Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ

Tóm tắt: Vai trò kiến trúc trong xã hội chúng ta là hết sức quan trọng. Thiết kế và xây dựng

các công trình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi cá nhân, mọi tầng lớp, tổ chức xã

hội, nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần, đồng thời thúc đẩy quá trình phát triển

xã hội. Kiến trúc Việt hình thành và phát triển trong suốt một thời gian dài của lịch sử, là một

di sản văn hoá quí báu cho các thế hệ lưu giữ, tìm hiểu, nghiên cứu để kế thừa và phát huy

trên con đường xây dựng nền kiến trúc đương đại. Mục tiêu cơ bản của bài viết về "Nhân tố

hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ" là tìm hiểu sự dung hoà và tiếp

biến những sắc thái dân gian trong các thực thể kiến trúc khu vực miền Nam Trung Bộ. Qua

đó liên hệ, đúc kết những nhận định về thực tiễn của công tác bảo tồn trùng tu các công trình

kiến trúc dân gian xưa và khuynh hướng phát triển của kiến trúc này trong thời đại mới.

pdf 7 trang phuongnguyen 6420
Bạn đang xem tài liệu "Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ

Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 68 
NHÂN TỐ HÌNH THÀNH SẮC THÁI KIẾN TRÚC DÂN GIAN 
VÙNG NAM TRUNG BỘ 
(Tiểu vùng ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa) 
 ThS. NCS. kts. Trần Văn Hiến 
Phó Khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Vai trò kiến trúc trong xã hội chúng ta là hết sức quan trọng. Thiết kế và xây dựng 
các công trình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi cá nhân, mọi tầng lớp, tổ chức xã 
hội, nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần, đồng thời thúc đẩy quá trình phát triển 
xã hội. Kiến trúc Việt hình thành và phát triển trong suốt một thời gian dài của lịch sử, là một 
di sản văn hoá quí báu cho các thế hệ lưu giữ, tìm hiểu, nghiên cứu để kế thừa và phát huy 
trên con đường xây dựng nền kiến trúc đương đại. Mục tiêu cơ bản của bài viết về "Nhân tố 
hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ" là tìm hiểu sự dung hoà và tiếp 
biến những sắc thái dân gian trong các thực thể kiến trúc khu vực miền Nam Trung Bộ. Qua 
đó liên hệ, đúc kết những nhận định về thực tiễn của công tác bảo tồn trùng tu các công trình 
kiến trúc dân gian xưa và khuynh hướng phát triển của kiến trúc này trong thời đại mới. 
1. Sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam 
Trung Bộ 
Việc tổ chức kiến trúc ngôi nhà dân 
gian được bắt đầu từ việc chuẩn bị đất xây 
dựng sau đó mới tới hình thức kiến trúc, vật 
liệu và kỹ thuật xây dựng. 
1.1. Phong thủy nhà dân gian 
Quan điểm chủ đạo trong việc chọn vị 
trí đất và nhà dân gian trong xây dựng là 
theo những nguyên tắc của phong thủy. 
Mảnh đất xây nhà được chọn lựa rất kỹ để 
phù hợp với chủ nhân của nó về tuổi tác, 
cung mệnh. Người đứng ra xây dựng nhà 
trước tiên tìm tới các thầy "địa" để xem 
phong thủy, địa cuộc đất đai rồi chọn thợ, 
xem ngày cúng tế rồi mới cho động thổ khởi 
công. Nhà theo phong thủy phải có thế đất 
đẹp: “Minh đường thủy tụ” tức là trước nhà 
có nước tụ trong sáng như gương để nuôi 
dưỡng khí mạch của đất. Vì thế nếu không 
có sự tụ thủy tự nhiên, người ta thường đào 
ao trước nhà hoặc xây hòn non bộ để tượng 
trưng cho yếu tố này. Nhà có thế đất “tả phù 
hữu bật” tức là hai bên tả có Thanh long, 
hữu có Bạch hổ thì gia chủ sẽ phát tài, nhiều 
lộc, đông con trai gái. Cổng và cửa chính 
của nhà thường lệch nhau không nằm trên 
một trục. Người ta cũng tổ chức lối đi riêng, 
tách biệt cho người và gia súc (trâu, bò). 
