây chỉ là nhận xét chủ quan khi phẫu thuật và dựa vào Xquang thường quy sau mổ, kết quả đánh giá bị hạn chế do không chụp CT sau mổ. Theo Zwipp H. [7], những trường hợp gãy loại II, III, IV có đường gãy C nên mổ thêm 1 đường mổ mặt trong, theo trục bàn chân đi qua mỏm chân đế của xương gót (sustentaculum) để chỉnh mảnh gãy và cố định từ phía trong. Một nhận xét khác mà chúng tôi thấy ở những trường hợp nửa thân trước xương gót hoặc vùng củ gót bị gãy dập vụn, nhiều mảnh di lệch thì việc chỉnh về giải phẫu những vùng này khá khó khăn, khi khoan bắt vít có cảm giác như vào một khoang trống. Vấn đề ghép xương cho những trường hợp gãy sập lún xương gót còn có quan điểm khác nhau. Các tác giả như Sanders R. [5], Zwipp H. [7], Cronier P. [3] đều cho rằng không nhất thiết phải ghép xương cho những trường hợp sập lún xương gót. Điều quan trọng là chỉnh về giải phẫu mặt khớp và thành ngoài, thành trong của xương gót. Chúng tôi cũng đồng ý quan điểm không nhất thiết phải ghép xương sau khi nâng các mảnh xương lún. 17 ổ gãy đều chỉ chỉnh trục kết xương và không ghép xương. Chúng tôi không đủ tư liệu khảo sát phim CT xương gót theo dõi sau mổ, nhưng Xquang thường quy của 14 ổ gãy được theo dõi trên 6 tháng đều không có sự thay đổi về hình thể so với ngay sau mổ. Thang điểm AOFAS Ankle-Hindfoot score luôn được các tác giả sử dụng đánh giá kết quả xa điều trị gãy xương gót. Nhiều nghiên cứu, gãy xương gót được điều trị phẫu thuật kết xương bằng nhiều phương tiện kết xương khác nhau, điểm AOFAS Ankle-Hindfoot scale đạt được từ 60 điểm đến 100 điểm. Trong nghiên cứu này, theo dõi sau mổ từ 6 tháng đến 1 năm được 14 ổ gãy xương gót, điểm AOFAS Ankle-Hindfoot score trung bình là 76,5 điểm (± 15,5 điểm). Đây là kết quả bước đầu, có thể được đánh giá là tương đối tốt so với các nghiên cứu khác, tuy nhiên còn cần nghiên cứu tiếp với mẫu lớn hơn và thời gian dài hơn. Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung 261 KẾT LUẬN Phẫu thuật kết xương bằng nẹp khóa xương gót là một phương pháp điều trị gãy xương gót loại II, III, IV (theo phân loại của Sanders) cho kết quả phục hồi chức năng tốt, điểm AOFAS Ankle-Hindfoot scale trung bình là 76,5 ± 15,5 điểm. Thời điểm phẫu thuật nên để chậm lại ở tuần thứ 2 sau chấn thương, chờ phần mềm tại chỗ đỡ phù nề. Bằng đường mổ mở rộng mặt ngoài hình chữ L, khớp sên gót sau và thành ngoài xương gót được bộ lộ rõ, thuận lợi cho chỉnh các mảnh gãy, kết xương. Tuy nhiên, vết mổ hình chữ L có nguy cơ thiểu dưỡng vạt da. Cần thận trọng bóc tách vạt chữ L đủ độ dầy và dẫn lưu vết mổ để tránh nguy cơ hoạt tử da, không liền vết mổ. Tài liệu tham khảo 1. Agren P. H., Wretenberg P., Sayed-Noor A. S. (2013) "Operative versus nonoperative treatment of displaced intra- articular calcaneal fractures: a prospective, randomized, controlled multicenter trial". J Bone Joint Surg Am, 95 (15), 1351-7. 2. Buckley R., Sands A. (2016) Calcaneus - Displaced fractures, ORIF - plate and screw fixation, AO Foundation, 11/7. 3. Cronier P., Steiger V., Viel T., Talha A. (2012) Open reduction and internal fixation of calcaneal ‘thalamic’ fractures. Orthopaedics and Trauma. 155-170. 4. Potter M. Q., Nunley J. A. (2009) "Long-term functional outcomes after operative treatment for intra-articular fractures of the calcaneus". J Bone Joint Surg Am, 91 (8), 1854-60. 5. Sanders R. (2000) "Displaced intra-articular fractures of the calcaneus". J Bone Joint Surg Am, 82 (2), 225-50. 6. Thordarson D. B., Krieger L. E. (1996) "Operative vs. nonoperative treatment of intra-articular fractures of the calcaneus: a prospective randomized trial". Foot Ankle Int, 17 (1), 2-9. 7. Zwipp H., Rammelt S., Barthel S. (2004) "Calcaneal fractures--open reduction and internal fixation (ORIF)". Injury, 35 Suppl 2, Sb46-54.
File đính kèm:
nhan_xet_ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_ket_xuong_nep_khoa_dieu.pdf

