Nhận thức về đạo văn của sinh viên và giảng viên khoa du lịch - Đại học Huế

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu nhận thức về hành vi đạo văn của sinh viên và giảng viên trẻ Khoa Du

lịch, Đại học Huế. Mục đích của bài viết là tìm hiểu cách nhận thức về khái niệm đạo văn cũng như quan

điểm của họ về lý do dẫn đến hành vi đạo văn – vốn đang được cảnh báo nghiêm trọng trong xã hội Việt

Nam. Nghiên cứu đã được thực hiện bằng bảng hỏi online khảo sát sinh viên từ năm thứ nhất đến năm

thứ tư và giảng viên trẻ (có dưới 10 năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu) của Khoa Du lịch. Kết quả

nghiên cứu chỉ ra rằng, đa số sinh viên và giảng viên Khoa Du lịch có nhận thức rất rõ về các hình thức

đạo văn. Tuy nhiên, họ cũng thừa nhận đã từng thực hiện một trong các hình thức đạo văn. Nguyên nhân

dẫn đến hành vi đạo văn của họ được chia thành hai nhóm bao gồm nguyên nhân bên trong (do thiếu và

yếu về kỹ năng nghiên cứu khoa học/ thiếu nhận thức về việc trích dẫn công trình/ công việc của người

khác) và nguyên nhân bên ngoài (áp lực, phương tiện Internet, thiếu khuyến cáo từ môi trường/ tổ chức

làm việc hay nhà trường). Từ đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu hành vi đạo văn

trong nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng học thuật tại KDL – ĐHH.

pdf 14 trang phuongnguyen 1780
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về đạo văn của sinh viên và giảng viên khoa du lịch - Đại học Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức về đạo văn của sinh viên và giảng viên khoa du lịch - Đại học Huế

Nhận thức về đạo văn của sinh viên và giảng viên khoa du lịch - Đại học Huế
 Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển; ISSN 2588–1205 
Tập 126, Số 5D, 2017, Tr. 15–28; DOI: 10.26459/hueuni-jed.v126i5D.4500 
* Liên hệ: huonghuong386@gmail.com 
Nhận bài: 18–09–2017; Hoàn thành phản biện: 22–09–2017; Ngày nhận đăng: 30–10–2017 
NHẬN THỨC VỀ ĐẠO VĂN CỦA SINH VIÊN VÀ 
GIẢNG VIÊN KHOA DU LỊCH – ĐẠI HỌC HUẾ 
Phan Thị Diễm Hương*, Nguyễn Thị Minh Nghĩa 
Khoa Du lịch, Đại học Huế, 22 Lâm Hoằng, Huế, Việt Nam 
Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu nhận thức về hành vi đạo văn của sinh viên và giảng viên trẻ Khoa Du 
lịch, Đại học Huế. Mục đích của bài viết là tìm hiểu cách nhận thức về khái niệm đạo văn cũng như quan 
điểm của họ về lý do dẫn đến hành vi đạo văn – vốn đang được cảnh báo nghiêm trọng trong xã hội Việt 
Nam. Nghiên cứu đã được thực hiện bằng bảng hỏi online khảo sát sinh viên từ năm thứ nhất đến năm 
thứ tư và giảng viên trẻ (có dưới 10 năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu) của Khoa Du lịch. Kết quả 
nghiên cứu chỉ ra rằng, đa số sinh viên và giảng viên Khoa Du lịch có nhận thức rất rõ về các hình thức 
đạo văn. Tuy nhiên, họ cũng thừa nhận đã từng thực hiện một trong các hình thức đạo văn. Nguyên nhân 
dẫn đến hành vi đạo văn của họ được chia thành hai nhóm bao gồm nguyên nhân bên trong (do thiếu và 
yếu về kỹ năng nghiên cứu khoa học/ thiếu nhận thức về việc trích dẫn công trình/ công việc của người 
khác) và nguyên nhân bên ngoài (áp lực, phương tiện Internet, thiếu khuyến cáo từ môi trường/ tổ chức 
làm việc hay nhà trường). Từ đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu hành vi đạo văn 
trong nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng học thuật tại KDL – ĐHH. 
Từ khóa: đạo văn, sinh viên, giảng viên, Khoa Du lịch, nguyên nhân đạo văn 
1 Đặt vấn đề 
Gần đây Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ 
với nhiều tiêu chí mới, trong đó đáng chú ý nhất là tiêu chí nghiên cứu sinh phải có ít nhất một 
bài đăng kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI hoặc Scopus 
(Thông tư ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ, 08/2017/TT-BGDĐT). Hay 
sau nhiều năm yêu cầu công bố quốc tế đối với các đề tài thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên 
(KHTN), nay Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted) cũng yêu cầu công bố 
quốc tế đối với các đề tài thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội (KHXH). Đây là định hướng phản ánh 
tầm nhìn chiến lược của nhà nước Việt Nam trong việc nỗ lực phát triển nền khoa học trong 
nước nhằm hội nhập với thế giới. 