Nhà dân gian xưa có vị trí hài hòa 
trong khu đất, trước và sau nhà đều có sân 
vườn nhiều hoa, cây xanh. Sân trước dùng 
để sinh hoạt và kết hợp làm không gian sản 
suất phụ, phơi nông sản sau mùa thu hoạch. 
Các loại cây được chọn trồng sân trước nhà 
thường là cây và bụi hoa thấp. Đặc biệt cây 
cau, dừa tuy cao nhưng được trồng nhiều, vì 
có tán lá ở trên cao nên vừa không che tầm 
nhìn, gió mát, vừa che bớt nắng khi mặt trời 
lên cao, bên cạnh đó nó góp phần cải thiện 
kinh tế và phù hợp tập tục ăn trầu cau ở địa 
phương. Vườn sau nhà trồng chuối vì có 
nhiều cái lợi, chuối là loại trái cây được ưa 
chuộng. Chuối thấp có lá to nên có thể cản 
được gió lạnh, lại có thân cây mềm nên dù 
có đổ cũng không thể làm hỏng nhà được. 
1.2. Hình thức kiến trúc xây dựng nhà 
dân gian 
Công trình nhà dân gian thường có xu 
hướng trải dài để đón gió mát từ hướng 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 69 
Nam, Đông Nam. Nhà có cao trình thấp 
nhưng xây trên nền đất cao ráo, có số gian 
lẻ một, ba, năm, và thường có hai chái ở 
trước, sau nhà. Chái nhà trước rộng rãi và là 
nơi sinh hoạt chính của gia đình: ăn uống, 
hóng gió, tiếp bà con hàng xóm, Ở đây, 
không gian được tổ chức đơn giản và cởi mở 
nhưng lại thành nét văn hóa đặc trưng cho 
ngôi nhà Việt. Gian nhà chính là không gian 
linh thiêng nên được đặt bàn thờ tổ tiên và 
chỉ tiếp khách quan trọng. Đàn ông trong gia 
đình thì ở bên trái, buồng phụ nữ thì ở bên 
phải gắn với khu phụ, bếp núc trong nhà. 
Trong bố cục nhà dân gian thường xuất hiện 
hai khối kiến trúc đó là: gian nhà chính và 
nhà Đông bên phải kết hợp với nhau trên 
mặt bằng thành hình chữ “L”. Thể loại nhà 
này rất phù hợp với kiểu khí hậu Nam Trung 
Bộ và tập quán sinh hoạt của người dân. 
Về thể loại nhà ở Nam Trung Bộ thì 
đa dạng phong phú theo chủng loại vật liệu, 
gồm có: nhà xây dựng bằng gỗ, gạch ngói, 
tranh tre vách đất, mái lá, Đối với loại 
nhà gỗ xưa thì nhà rường cột (nhà rường) là 
một loại chính thường được xây dựng. Nhà 
rường phổ biến, phân bố khắp vùng vì có 
nhiều ưu điểm. Theo thư tịch cổ thì “Rường” 
có nghĩa là ràng lại, trên là xuyên trính dưới 
là đá (ngạch), chân cột kê trên đá. Tất cả hợp 
thành một bộ khung vững chắc, đây là cách 
thiết kế có tác dụng thích ứng với tự nhiên 
thường mưa bão, nắng hạn. Trước khi dùng 
người ta phải chọn lựa, xử lý gỗ rất kỹ. Nhà 
gỗ cũng có sự kết hợp giữa vật liệu gạch để 
xây tường bảo vệ bên ngoài. 
Nhà rường gỗ dân gian của vùng 
thường được lợp mái bằng lá. Loại lá thường 
gặp nhất và phổ biến là lá tranh, có đôi khi 
người ta cũng dùng lá dừa, rơm (cây lúa sau 
khi gặt) để thay thế. Thể loại nhà Mái Lá này 
trở một loại nhà dân gian đặc sắc trong vùng. 
Đây là một sự sáng tạo và dung hợp văn hóa 
giữa người Việt (Nam tiến) với người Chăm 
địa phương trong việc thiết kế và ứng xử với 
môi trường sống nhằm phục vụ nhu cầu ở. 
Quan hệ giữa gia chủ với ngôi nhà thể 
hiện qua thước tầm, một loại thước đo khá 
đặc biệt. Khi làm nhà cho ai người thợ cả lấy 
chiều dài đốt út của chủ nhân làm đơn vị cơ 
bản cho cái thước. 
