Nhân trường hợp: cắt toàn bộ đốt sống ngực rộng rãi qua đường sau do ung thư di căn cột sống
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khoảng 2/3 các bệnh nhân (BN) bị u ác tính sẽ tiến triển di căn và số lượng người bị u ác tính tăng liên tục hàng năm. Hệ thống xương là vị trí di căn phổ biến thứ ba, và trong đó cột sống là vị trí hay gặp nhất. Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh, tỷ lệ ung thư di căn cột sống ở những BN có bệnh lý u ác tính chiếm khoảng 30-90%, trong đó thì có 20% BN ung thư di căn có biểu hiện liệt thần kinh do khối u phát triển chèn ép ống sống [1].
Phẫu thuật vẫn là phần cơ bản của điều trị u cột sống sau điều trị nội khoa. Mục đích phẫu thuật là lấy bỏ khối u, giảm áp cho tuỷ sống để giúp hồi phục chức năng thần kinh, duy trì sự vững cơ học, giảm đau và chẩn đoán mô bệnh học [2],[3]. Phẫu thuật lấy bỏ u trước đây dựa trên lấy bỏ u bên trong tổn thương, bằng cách lấy từng miếng nhỏ u với việc để lại phần viền xung quanh u hơn là cắt bỏ u cho tới tận tổ chức lành. Nhược điểm của kỹ thuật này là lấy bỏ u không hoàn toàn và vẫn còn để lại tổ chức u ở các mô xung quanh, dẫn tới tỷ lệ tái phát cao của u sau này[4]. Để giảm nguy cơ tái phát tại chỗ là lấy được u tối đa, nhiều phẫu thuật viên tiến hành lấy u bằng cả hai đường phối hợp: với đường trước lấy u và tái tạo lại cột trụ trước, sau đó tiếp tục với đường sau giải ép và cố định cột sống bằng dụng cụ. Với phương pháp phẫu thuật hai đường thì việc lấy u sẽ được nhiều hơn và việc tái tạo lại cột trụ trước sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên phương pháp này cũng không thể lấy hết u cho tới tận tổ chức lành và người bệnh phải chịu hai đường mổ lớn. Chính vì vậy trong bài báo này chúng tôi xin trình bày một phương pháp phẫu thuật cho các trường hợp ung thư di căn cột sống vừa có thể lấy u cột sống cho tới tổ chức lành, người bệnh chỉ chịu một đường mổ phía sau mà qua đó vẫn tái tạo lại được cột trụ trước
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân trường hợp: cắt toàn bộ đốt sống ngực rộng rãi qua đường sau do ung thư di căn cột sống
Phần 1: Phẫu thuật cột sống 7 Nguyễn Hoàng Long, Nguyên Lê Bảo Tiến, Đinh Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Thạch Khoa Phẫu thuật cột sống – Bv HN Việt Đức NHÂN TRƯỜNG HỢP: CẮT TOÀN BỘ ĐỐT SỐNG NGỰC RỘNG RÃI QUA ĐƯỜNG SAU DO UNG THƯ DI CĂN CỘT SỐNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khoảng 2/3 các bệnh nhân (BN) bị u ác tính sẽ tiến triển di căn và số lượng người bị u ác tính tăng liên tục hàng năm. Hệ thống xương là vị trí di căn phổ biến thứ ba, và trong đó cột sống là vị trí hay gặp nhất. Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh, tỷ lệ ung thư di căn cột sống ở những BN có bệnh lý u ác tính chiếm khoảng 30-90%, trong đó thì có 20% BN ung thư di căn có biểu hiện liệt thần kinh do khối u phát triển chèn ép ống sống [1]. Phẫu thuật vẫn là phần cơ bản của điều trị u cột sống sau điều trị nội khoa. Mục đích phẫu thuật là lấy bỏ khối u, giảm áp cho tuỷ sống để giúp hồi phục chức năng thần kinh, duy trì sự vững cơ học, giảm đau và chẩn đoán mô bệnh học [2],[3]. Phẫu thuật lấy bỏ u trước