Hiện nay, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực KHXHNV còn rất ít. 
Theo kết quả của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm liên ngành thuộc Trường Đại học Thành 
Tây thì chỉ có khoảng 500 nhà nghiên cứu KHXHNV Việt Nam đã có bài đăng trong ấn phẩm 
khoa học thuộc danh mục Scopus trên tổng số 24.000 tiến sĩ (theo thống kê của Bộ Khoa học và 
Công nghệ năm 2015) (Nghiêm Huê, 2017). Theo Nguyễn Thị Hiền (2016), sau khi quỹ Nafosted 
Phạm Thị Diễm Hương, Nguyễn Thị Minh Nghĩa Tập 126, Số 5D, 2017 
16 
đề ra điều kiện các chủ nhiệm đề tài nộp hồ sơ xin tài trợ phải có công bố trên các tạp chí quốc 
tế và quốc gia có uy tín mà hầu như tạp chí quốc tế phải đạt chuẩn ISI và Scopus, số lượng hồ 
sơ tham gia xét duyệt giảm đáng kể. Hội đồng liên ngành Văn hóa học, Nghiên cứu nghệ thuật, 
Thông tin đại chúng và Truyền thông (Nafosted) không nhận được một hồ sơ nào. Nguyên 
nhân chủ yếu của vấn đề này là do các nhà khoa học trong lĩnh vực này không có công trình 
được xuất bản trong các tạp chí ISI (Nguyễn Thị Hiền, 2016). Công bố quốc tế đang trở thành 
một nhiệm vụ cấp bách của các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học nhằm 
khẳng định vị thế của họ. 
Về vấn đề đạo văn, nhiều nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, đạo văn liên quan đến yếu tố 
văn hóa và giáo dục (Sowden, 2005; Leask, 2006). Họ cho rằng văn hóa và phương pháp giáo 
dục các nước châu Á là nguyên nhân dẫn đến hành vi đạo văn. Điều đó có nghĩa là vấn đề đạo 
văn không được nhận thức một cách nghiêm túc và đầy đủ trong xã hội các nước châu Á. Tuy 
nhiên, đa số các tạp chí quốc tế đều xuất phát từ nền văn hóa các nước phương Tây – vốn rất coi 
trọng vấn đề bản quyền; họ chống lại hành vi đạo văn. Đảm bảo sự trung thực và chất lượng 
tạp chí là nhiệm vụ cơ bản của công tác biên tập. Việc xuất bản các bài báo có hành vi đạo văn 
sẽ mang lại sự tai tiếng cho tạp chí nên nhiệm vụ của các nhà biên tập là đảm bảo không có hiện 
tượng đạo văn trong các ấn phẩm của tạp chí (Zhang, 2016, Tr. 8). 
Vì vậy, với định hướng phát trên một nền khoa học mang tầm quốc tế của Nhà nước, 
chúng tôi tin rằng việc tìm hiểu nhận thức của học sinh/ sinh viên, giảng viên và các nhà nghiên 
cứu là điều cần thiết. Có thể nói rằng, đạo văn trong học thuật cũng tương tự như gian lận 
trong thể thao hay tham nhũng trong phát triển kinh tế. Để đạt được một nền học thuật chân 
chính, tiên tiến thì điều tất yếu là cần các chính sách chống đạo văn (Zhang, 2016, Tr. 10). 