1.3. Hình thức trang trí 
Các chi tiết cấu tạo kiến trúc với các 
hoa văn hình học tinh xảo và chạm khắc gỗ 
thường thấy là hình các con vật, đồ vật dân 
dã như: phụng, rùa, sóc, cá, nai, các loại 
cây như: trúc, lan, cúc, lựu, bát bửu, ốc, 
binh, tù và, cái tán, hoa sen, với kỹ thuật 
khá điêu luyện. Nghệ thuật chạm khắc thể 
hiện triết lý làm người, tinh thần mong ước 
bình an, no đủ trong cuộc sống. 
2. Những nhân tố hình thành sắc thái kiến 
trúc dân gian Vùng Nam Trung Bộ 
Kiến trúc dân gian hình thành trong 
vùng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố 
khác nhau như sau: 
2.1. Đặc điểm tự nhiên 
2.1.1 Vị trí địa lý: 
Vị trí địa lý và lịch sử của ba tỉnh: Bình 
Định, Phú Yên, Khánh Hòa thuộc vùng khảo 
sát có liên hệ mật thiết với nhau. Các tỉnh 
này đều có đặc điểm là phía Đông tiếp giáp 
biển Đông với các bờ biển dài và nhiều hải 
đảo; phía Tây là sườn Đông của dãy Trường 
Sơn với các vùng trung du và những dãy núi 
đâm ra biển [1]. Về việc đi lại ngày xưa ở 
trong vùng và liên hệ với các tỉnh lân cận có 
phần ít thuận tiện do bị chia cắt bởi đồi núi, 
biển cả, các con sông. Cũng chính vì thế mà 
dẫn đến sự hình thành những tiểu vùng văn 
hóa có nhiều nét tương đồng và khác biệt so 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 70 
với các vùng lân cận. Giao thông thủy phát 
triển mạnh về phía biển Đông với nhiều vịnh, 
bến cảng tốt. Với vị trí địa lý của mình, vùng 
đất này đã từng có những mối liên hệ thuận 
tiện với nhiều quốc gia khác đồng thời giao 
lưu và chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa 
đó từ rất sớm. (H.1) 
H .1. Dạng địa hình đồi núi đâm ra biển kết hợp với 
dạng đồng bằng châu thổ ven sông là một trong 
những dạng địa hình đặc trưng cho vùng Nam Trung 
Bộ (Thành phố biển Nha Trang). 
[Nguồn sưu tầm] 
2.1.2 Khí hậu thủy văn 
 Khí hậu trong vùng về bản chất là khí 
hậu nhiệt đới gió mùa nhưng lại kèm theo 
tính khí hậu vùng biển, đại dương nên nóng 
ẩm, mưa nhiều. Tần suất gió thường khác 
nhau và có nhiều hướng thay đổi liên tục, 
ngay cả trong một ngày cũng có thể xuất 
hiện những hướng gió khác nhau. Sông ngòi 
đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, số lượng 
tương đối nhiều nhưng ngắn và dốc, lượng 
nước phân không đều cạn khô vào mùa nắng 
và thường gây lũ quét vào mùa mưa [2]. 
Như vậy về khí hậu thủy văn trong 
vùng Nam Trung Bộ so với miền Nam thì có 
phần khắc nghiệt hơn, tuy nhiên khí hậu 
nhìn chung tương đối ôn hòa hơn miền Bắc 
và vùng Bắc Trung Bộ. Trong vùng do địa 
hình tương đối phức tạp và đặc biệt nên khí 
hậu vì thế cũng có nhiều sự biến đổi tạo ra 
các tiểu vùng khí hậu khác nhau giữa vùng 
đồng bằng châu thổ ven sông, vùng ven biển 
và miền núi. Công trình kiến trúc trong vùng 
do đó thường nằm ở các vị trí đất đai cao 
ráo hoặc phải tôn nền lên cao để tránh lụt 
và có những giải pháp riêng để thích nghi 
với khí hậu trong vùng. 
2.1.3 Địa hình – địa chất – thổ nhưỡng 
Địa hình của khu vực Nam Trung Bộ 
tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang 
Đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng 
bằng châu thổ ven sông, ven biển và hải đảo. 