đây dựa trên lấy bỏ u bên trong tổn thương, bằng cách lấy từng miếng nhỏ u với việc để lại phần viền xung quanh u hơn là cắt bỏ u cho tới tận tổ chức lành. Nhược điểm của kỹ thuật này là lấy bỏ u không hoàn toàn và vẫn còn để lại tổ chức u ở các mô xung quanh, dẫn tới tỷ lệ tái phát cao của u sau này[4]. Để giảm nguy cơ tái phát tại chỗ là lấy được u tối đa, nhiều phẫu thuật viên tiến hành lấy u bằng cả hai đường phối hợp: với đường trước lấy u và tái tạo lại cột trụ trước, sau đó tiếp tục với đường sau giải ép và cố định cột sống bằng dụng cụ. Với phương pháp phẫu thuật hai đường thì việc lấy u sẽ được nhiều hơn và việc tái tạo lại cột trụ trước sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên phương pháp này cũng không thể lấy hết u cho tới tận tổ chức lành và người bệnh phải chịu hai đường mổ lớn. Chính vì vậy trong bài báo này chúng tôi xin trình bày một phương pháp phẫu thuật cho các trường hợp ung thư di căn cột sống vừa có thể lấy u cột sống cho tới tổ chức lành, người bệnh chỉ chịu một đường mổ phía sau mà qua đó vẫn tái tạo lại được cột trụ trước. 2. TRƯỜNG HỢP BỆNH Người bệnh nữ, 62 tuổi, cách vào viện khoảng 2 tháng BN thấy đau vùng cột sống ngực thấp (đoạn bản lề ngực – thắt lưng), BN đã đi điều trị đông y nhưng không đỡ. Cách vào viện khoảng 10 ngày, BN thấy xuất hiện yếu hai chân, tê hai chân cả mặt trước lẫn mặt sau, phần bụng dưới (dưới rốn) thấy thay đổi cảm giác sau đó triệu chứng BN ngày càng nặng lên từ đi lại khó, dần dần không đi lại được và phải nằm cáng. BN đã đi khám ở bệnh viện Tỉnh và được chẩn đoán và tổn thương đốt sống T11 chèn ép tủy ngang mức. Sau đó BN được chuyển đến với chúng tôi trong tình trạng: cơ lực hai chân gồm vận động háng, gối và bàn chân 2/5 điểm, rối loạn cảm giác hai chân từ bẹn xuống 1/2 điểm, rối loạn cơ tròn (BN đã đặt dẫn lưu nước tiểu từ bệnh viện Tỉnh). Khám thấy phản xạ gân xương hai gối tăng nhẹ, ấn đau ngang đoạn bản lề cột sống ngực thắt lưng. Trên phim X quang cột sống thường quy thấy hình ảnh “chột mắt” hai bên của đốt sống T11, trên phim chụp cắt lớp vi tính cột sống thấy hình ảnh phá hủy toàn bộ thân đốt sống T11, cuống sống 2 bên và mỏm gai đốt sống T11 (Hình 2.1). A TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 8 Hình 2.1: Hình ảnh tổn thương đốt sống T11 trên phim X quang và CLVT A- Hình ảnh mất cuống hai bên (chột mắt) của đốt sống T11 trên phim X quang cột sống thẳng B- Hình ảnh phá hủy đốt sống T11 cả phía trước và phía sau trên phim CLVT B A Trên phim cộng hưởng từ (CHT) có tiêm thuốc, thấy hình ảnh tổn thương toàn bộ đốt sống T11 và ngấm thuốc mạnh sau tiêm, khối u phát triển phá vỡ dây chằng dọc sau gây chèn ép tủy ngang mức. Tuy nhiên, chưa thấy khối u phá hủy dây chằng dọc trước và đĩa đệm T10/11, đĩa đệm T11/12, cũng như chưa thấy dấu hiệu khối u phát triển vào đốt sống T10 và T12 (Hình 2.2). Trên hình ảnh chụp xạ hình xương toàn thân, hình ảnh thuốc phóng xạ tập trung tại đốt sống T11 và các vùng xương khác trên cơ thể phóng xạ phân bố đều, như vậy ngoài đốt sống T11 chúng tôi chưa thấy dấu hiệu di căn đến các đốt sống khác (Hình 2.3). Phần 1: Phẫu thuật cột sống 9 Hình 2.2: Hình ảnh CHT tổn thương