Trên thế giới, vấn đề đạo văn đang trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên 
cứu trong những năm gần đây. Khoảng sau năm 2000, lý thuyết nghiên cứu đạo văn được mở 
rộng trên nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm: sự hiểu biết của sinh viên và giáo viên về đạo 
văn, thái độ và động cơ của hành vi đạo văn, hay sự tác động của hành vi đào văn đến nền học 
thuật (Carroll, 2006). Đạo văn ngày càng trở nên phổ biến và là vấn đề nghiêm trọng trong 
phát triển khoa học toàn cầu (Park, 2003). McCabe (2017) đã thực hiện khảo sát 63.700 sinh viên 
đại học và 9.250 học viên cao học ở Mỹ trong 3 năm (2002–2005) cho ra kết quả là 36 % sinh viên 
và 24 % học viên cao học thừa nhận đã sao chép từ Internet cho bài báo cáo của mình mà không 
trích nguồn; 38 % sinh viên và 25 % học viên cao học thừa nhận sao chép từ sách/ bài báo cho 
bài báo cáo của mình mà không trích dẫn nguồn; 14 % sinh viên và 7 % học viên thừa nhận đã 
bịa đặt nguồn tài liệu tham khảo Một số nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố văn hóa có tác động 
lớn đến hành vi đạo văn. Sowden (2005, Tr. 226) cho rằng với cách thức giáo dục ở các nước có 
truyền thống văn hóa Khổng giáo, sinh viên không có thói quen trích dẫn nguồn các ý kiến họ 
sử dụng trong bài tiểu luận của mình bởi họ cho rằng ý kiến của tác giả hiển nhiên đúng và việc 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5D, 2017 
17 
đề cập tên tác giả là điều không cần thiết. Việt Nam là một trong những nước thuộc khu vực 
Hán hóa và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa giáo dục Khổng giáo. Gần đây, báo chí thường 
xuyên nhắc đến tình trạng đạo văn ở Việt Nam và xem đó là một tình trạng đáng báo động 
Minh Giảng (2016) đã khảo sát về “tình trạng đạo văn” của trường Đại học Duy Tân năm 2015 
và nhận thấy trên 80 % sinh viên đã vi phạm một trong các lỗi về đạo văn và có 36 % sinh viên 
cho rằng lý do đạo văn là không biết cách trích dẫn. Đặc biệt, theo kết quả khảo sát số lượng 
công bố quốc tế giai đoạn 2011–2015 dựa trên dữ liệu Scopus của nhóm nghiên cứu Đại học 
Quốc Gia Hà Nội thì Đại học Huế đứng thứ 10 trong top 15 trường đại học có công bố quốc tế 
nhiều nhất ở Việt Nam (Hiền Huỳnh và cs., 2015). Tuy nhiên, số lượng công bố quốc tế chỉ tập 
trung vào lĩnh vực Khoa học tự nhiên và kỹ thuật còn công bố trong các lĩnh vực thuộc 
KHXHNV còn rất ít. Theo kết khảo sát của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu xã 
hội liên ngành, Trường Đại học Thành Tây thì trong giai đoạn (2008 – 7.2017), Việt Nam chỉ có 
412 nhà khoa học xã hội nhân văn có bài đăng trên các ấn phẩm Scopus. Đây là con số quá nhỏ 
so với tổng số ước tính khoảng trên chục ngàn tiến sỹ của khối ngành này hiện nay (Ho TM và 
cs., 2017). Đối với Đại học Huế, các công bố quốc tế thuộc lĩnh vực KHXHNV cũng còn rất hạn 
chế. Trong giai đoạn từ 2012 đến 2017, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế có 118 bài báo 
quốc tế nhưng chỉ có 2 bài thuộc lĩnh vực KHXH (Tóm tắt xuất bản quốc tế của Trường đại học 
Khoa học – Đại học Huế, 3/2017). Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn công bố 
quốc tế của các trường Đại học ở Việt Nam nói chung và Đại học Huế nói riêng là điều cần 
thiết. đặc biệt, đối với Khoa Du lịch – Đại học Huế vốn là một đơn vị non trẻ, mới được thành 
lập năm 2008, đội ngũ nghiên cứu có rất ít kinh nghiệm xuất bản thì việc tìm hiểu và đảm bảo 
các tiêu chuẩn công bố quốc tế sẽ là bước đầu nâng cao năng lực nghiên cứu của cơ sở. 
Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức và thái độ của sinh viên và 
giảng viên đối với hành vi đạo văn bao gồm cả các hình thức và nguyên nhân của việc đạo văn. 
Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm ngăn chặn và tránh đạo văn góp phần nâng cao chất lượng 
nghiên cứu khoa học ở Khoa Du lịch, Đại học Huế. 
2 Tổng quan lý luận về đạo văn 
2.1 Đạo văn và các hình thức của đạo văn 
Đạo văn là khái niệm xuất phát từ thuật ngữ tiếng Anh là plagiarism (Nguyễn Văn Tuấn, 
2013, Tr. 167). Từ điển tiếng anh Oxford định nghĩa plagiarism (đạo văn) là “The practice of 
taking someone else’s work or ideas and passing them off as one’s own.” – là hành vi sử dụng tác phẩm 
hay ý tưởng của người khác mà không trích dẫn nguồn và công bố nó như là ý tưởng và từ ngữ 
của mình”. Ngoài ra, từ điển này cũng cho biết từ đạo văn (plagiarism) xuất hiện vào khoảng 
thế kỷ XVII, có nguồn gốc từ chữ Latinh plagiarius có nghĩa là kẻ bắt cóc (Oxford English 
Dictionary, 2012). Theo Pennycook (1996), khái niệm đạo văn xuất phát từ sự phát triển về quan 
niệm sở hữu văn bản. Trước thế kỷ thứ 17, khả năng sáng tạo được xem xét dưới tư cách là một 
Phạm Thị Diễm Hương, Nguyễn Thị Minh Nghĩa Tập 126, Số 5D, 2017 
18 
hành động tái tạo hơn là hành động tạo tác. Trong khoảng thế kỷ 17–18, cùng với sự phát triển 
của vai trò cá nhân, quan niệm về bản quyền – đạo văn bắt đầu được quan tâm như một hình 
thức để công nhận quyền tác giả trong sáng tác văn chương. Từ đây, các nước phương Tây thiết 
lập nên luật sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ tác giả nguyên bản, người thực sự sáng tạo ra văn bản 
(Pennycook, trích dẫn theo Chou, 2010, Tr. 37). Chính sự đề cao vai trò cá nhân đã tạo nên sự 
tôn trọng và bảo vệ giá trị nguyên bản trong văn hóa các nước phương Tây. Vì vậy, đạo văn là 
một hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng ở các nước thuộc nền văn hóa phương Tây. 