Nhiều dãy núi đâm ra biển và chia cắt địa 
hình tạo ra những vùng đất nhỏ hẹp. Đặc 
điểm địa hình cũng tạo ra cảnh quan phong 
phú, vừa đa dạng lại vừa có được tính đặc 
thù của mỗi tiểu vùng, vừa mang tính đan 
xen và hòa nhập (H.2). Địa chất. Độ ổn định 
của các tầng địa chất là tương đối tốt, cường 
độ chịu lực khá cao. 
H .2. Dạng địa hình núi đá chạy ra sát biển tạo ra 
những đầm vịnh nước lợ, cảng biển sâu, kín gió 
a. Đầm Ô Loan – Phú Yên. 
b. Hòn chồng – Khánh Hòa 
[Nguồn sưu tầm] 
Thổ nhưỡng tự nhiên gồm nhiều loại 
đất: Đất cát ven biển, Đất mặn phèn, Đất phù 
sa, Đất xám, Đất đen, Đất nâu vàng, nâu đỏ 
trên đá bazan, Đất màu vàng đỏ, Đất vàng đỏ 
trên đá macmacaxi. Rừng chiếm một diện 
tích lớn với nhiều loại gỗ quý. 
Những công trình như tháp Chăm, nhà 
Mái Lá, là những thể hiện sinh động cho 
việc ứng dụng các loại vật liệu được chế tạo 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 71 
từ các nguồn khoáng sản đất như gạch-ngói 
sống và nung; đất sét trộn rơm, thường là 
những vật liệu phổ biến, khá phát triển. 
Người dân cũng biết dùng đá vôi, san hô, vỏ 
sò, để sản suất ra vôi, vật liệu kết dính. 
2.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội 
Lịch sử hình thành: về gốc tích có thể 
xem Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa trước 
kia là đất của vương quốc Chămpa; người 
Chiêm gọi vùng Bình Định là Vijaya, gọi 
vùng Khánh Hòa là Kauthana cả hai đều 
từng là những kinh đô cũ của người Chăm và 
Phú Yên là vùng đất ở giữa hai kinh đô cổ 
này. Về sau vùng này được người Việt thu 
phục và chiếm lĩnh trong quá trình Nam tiến. 
Dân cư, dân tộc Tại vùng Nam Trung 
Bộ chủ yếu là người Kinh chiếm đa số, có 
nguồn gốc từ vùng đồng bằng Bắc Bộ [3]. Các 
dân tộc thiểu số khác có số lượng người ít hơn 
chủ yếu là người Chăm. Vấn đề kinh tế – xã hội 
chủ yếu của vùng chính là nông nghiệp dựa vào 
việc trồng cây lúa nước. Người dân địa phương 
vùng biển sinh sống chủ yếu dựa vào khai thác, 
đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản. Nguồn kinh 
tế khai thác từ lâm đặc sản cũng mang lại một 
giá trị nhất định. 
Dân cư có kinh tế ở mức trung bình, 
không quá giàu có cũng không quá nghèo 
khó. Xét về quy mô các công trình kiến trúc 
thì thường nhỏ và chưa có sự tập trung cao 
độ về tài chính, công trình có xu hướng hòa 
vào tự nhiên. Tài năng nghệ thuật, kỹ thuật 
chứa đựng sự tiềm tàng to lớn cho thấy khả 
năng phát triển tư duy của người Nam Trung 
Bộ cũng đã ở đỉnh cao của nhân loại. 