phá hủy đốt sống T11 hoàn toàn, nhưng chưa có sự phá hủy dây chằng dọc trước và các đốt sống liền kề. Hình 2.3: Xạ hình xương toàn thân, phóng xạ ngấm tại đốt sống T11, không thấy hình ảnh di căn các đốt sống khác B Chúng tôi đã tiến hành nút ba cặp động mạch đốt sống (Segmental Vertebral Atery) của các đốt sống T10, T11 và T12 trước mổ 1 ngày (Hình 2.4). Phương pháp mổ chúng tôi lựa chọn phương án tiếp cận chỉ đường sau giải ép, cố định cột sống và lấy u rộng rãi, làm sinh thiết tức thì trong mổ để quyết định phương án tái tạo cột trụ trước. Giải phẫu bệnh trong mổ là ung thư biểu mô nghĩ đến nguồn gốc tuyến giáp, chính vì vậy chúng tôi lựa chọn phương án tái tạo cột trụ trước bằng lồng titan và xương chậu tự thân của BN. Kỹ thuật mổ gồm các bước: bước 1 phẫu tích rộng rãi vùng cột sống ngực thắt lưng phía sau từ đốt sống ngực T7 đến đốt sống thắt lưng L3; Bước 2: cắt xương sườn các đốt sống T10 và T11 hai bên, thắt và cắt bó mạch thần kinh liên sườn T10 và T11 hai bên; Bước 3: bắt vít qua cuống hai bên các đốt sống T8, T9, T10, T12, L1 và L2; Bước 4: phẫu tích phần mềm xung quanh đốt sống T11 từ hai phía và từ sau ra trước (phẫu tích động TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 10 mạch chủ dưới và tĩnh mạch chủ dưới khỏi dây chằng dọc trước của cột sống đoạn T10-T12), sau đó luồn một dụng cụ vén từ sau ra trước và từ bên phải qua trái để bảo vệ động mạch và tĩnh mạch chủ dưới trong thì lấy thân đốt sống; Bước 5: Đục phần bờ dưới của thân đốt sống T10 và bờ trên đốt sống T12 để lấy toàn bộ u đốt sống T11; Bước 6: tái tạo lại cột trụ trước của đốt sống T11 bằng lồng titan và xương chậu tự thân; Bước 7: xiết ốc co nẹp và đóng vết mổ. BN sau mổ 2 ngày rút dẫn lưu vết mổ, sau mổ 14 ngày xuất viện. Sau khám lại 1 tháng BN đã có thể tự đi lại được. BN siêu âm tuyến giáp có nhân thùy trái tuyến giáp đã được tư vấn gửi bệnh viện nội tiết để tiếp tục điều trị. Hình 2.4: Nút 3 cặp động mạch đốt sống T10, T11 và T12 dưới DSA Hình 2.5: Hình ảnh X quang cột sống sau mổ Phần 1: Phẫu thuật cột sống 11 3. BÀN LUẬN Weinstein đã nhấn mạnh thời gian sống được kéo dài hơn có ý nghĩa thống kê ở những BN ung thư nguyên phát ở cột sống khi được cắt bỏ u rộng rãi, điều này có nghĩa rằng cắt bỏ u rộng rãi thì có kết quả tiên lượng tốt hơn [5]. Trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi lựa chọn phương pháp cắt bỏ u rộng rãi: lấy bỏ toàn bộ đốt sống T11, theo phân loại của Tomita thì việc cắt bỏ u rộng rãi trong trường hợp này giúp cho giảm nguy cơ tái phát u tại chỗ. Việc lấy bỏ toàn bộ thân đốt sống rộng rãi được chỉ định cho những BN ung thư cột sống nguyên phát hoặc ung thư di căn cột sống đơn độc. Ung thư phải không xâm lấn các tạng lân cận và phải không dính với tĩnh mạch và động mạch chủ thì phẫu thuật mới có thể tiến hành được [6]. Chống chỉ định liên quan tới phẫu thuật cắt toàn bộ thân đốt sống gồm thời gian sống dự kiến dưới 6 tháng và trên 2 đốt sống di căn liên tục trở lên. Tomita đã đưa ra một phân loại phẫu thuật mới cho u thân đốt sống, phân loại này gồm 3 yếu tố: (1) mức độ ác tính của u nguyên phát, (2) mức độ di căn tạng cho tới các cơ quan sống khác, (3) mức