Hiện nay, đạo văn là một khái niệm rộng và phức hợp bao gồm nhiều yếu tố. Liddell 
(2003) đã nghiên cứu tính phức hợp, chồng chéo của định nghĩa đạo văn và đề xuất định nghĩa 
mới mang tính bao quát các khía cạnh của đạo văn như sau: 
“Đạo văn là việc sử dụng ngôn ngữ, ý tưởng, cách thức tổ chức, tranh ảnh, số liệu, các sáng tạo, 
sáng chế hay các dạng sản phẩm của người khác dưới tên của mình; nó bao gồm cả sở hữu trí tuệ cá 
nhân và sở hữu tư liệu cộng đồng; nó bao gồm các hình thức mua bài báo, cắt dán từ nguồn Internet, 
không dùng dấu ngoặc kép khi trích dẫn trực tiếp, viết lại ý tưởng của người khác mà không trích dẫn 
nguồn, thuê người khác viết bài hoặc một phần bài/ công việc và công bố nó dưới tên của mình” 
(Liddell, 2003, Tr. 49). 
Định nghĩa nêu trên khái quát đạo văn là hành động biến kết quả công việc của người 
khác thành của mình. Đạo văn được một số người xem là hành động của “kẻ cắp”. Các định 
nghĩa về đạo văn có thể không thống nhất và phức tạp, nhưng tất cả các định nghĩa đều đi đến 
kết luận rằng đó là một hành động gian lận. Hành động gian lận luôn xuất phát từ chủ đích của 
người gian lận, nhưng một số trường hợp người thực hiện đạo văn thực hiện nó một cách vô 
thức vì họ không biết nó là gì? 
Vì vậy, vấn đề đạo văn không đơn thuần liên quan đến sự tham vọng mà nó cần được 
xem xét trong mối quan hệ phức hợp giữa các yếu tố văn bản, cách thức ghi nhớ và cách thức 
giáo dục ở những nền văn hóa khác nhau. Ví dụ, trong văn hóa Trung Hoa, người viết hoàn 
toàn có thể trình bày lại những gì người khác đã nói/ trình bày. Sinh viên Trung Quốc có thói 
quen bắt chước cách viết, cách tổ chức từ những tài liệu được xem là chuẩn mực. Đạo văn 
trong trường hợp này gọi là đạo văn cắt dán, là việc người mới học cách viết thường sử dụng 
cách viết của người khác để trình bày quan điểm của mình (Chou, 2010, Tr. 37). Tương tự, 
Scollon (1995) cho rằng khái niệm đạo văn không thể tách rời mạng lưới văn hóa, xã hội và 
chính trị. Hay nói cách khác, để tiếp cận ý nghĩa của khái niệm đạo văn cần phải xét đến các yếu 
tố hoàn cảnh tác động đến nó (Leask, 2006). 
Một khảo sát của Maurer và cs. (2006) đã tổng hợp và trình bày về các cách thức đạo văn 
phổ biến như sau: 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5D, 2017 
19 
Đạo văn cắt – dán là sao chép nguyên văn từng chữ trong nội dung văn bản. Đạo dịch là 
dịch bài báo, sách, câu/đoạn văn từ ngôn ngữ khác nhưng không ghi rõ nguồn. Đạo ý tưởng là 
sử dụng khái niệm hoặc ý kiến của người khác mà không trích dẫn nguồn. Viết lại văn bản là 
viết lại ý tưởng, nội dung văn bản của người khác mà không trích nguồn. Đạo tác phẩm nghệ 
thuật là thể hiện ý tưởng của người khác bằng các công cụ truyền thông khác nhau như văn 
bản, hình ảnh, âm thanh, video Trích dẫn nguồn cụ thể nhưng không đính kèm đường dẫn 
dẫn đến nguồn tài liệu. Trích dẫn trực tiếp nhưng không để dấu ngoặc kép. Trích dẫn sai nguồn 
tài liệu hay nội dung không có trong tài liệu gốc (Hermann Maurer, 2006). 
2.2 Nguyên nhân của đạo văn 
Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến tình trạng đạo văn trong môi trường nghiên cứu và 
học thuật. Nhiều nghiên cứu tập trung nghiên cứu vào khía cạnh này nhằm tìm hiểu các 
nguyên nhân dẫn đến đạo văn từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục tình trạng này 
trong môi trường học thuật. 