2.3. Văn hoá vùng đồng bằng duyên hải 
Nam Trung Bộ 
2.3.1 Yếu tố văn hoá nông nghiệp trồng 
lúa nước 
Cách thức sản xuất của nền nông 
nghiệp trồng lúa nước làm xuất hiện hình thức 
cư trú theo cộng đồng làng xã, mang nhiều 
nét đặc thù như: ý thức đoàn kết cộng đồng 
cao từ đó đã thúc đẩy tính dân chủ làng xã; ý 
thức tự trị thông qua các lệ làng và hương 
ước; diện mạo văn hóa mỗi làng một khác 
theo tùy cách thức ứng xử với các điều kiện 
tự nhiên, lao động, sinh hoạt, đồng thời tính 
đa thần là đặc điểm nổi bật trong đời sống tín 
ngưỡng ở làng. Nghề nghiệp và kinh nghiệm 
được lưu truyền cục bộ theo kiểu cha truyền 
con nối. Hình thức tổ chức và xây dựng các 
công trình kiến trúc trong làng thường được 
do các người cao tuổi và các nhóm thợ địa 
phương thực hiện. Chính vì vậy mà hầu như 
tất cả các thể loại kiến trúc mang đậm dấu ấn 
của dân gian từng vùng. (H.3) 
2.3.2 Yếu tố văn hoá của dân cư vùng biển 
Đối với ngư dân thì Biển là nguồn 
sống của họ, kinh tế vì thế phụ thuộc rất nhiều 
vào hiệu quả đánh bắt, khai thác thủy hải sản 
từ biển. Trong cuộc sống, ngư dân phải nhờ 
vào kinh nghiệm, sự mạnh mẽ và thành kính 
tôn thờ các thần thánh của biển cả. Cộng đồng 
ngư dân biển hình thành và có ý thức cộng 
đồng, bảo bộc nhau rất chặt chẽ. Nhà cửa 
được xây dựng san sát bên nhau rất đơn giản, 
chủ yếu tập trung vào các phương tiện sản 
xuất. Về tâm linh ở vùng biển này người ta rất 
tôn thờ thần biển thông qua hình tượng của 
cá "Ông" [4]. Tín ngưỡng trong cộng đồng 
ngư dân rất sinh động, riêng với Phật Giáo 
trong vùng người dân thờ Phật Quan Âm 
bằng những quan niệm gần gũi và gắn với văn 
hóa biển rõ nét. (H.4) 
Những nét văn hóa riêng ấy được hình 
thành và phát triển từ hình thức lao động trên 
biển. Nét văn hóa riêng của người Việt Bắc 
Bộ, cùng với sự giao thoa từ nét văn hóa 
biển gốc Chăm đã hình thành nên những nét 
văn hóa biển Nam Trung Bộ riêng biệt. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 72 
H .3. Đồng quê, làng xã vùng Nam Trung Bộ gắn 
liền với hoạt động trồng lúa nước mang tính mở, 
phóng khoáng hơn (Ninh Hòa – Khánh Hòa). 
[Nguồn: tác giả] 
H .4. Làng biển gắn liền với các hoạt động nông - 
ngư nghiệp, nhà cửa ngư dân xây dựng san sát bên 
nhau, không phải vì thiếu đất đai mà vì thể hiện tính 
cộng đồng cao 
a. Làng biển ở Qui Nhơn – Bình Định ) 
b. Làng biển ở Tuy An – Phú Yên ). 
[Nguồn: tác giả] 
2.3.3 Yếu tố văn hoá của người dân tộc 
thiểu số 
Đa số người dân tộc thiểu số sống ở 
các vùng miền núi, nền kinh tế chủ yếu dựa 
vào nương rẫy, săn bắn, hái lượm cây trái 
trong núi rừng. Người dân tộc thiểu số có 
nhiều nét tinh tế nhiều hơn người Việt mô tả 
trong các sử cũ. 
Người Việt ở Nam Trung Bộ chịu sự 
ảnh hưởng tương đối rõ và dễ nhận thấy 
nhất là hệ giá trị văn hóa vật chất - tinh thần 
của người Chăm. Những ảnh hưởng văn hóa 
Chăm vào người Việt chủ yếu về mặt tinh 
thần nghệ thuật và công nghệ xây dựng. Các 
tháp Chăm tồn tại cho tới ngày nay đã trải 
nhiều thế kỷ, tuy có nhiều hư hỏng nhưng 
vẫn thể hiện được sự vững chắc với thời 
gian. Một số không nhỏ công trình đền tháp 
Chăm vẫn được người Việt sử dụng và 
đương nhiên chúng cũng được Việt hóa về cả 
nội dung lẫn hình thức.(H.5). Nhiều tác 
phẩm điêu khắc, hình tượng thần, chim thú 
vẫn còn lưu truyền trong dân gian minh 
chứng rõ nét cho các cuộc giao lưu, ảnh 
hưởng lẫn nhau của hai dân tộc Việt – Chăm. 