độ di căn xương gồm cả cột sống. Sau đó mỗi yếu tố được cho điểm tùy từng mức độ và tổng điểm được tính tổng của cả 3 yếu tố, với tổng điểm từ 2-3 điểm phẫu thuật được khuyên là cắt u đốt sống rộng rãi, từ 4-5 điểm phẫu thuật tới giới hạn hoặc bên trong khối u, từ 6-7 điểm phẫu thuật tạm thời điều trị triệu chứng (cố định cột sống nếu mất vững hoặc kết hợp giải ép nếu chèn ép thần kinh) và từ 8-10 điểm điều trị triệu chứng (giảm đau, áo nẹp ...) [7]. Trong trường hợp của chúng tôi có tổng điểm là 2, như vậy theo phân loại của Tomita thì trường hợp này cần cắt u rộng rãi. Nguyên lý cơ bản cho phẫu thuật cắt u rộng rãi này dựa trên nghiên cứu mà các tác giả đã đánh giá sự lan rộng tại chỗ của ung thư di căn đốt sống, trong đó người ta đã chứng minh rằng các đốt sống như những khoang riêng biệt được bao bọc bởi những hàng rào giải phẫu, những hàng rào này ngăn cản sự phát triển của các tế bào ung thư ra mô xung quanh, trong đó dây chằng dọc trước và đĩa đệm là những hàng rào vững hơn [4]. Lubicky và Savini đã báo cáo việc sử dụng phối hợp đường trước và đường sau bằng cách lấy toàn bộ thân đốt sống đường sau từng phần ở những BN u tế bào khổng lồ [8],[9]. Năm 1998, Margel và Cosia đã báo cáo việc thực hiện cắt toàn bộ thân đốt sống qua đường sau ở 9 BN bằng cách lấy từng phần đốt sống[10]. Sau đó Tomita đã thay đổi kỹ thuật bằng cách lấy cả khối thân đốt sống qua đường sau ở 24 BN ung thư di căn cột sống và 7 trường hợp ung thư đốt sống nguyên phát. Kỹ thuật lấy cả khối đốt sống của Tomita giúp giảm nguy cơ rơi vãi tế bào ung thư ra xung quanh vùng mổ, tuy nhiên để thực hiện kỹ thuật này đòi hỏi có một dụng cụ được thiết kế đặc biệt đó là dây cưa dạng sợi nhỏ, mềm, trơn để cắt cuống qua đó có tác dụng cắt cung sau cả khối và cắt thân đốt sống cả khối [11]. Chúng tôi hiện chưa có dây cưa Tomita cho nên ca đầu tiên chúng tôi chỉ có thể tiến hành cắt toàn bộ đốt sống T11 bằng cách cắt từng phần, tuy nhiên với việc cắt rộng rãi đốt sống T11 giúp lấy bỏ toàn bộ khối u cho tới tận dây chằng dọc trước và giới hạn trên và dưới là đĩa đệm T10-11, T11-12 vì chúng ta đã biết đây là những hàng rào chắc chắn ngăn u phát triển và thực tế ở BN này thì u cũng chưa phát triển vượt quá các hàng rào này. Những biến chứng có thể xảy ra ở kỹ thuật cắt đốt sống rộng rãi có thể xảy ra gồm: tổn thương thần kinh, tổn thương mạch máu lớn, chảy máu nhiều từ đám rối tĩnh mạch trước màng cứng, rối loạn tuần hoàn tủy sống [6]. Việc giảm nguy cơ mất máu được tiến hành chủ yếu bằng phương pháp nút động mạch đốt sống trước mổ: với cắt một thân được nút 3 cặp động mạch đốt sống gồm đốt tổn thương và 2 đốt ngay trên và dưới đốt tổn thương. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc nút 3 cặp động mạch đốt sống giúp giảm 75% lượng máu vào đốt sống tổn thương, nhưng chỉ giảm 15% lượng máu tủy và không có ảnh hưởng tới chức năng tủy sống [12],[13],[14]. Trong 2 trường hợp của chúng tôi lượng máu mất trong mổ từ 1500 – 2000ml, lượng máu mất này cũng tương ứng với các nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới [15],[16],[17]. Qua kết quả bước đầu nhân một trường hợp cắt u rộng rãi đường mổ sau, chúng tôi thấy rằng đây là kỹ thuật có thể triển khai được giúp lấy u tối đa, giảm lượng mất máu trong mổ, giảm các biến chứng, thời gian nằm viện so với việc can thiệp hai đường mổ, từ đó BN phục hồi sớm hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, cần có những theo dõi lâu hơn để có đánh giá toàn diện. 4. KẾT LUẬN Phương pháp lấy u rộng rãi trong một số trường hợp ung thư di căn cột sống với chỉ đường mổ sau là phương pháp mổ có thể áp dụng và an toàn. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 12 Tài liệu tham khảo 1. Lee, C.S. and C.H. Jung (2012). Metastatic spinal tumor. Asian Spine J, 6(1), 71-87. 2. Sundaresan, N., S. Boriani, and S. Okuno (2009). State of the art management in spine oncology: a worldwide perspective on its evolution, current state, and future. Spine (Phila Pa 1976), 34(22 Suppl), S7-20. 3. Kính, L. (2008). Bướu cột sống. Hội nghị thường niên lần thứ 15 - Hội chấn thương chỉnh hình Việt Nam, 65 - 83. 4. Fujita, T., et al. (1997). Local spread of metastatic vertebral tumors. A histologic study. Spine (Phila Pa 1976), 22(16), 1905-1912. 5. Weinstein, J.N. and R.F. McLain (1987). Primary tumors of the spine. Spine (Phila Pa 1976), 12(9), 843-851. 6. Tomita, K., et al. (1997). Total en bloc spondylectomy. A new surgical technique for primary malignant vertebral tumors. Spine (Phila Pa 1976), 22(3), 324-333. 7. Tomita, K., et al. (2001). Surgical strategy for spinal metastases. Spine (Phila Pa 1976), 26(3), 298-306. 8. Lubicky, J.P., N.S. Patel, and R.L. DeWald (1983). Two- stage spondylectomy for giant cell tumor of L4. A case report. Spine (Phila Pa 1976), 8(1), 112-115. 9. Savini, R., et al. (1983). Surgical treatment of giant-cell tumor of the spine. The experience at the Istituto Ortopedico Rizzoli. J Bone Joint Surg Am, 65(9), 1283-1289. 10. Magerl, F. and M.F. Coscia (1988). Total posterior vertebrectomy of the thoracic or lumbar spine. Clin Orthop Relat Res, 232), 62-69. 11. Tomita, K., et al. (1994). Total en bloc spondylectomy for solitary spinal metastases. Int Orthop, 18(5), 291-298. 12. Fujimaki, Y., et al. (2006). How many ligations of bilateral segmental arteries cause ischemic spinal cord dysfunction? An experimental study using a dog model. Spine (Phila Pa 1976), 31(21), E781-789. 13. Nambu, K., et al. (2004). Interruption of the bilateral segmental arteries at several levels: influence on vertebral blood flow. Spine (Phila Pa 1976), 29(14), 1530-1534. 14. Ueda, Y., et al. (2005). Influence on spinal cord blood flow and function by interruption of bilateral segmental arteries at up to three levels: experimental study in dogs. Spine (Phila Pa 1976), 30(20), 2239-2243. 15. Mesfin, A., et al. (2015). Total En Bloc Spondylectomy for Primary and Metastatic Spine Tumors. Orthopedics, 38(11), e995-e1000. 16. Tomita, K., et al. (1994). Total en bloc spondylectomy and circumspinal decompression for solitary spinal metastasis. Paraplegia, 32(1), 36-46. 17. Tanaka, M., et al. (2009). Surgical treatment of metastatic vertebral tumors. Acta Med Okayama, 63(3), 145-150.
File đính kèm:
nhan_truong_hop_cat_toan_bo_dot_song_nguc_rong_rai_qua_duong.pdf