Ashworth và cs. (1997) đã tìm ra rằng chính việc không hiểu rõ về “đạo văn” dẫn đến 
tình trạng này. Thái độ của sinh viên và giảng viên cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình 
trạng đạo văn ở nhiều nghiên cứu (Evans và Youmans, 2000; Ponemon và Glazer, 1990; St 
Pierre Nelson và Gabbin, 1990). Sierles và Hendrickx (1980) cũng cho rằng các sinh viên chịu áp 
lực của việc đạt được bằng cấp thường có ý định đạo văn và nguyên nhân dẫn đến đạo văn của 
các nhà nghiên cứu thường do áp lực của việc xuất bản nhằm đạt được thành công trong lĩnh 
vực nghiên cứu. Hai tác giả này trong nghiên cứu của mình đã đưa ra kết quả rằng nếu không 
có các khuyến cáo về hành vi đạo văn và không có chế tài xử lý cũng là nguyên nhân dẫn đến 
tình trạng đạo văn ở sinh viên. 
Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là có sự khác nhau trong cách nhận thức khác nhau về đạo văn 
giữa giảng viên và sinh viên. Các yêu cầu của giáo dục bậc cao như bản quyền, nỗ lực cá nhân 
hay yêu cầu chuyên môn ở trường đại học có thể ảnh hưởng đến hành vi đạo văn của giảng 
viên (Flint và cs., 2006). Trong khi đó, một vài nhân tố ảnh hưởng đến thái độ và hành vi đạo 
văn của sinh viên là do thiếu hiểu biết, thiếu đầu tư cá nhân trong việc học, thiếu các nội quy, 
và thiếu tính phù hợp đối với các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau (Auer và Krupar, 2001). Theo 
Dordoy (2002), các nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến đạo văn bao gồm sự thăng tiến, lười 
nhác hoặc quản lý thời gian không tốt, khô ...  một cách vô ý thức trong tương lai. 
Bảng 2. Đánh giá mức độ nhận thức về đạo văn 
Đạo văn là 
Đồng ý Không đồng ý Không biết 
Không có ý 
kiến 
SL % SL % SL % SL % 
1. Chép nguyên văn một phần/đoạn 
văn trong sách/ bài báo mà không 
trích dẫn nguồn. 
65 59,1 37 33,6 6 5,5 2 1,8 
2. Trích dẫn nguyên văn một phần/ 
một đoạn trong sách/ bài báo mà 
không sử dụng dấu ngoặc kép. 
61 55,5 43 39,1 4 3,6 2 1,8 
3. Tóm tắt/ viết lại nội dung từ sách/ 
bài báo mà không trích dẫn nguồn. 
51 46,4 45 40,9 7 6,4 7 6,4 
4. Trình bày/ công bố kết quả công 
việc/ công trình nghiên cứu của một 
nhóm dưới danh nghĩa của cá nhân. 
50 45,5 45 40,9 10 9,1 5 4,5 
5. Trình bày/ công bố kết quả công 
việc/ công trình nghiên cứu của cá 
37 33,6 47 42,7 15 13,6 11 10,0 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5D, 2017 
23 
Đạo văn là 
Đồng ý Không đồng ý Không biết 
Không có ý 
kiến 
SL % SL % SL % SL % 
nhân dưới danh nghĩa của một 
nhóm. 
6. Sao chép từ Internet mà không 
trích dẫn nguồn 
61 55,5 30 27,3 10 9,1 9 8,2 
7. Bịa đặt tài liệu tham khảo 38 34,5 48 43,6 16 14,5 8 7,3 
8. Bịa đặt và thay đổi số liệu trong 
nghiên cứu. 
38 34,5 42 38,2 22 20,0 8 7,3 
9. Dịch một câu/đoạn văn từ tiếng 
nước ngoài ra tiếng Việt mà không 
trích dẫn nguồn 
57 51,8 33 30,0 10 9,1 10 9,1 
10. Sao chép bài tập/ khóa luận/ bài 
báo đã công bố của chính mình/ 
nhóm mình. 
41 37,3 43 39,1 17 15,5 9 8,2 
Nguồn: số liệu điều tra năm 2017 
Nhận thức về mức độ nghiêm trọng của đạo văn 
Ngoài việc tìm hiểu về nhận thức của sinh viên và giảng viên về thuật ngữ cũng như 
những hiểu biết về hình thức đạo văn hiện nay trong môi trường học thuật, nghiên cứu cũng 
tìm hiểu nhận biết của 2 đối tượng này đối với tính nghiêm trọng của việc đạo văn. 
Bảng 3. Đánh giá về mức độ nghiêm trọng của việc đạo văn 
Các tiêu chí 
Mức độ nghiêm trọng* 
Sinh viên Giảng viên 
Mức ý 
nghĩa** (Sig.) 