Nhiều tục lệ, nét văn hóa có nguồn gốc từ 
người Chăm vẫn tồn tại trong sinh hoạt của 
cộng đồng người Việt. (H.6) 
H.5. Đền tháp Chăm vẫn được người Việt sử dụng 
và được Việt hóa [Nguồn: tác giả] 
a. Tháp Chăm ở Bình Định 
b. Tháp Chăm ở Khánh Hòa 
H.6. Dấu tích văn hóa Chămpa với nhiều di tích, di 
sản văn hóa hữu thể và di sản văn hóa vô thể được 
người Việt tiếp nhận, Việt hóa chúng (a,b) 
[Nguồn: tác giả] 
a. Thờ bà Thiên Y (thần người Chăm) vẫn tồn tại trong 
tín ngưỡng dân gian (miếu bà ở Phú Lâm - Phú Yên) 
b. Thờ Cá Ông (cá Voi), thần biển trong các lăng 
làng biển.(Lăng Đông Tác – Phú Yên) 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 73 
2.3.4 Yếu tố văn hoá tâm linh 
Tục thờ vong linh - tổ tiên: Người 
Việt cho đến nay vẫn cơ bản giữ nguyên 
được tinh thần, ý nghĩa, quan niệm thờ 
phụng vong linh ông bà, tổ tiên, người khuất 
mặt. Nét văn hóa này đi sâu, hòa vào các tôn 
giáo, các công trình kiến trúc và trở thành 
một phần không thể thiếu của nó. 
Phật Giáo: được truyền vào Việt Nam 
từ những năm đầu công nguyên, vào thời kỳ 
nội thuộc Trung Quốc. Phật Giáo đã đến 
Việt Nam trước tiên bằng đường biển thông 
qua các thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ. Việc 
linh hoạt trong cách tiếp biến văn hóa Phật 
Giáo tại Nam Trung Bộ đã tạo ra một bản 
sắc Phật Giáo riêng biệt. Phật Giáo đã hòa 
mình vào trong tinh thần, đời sống cộng 
đồng và hiện có rất đông người theo đạo 
Phật. Các công trình kiến trúc chùa có ở 
khắp nơi [5]. Trong lịch sử giành độc lập và 
phát triển Phật Giáo thật sự đã để lại một dấu 
ấn quan trọng đáng được ghi nhận. 
Nho giáo và Lão giáo: Nho giáo du 
nhập vào nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế 
kỷ II và đến thế kỷ XV vào đời nhà Lê thì 
Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống 
trong xã hội phong kiến Việt Nam. Nho giáo 
xem trọng việc giáo dục cho mọi người tuy 
nhiên không coi trọng kinh tế - kỹ thuật của 
xã hội. Lão giáo du nhập vào nước ta cùng 
thời gian với Nho giáo, theo người Việt vào 
Nam Trung Bộ, bị biến thành các thuật tu 
tiên, thuật trừ tà bắt yêu, thuật phong thủy để 
xem hướng xây dựng nhà cửa, mồ mả, bói 
toán tử vi, Âm dương ngũ hành là tư tưởng 
biện chứng thời cổ đại ảnh hưởng sâu rộng 
nhất trong thế giới quan của người Á Đông 
trong đó có cả người Việt. Nho giáo, Lão 
giáo, Âm Dương Ngũ hành hòa vào trong tâm 
trí người Việt nói chung và vùng Nam Trung 
Bộ nói riêng một cách sâu đậm. Tuy là tư 
tưởng được du nhập từ bên ngoài nhưng 
người Việt đã biến nó thành một nét văn hóa, 
tư tưởng truyền thống trong vùng. 
Văn hoá tâm linh khác: Người Việt 
còn có những tín ngưỡng tâm linh khác như: 
tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự 
nhiên, thờ Thổ Công, Táo Quân, Thành 
Hoàng làng, tục thờ Bà, nữ thần, 
Sự dung hoà các yếu tố văn hoá tâm 
linh : Những tư tưởng Phật Giáo và Nho 
giáo, Đạo giáo, đã kết hợp chặt chẽ với 
cuộc sống cộng đồng dân tộc góp phần nhất 
định trong công cuộc xây dựng, bảo vệ xã 
hội Việt Nam trong lịch sử. Trong đó, có cả 
các thành tựu về kiến trúc, tạo nên bản sắc 
hấp dẫn, thú vị mang đầy màu sắc phương 
Đông.Văn hóa tâm linh vùng Nam Trung Bộ 
cùng với tinh thần bao dung của dân tộc đã 
tạo nên những bản sắc riêng biệt. Sự dung 
hòa các yếu tố tâm linh khác nhau vừa thể 
hiện tính dân tộc vừa thể hiện tính triết lý 
“vạn pháp quy tông”. 