Đạo văn là vi phạm đạo đức học thuật 4,00 4,59 0,000 
Đạo văn là vi phạm luật sở hữu trí tuệ 4,02 4,52 0,004 
Đạo văn làm cản trở sự phát triển của khoa học 3,94 4,52 0,001 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2017 
Ghi chú: * Thang đo: Từ 1 – Hoàn toàn không nghiêm trọng đến 5 – Rất nghiêm trọng, ** Phân tích 
ANOVA 
Mức ý nghĩa (sig.) trong phân tích ANOVA < 0,05 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê về đánh giá mức độ nghiêm trọng của đạo văn giữa giảng viên và sinh viên. Cụ thể, mặc dù 
giảng viên đánh giá các vấn đề về đạo văn nghiêm trọng hơn so với các sinh viên, nhưng tất cả 
các vấn đề trên điều được cả giảng viên và sinh viên đồng ý với tính nghiêm trọng của vấn đề. 
Trong đó, các giảng viên đều đánh giá ở mức độ rất nghiêm trọng đối với việc đạo văn là vi 
phạm học thuật (4,59), đạo văn là vi phạm luật sở hữu trí tuệ (4,52), đạo văn làm cản trở sự phát 
triển của khoa học (4,52). Sinh viên cũng đã nhận thức được mức độ nghiêm trọng của các vấn 
đề đạo văn, nhưng các đánh giá của họ đối với các chỉ tiêu chỉ ngang mức độ nghiêm trọng 
(Bảng 3). 
Phạm Thị Diễm Hương, Nguyễn Thị Minh Nghĩa Tập 126, Số 5D, 2017 
24 
4.3 Nguyên nhân đạo văn 
Để tìm hiểu và đánh giá các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đạo văn hiện nay, nghiên 
cứu phát triển các câu hỏi dựa trên các nghiên cứu trước đây và được đo lường bằng 10 biến 
quan sát. Phương pháp phân tích nhân tố được thực hiện nhằm xác định các yếu tố dẫn đến 
tình trạng đạo văn. Sau khi kiểm tra độ tin cậy Cronbach’s Alpha thì biến “Nguyên nhân đạo văn 
là do thiếu kiến thức về vấn đề đạo văn” loại khỏi thang đo (vì có hệ số tương quan biến tổng 0,279 
< 0,3) tất cả các biến có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,3 được đưa vào phân tích nhân tố 
khám phá để đánh giá lại mức độ hội tụ của các biến quan sát theo các thành phần. KMO = 
0,758 thỏa mãn điều kiện 0,5 < KMO < 1, do đó phân tích nhân tố khám phá là thích hợp cho dữ 
liệu điều tra. Kiểm định Barlett có Sig. < 0,05, cho thấy các biến quan sát có tương quan tuyến 
tính với nhân tố đại diện. Trị số phương sai trích là 54,902 %, điều này có nghĩa là 54,902 % thay 
đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát. Kết quả phân tích nhân tố cho thấy có 
2 yếu tố mới được thành lập và được đặt tên lại bao gồm: (1) Nguyên nhân bên trong và (2) 
Nguyên nhân bên ngoài (Bảng 4). 
Bảng 4. Kết quả phân tích nhân tố EFA 
Nhân tố 
Hệ số tải nhân tố 
1 2 
Yếu tố 1: Nguyên nhân bên trong 
Nguyên nhân đạo văn là do công việc/ bài tập/ nghiên cứu quá khó so với khả năng 0,793 
Nguyên nhân đạo văn là do kỹ năng viết yếu 0,791 
Nguyên nhân đạo văn là do thiếu kỹ năng đánh giá và tổ chức nguồn tài liệu nghiên cứu 0,783 
Nguyên nhân đạo văn là do áp lực của việc xuất bản/ hoàn thành công việc/ bài tập để đạt được 
thành công 
0,633 
Nguyên nhân đạo văn là do thiếu kỹ năng trích dẫn từ các nguồn tài liệu 0,556 
Nguyên nhân đạo văn là do thiếu kỹ năng quản lý thời gian nghiên cứu 0,411 
Yếu tố 2: Nguyên nhân bên ngoài 
Nguyên nhân đạo văn là do không có các khuyến cáo từ giảng viên/ nhà trường/ nhà xuất bản 
về hành vi đạo văn 
 0,802 
Nguyên nhân đạo văn là do hành vi đạo văn trở nên phổ biến 0,751 
Nguyên nhân đạo văn là do dễ dàng truy cập và tải các tài liệu miễn phí từ các nguồn trên 
Internet 
 0,699 
Nguồn: số liệu điều tra năm 2017 
Như vậy, 2 nhóm nguyên nhân cơ bản dẫn đến đạo văn đã được các giảng viên và sinh 
viên Khoa Du lịch nhận thấy bao gồm nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Các 
nguyên nhân bên trong đó là thiếu các kỹ năng và năng lực nghiên cứu cũng, các nguyên nhân 
bên ngoài bao gồm thiếu khuyến cáo từ trường học, các công cụ Internet phát triển và đạo văn 
là hành vi phổ biến. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5D, 2017 
25 
5 Kết luận và một số kiến nghị 
Nghiên cứu đã khám phá được rằng thuật ngữ đạo văn không phải là một thuật ngữ mới 
đối với sinh viên và giảng viên Khoa Du lịch, Đại học Huế (91,7 % đã từng nghe đến thuật ngữ 
này). Đa số họ đều nhận thức rất rõ các hình thức đạo văn với tỷ lệ trên 50 % nhận biết được các 
cách thức đạo văn thông thông thường nhưng cũng trên 50 % thừa nhận họ đã thực hiện một 
trong các hình thức đạo văn đó. Bên cạnh đó, đối với các hình thức đạo văn khác“Trình bày/ 
công bố kết quả công việc/ công trình nghiên cứu của cá nhân dưới danh nghĩa của một nhóm”; “Bịa đặt 
tài liệu tham khảo”; “Bịa đặt và thay đổi số liệu trong nghiên cứu”; “Sao chép bài tập/ khóa luận/ bài báo 
của đã công bố của chính mình/ nhóm mình” tỷ lệ không đồng ý cao hơn đồng ý chứng tỏ vẫn còn 
một số sinh viên và giảng viên không có hiểu biết một cách toàn diện về các hình thức đạo văn. 