 3. Luận bàn 
Công trình Kiến trúc có quá trình 
hình thành và sự hiện thân của nó bị chi phối 
bởi rất nhiều yếu tố mang những tính chất 
khác nhau như: điều kiện tự nhiên, tư tưởng, 
văn hóa, xã hội, kỹ thuật, kinh tế, 
Khi tất cả những thành tố trên hội tụ 
đầy đủ thì kiến trúc mới có thể sinh ra, chúng 
cũng sẽ bị hủy diệt khi các thành tố cấu 
thành đó thay đổi hoặc mất đi. Một khi hiểu 
rõ những điều kiện hình thành, những 
nguyên tố gốc cơ bản thì sự hình thành của 
kiến trúc và căn nguyên những biến thể đa 
dạng hầu như sẽ dễ dàng được làm sáng tỏ 
cùng với những quy luật, nguyên tắc sinh ra 
nó. Người dân Nam Trung Bộ trải qua nhiều 
đời định cư trên vùng đất này đã phát hiện và 
vận dụng một cách tổng hợp, linh hoạt những 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 74 
quy luật về tự nhiên, văn hóa dưới nhiều hình 
thức đa dạng. Nội hàm trong kiến trúc dân 
gian được thể hiện một cách tinh tế qua tác 
động từ nhiều góc độ của các yếu tố hình 
thành nên kiến trúc. Sắc thái dân gian thông 
qua các công trình kiến trúc đã được lưu tồn 
vững chắc (H.7). Khi tiến hành nghiên cứu, 
thiết kế kiến trúc thì nhất thiết cần hết sức 
chú trọng những đặc điểm văn hóa của người 
dân trong từng vùng nhằm đúc kết, đưa ra 
các kết luận, tác phẩm có giá trị và mang tính 
khoa học thực tiễn. 
a. Gian nhà chính và nhà Đông bên phải kết hợp với 
nhau trên mặt bằng thành hình chữ “L” 
b. Nhà gạch gỗ được cải tạo từ nhà mái lá truyền thống 
c. Nhà cũ có hình dáng nhà mái lá truyền thống 
H. 7. Nhà dân gian truyền thống vùng Nam Trung Bộ 
[Nguồn: tác giả] 
Cộng đồng người Việt trong quá trình hình 
thành, định cư và phát triển đã chịu nhiều tác 
động của nhiều nền văn hóa lớn khác nhau 
như Trung Hoa, Ấn Độ,  cùng với những 
đặc tính riêng biệt xuất phát từ văn hóa bản 
địa đã hình thành nên một sắc thái văn hóa 
độc đáo. Chính nền tảng về những bản sắc 
văn hóa đó đã giúp cho người Việt vượt qua 
nhiều giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm, phức 
tạp thể hiện một sức sống mãnh liệt, bất 
khuất. Sắc thái dân gian trong kiến trúc vùng 
Nam Trung Bộ là một trong những thể hiện 
xuất sắc của người Việt trong tiến trình phát 
triển, khai hoang, định cư tại vùng đất mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Lê Bá Thảo, Việt Nam: lãnh thổ và các vùng địa lý, nxb Thế Giới, Hà Nội, 2001. 
[2]. Phạm Ngọc Toàn – Phan Tất Đắc, Khí hậu Việt Nam, nxb khoa học và kỹ thuật 1978. 
[3]. Lê Hồng Lý, Những luồng di cư của người Việt vào Nam Trung Bộ và một số sắc thái 
văn h.óa của nó, Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội, 2004. 
[4]. Nhiều tác giả, Văn hóa vùng Biển, tập hợp các bài viết tham luận tại hội thảo do hội 
VNDG – VHCDT tỉnh Phú Yên tổ chức tháng 10 – 2004. 
[5]. Nguyễn Đức Hiền, Lịch sử Phật Giáo Đàng Trong, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. 
[6]. Nguyễn Khởi, Ảnh hưởng triết học phương Đông trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, 
tạp chí KT và ĐS số 28/1999. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_to_hinh_thanh_sac_thai_kien_truc_dan_gian_vung_nam_trun.pdf