Ngoài ra, vẫn còn một tỷ lệ lớn những người tham gia khảo sát không biết về các vấn đề trên, 
và khoảng 10 % không đưa ra ý kiến cho các vấn đề khảo sát. 
Dựa vào phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA, nghiên cứu cũng tìm ra rằng 2 
nguyên nhân chính dẫn đến đạo văn đó là các nguyên nhân bên trong bao gồm thiếu các khả 
năng nghiên cứu, thiếu khả năng quản lý thời gian, thiếu các kỹ năng trong nghiên cứu và viết 
học thuật. Nguyên nhân chính thứ hai dẫn đến đạo văn đó là các nguyên nhân từ bên ngoài 
như do không có các khuyến cáo từ giảng viên/nhà trường/nhà xuất bản về hành vi đạo văn, do 
hành vi đạo văn trở nên phổ biến và cách thức giáo dục, do dễ dàng truy cập và tải các tài liệu 
miễn phí từ các nguồn trên Internet. 
Như vậy, qua nghiên cứu trên chúng ta có thể nhận thấy rằng đạo văn không đơn thuần 
là một hành động “ăn cắp” hay sự lười biếng mà nó còn xuất phát từ các yếu tố văn hóa, giáo 
dục nên họ ít có ý niệm về nó. Tuy nhiên, để tham gia vào mạng lưới học thuật quốc tế, các 
trường đại học ở Việt Nam nói chung và KDL–ĐHH nói riêng cần nhận thức rõ sự nghiêm 
trọng của vấn đề đạo văn và có các giải pháp ngăn chặn hành vi này. Dựa trên kết quả nghiên 
cứu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức về đạo văn của giảng 
viên trẻ và sinh viên khoa Du lịch như sau: 
(1) Tổ chức các khóa học nâng cao hiểu biết về đạo văn và các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Đối 
với nhóm giải pháp này, chúng tôi cho rằng Tổ khoa học công nghệ và Thư viện của Khoa nên 
thường xuyên tổ chức các khóa học về kỹ năng nghiên cứu khoa học, cách thức trích dẫn nguồn 
tài liệu, hay kỹ năng xuất bản các công trình nghiên cứu. 
(2) Khoa cần đề nghị Đại học Huế sử dụng các công cụ điện tử giúp phát hiện đạo văn. Đối với 
giải pháp này, chúng tôi đề xuất Khoa công nghệ thông tin của Đại học Huế hay bộn môn ICT, 
Khoa Du lịch có thể dựa trên các công cụ phát hiện đạo văn hiện có trên thế giới để xây dựng 
công cụ điện tử phát hiện đạo văn chuyên biệt đối với tiếng Việt. 
(3) Khoa cần ban hành các chế tài xử lý khi phát hiện hành vi đạo văn. Ngoài các giải pháp 
mang tính chính sách nêu trên, chúng tôi cũng cho rằng việc khuyến khích và hỗ trợ các giảng 
Phạm Thị Diễm Hương, Nguyễn Thị Minh Nghĩa Tập 126, Số 5D, 2017 
26 
viên và sinh viên xuất bản các công trình nghiên cứu của mình sẽ có tác động tích cực đến việc 
tránh đạo văn và nâng cao chất lượng học thuật của Khoa Du lịch – Đại học Huế 
Tài liệu tham khảo 
1. Ashworth P., Bannister P., Thorne P. (1997), Guilty in whose eyes? University students 
perceptions of cheating and plagiarism in academic work and assessment, Studies in Higher 
Education, 22(2), 187–203. 
2. Auer N. J., Krupar E. M. (2001), Mouse click plagiarism: The role of technology in 
plagiarism and the librarian›s role in combating it, Library Trends, 49(3), 415–32. 
3. Carroll Jude & Ranald MacDonald (2006), Plagiarism—a complex issue requiring a holistic 
institutional approach. Assessment & Evaluation in Higher, 31, 233–234. 
4. Chou, I.-C. (2010), Is Plagiarism a Culture Product: The Voice of a Chinese-Speaking ELL. 
The International Journal - Language Society and Culture, 31, 37–41. 
5. Dictionary, O.E. (2012), Oxford English Dictionary Online. [Online], Available at: 
https://en.oxforddictionaries.com/definition/plagiarism, [Accessed 30 7 2017]. 
6. Dordoy A., editor (2002), Cheating and plagiarism: student and staff perceptions at 
Northumbria, The Northumbria Conference – Educating for the Future, Junly 2002. 
7. Evans, F. B. & Youmans, M. (2000), ESL writers discuss plagiarism: the social construction 
of ideologies, Journal of Education, 182(3), 49–65. 
8. Flint A., Clegg S., Macdonald R. (2006), Exploring staff perceptions of student plagiarism, 
Journal of further and higher education, 30(02), 145–56. 
9. Hermann Maurer; Frank Kappe & Bilal Zaka. (2006), Plagiarism: A survey, Journal of 
Universal Computer Science, 12(8), 1050–1084. 
10. Ho TM, Nguyen HV, Vuong TT et al. (2007), Exploring Vietnamese co-authorship patterns 
in social sciences with basic network measures of 2008-2017 Scopus data [version 1; 
referees: 3 approved], F1000Research 2017, 6:1559 (doi: 10.12688/f1000research.12404.1) 
11. Huỳnh Hiền, Phạm Hiệp và Abraham Trần, (2015), Đại học Đà Nẵng. [Online]. Available 
at:  [Accessed 8 10 2017]. 
12. Leask, B. (2006), Plagiarism, cultural diversity and metaphor—implications for academic 
staff development, Assessment & Evaluation in Higher Education, 31(2), 183–199. 
13. Liddell, J. (2003), A Comprehensive Definition of Plagiarism, Community and Junior College, 
11(3), 43–52. 
14. Macdonald R., (2000), Why don’t we turn the tide of plagiarism to the learners’ advantage, 
Times Higher Educational Supplement, 24. 
Jos.hueuni.edu.vn Tập 126, Số 5D, 2017 
27 
15. McCabe, D., 2017. Plagiarism. [Online]. Available at: 
 [Accessed 19 7 2017]. 
16. Minh Giảng, n.d Tuổi trẻ online. [Online], Available at: 
duc/20150530/dao-van-ngay-cang-dang-bao-dong/754254.html. [Accessed 19 7 2017]. 
17. Nguyễn Thị Hiền (2016), Tia Sáng. [Online], Available at: 
khoa-hoc/Nghien-cuu-KHXHNV-Nguyen-nhan-kho-cong-bo-quoc-te-10034. [Accessed 19 
7 2017]. 
18. Nguyễn Văn Tuấn (2013), Từ nghiên cứu đến công bố: kỷ năng mềm cho nhà khoa học, Nxb. 
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, T.P. Hồ Chí Minh. 
19. Nghiêm Huê, (2017), Báo Mới. [Online]. Available at: https://www.baomoi.com/410-nha-
khxh-nv-viet-nam-co-cong-bo-tren-scopus/c/23489494.epi [Accessed 8 10 2017]. 
20. Park, C. (2003), In Other (People's) Words: Plagiarism by University students: literature 
and lessons, Assessment & Evaluation in Higher, 25(5), 471. 
21. Ponemon, L., & Glazer, A. (1990), Accounting education and ethical development: The 
influence of liberal learning on students and alumni in accounting practice, Accounting 
Education, 5(2), 195–208. 
22. Quý Hiên (2017), Thanh Niên, [Online], Available at: 
khoa-hoc-xa-hoi-nhan-van-moi-co-1-nguoi-co-kha-nang-dan-dat-883440.html [Accessed 8 
10 2017]. 
23. Sowden, C. (2005), Plagiarism and the culture of multilingual students in higher education 
abroad, ELT Journal, 3(59), 266–233. 
24. Sierles, F., & Hendrickx, I. (1980), Cheating in medical school. Academic Medicine, 55(2), 
124–5. 
25. Smith, M., Ghazali, N., & Minhad, S. F. N. (2007), Attitudes towards plagiarism among 
undergraduate accounting students: Malaysian evidence. Asian Review of Accounting, 15(2), 
122–146. 
26. St Pierre, K. E., Nelson, E., & Gabbin, A. (1990), A study of the ethical development of 
accounting majors in relation to other business and nonbusiness disciplines, The Accounting 
Educators' Journal, 3(1), 23–35. 
27. Thông tư Ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ, [Online]. Available at: 
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Thong-tu-08-2017-TT-BGDDT-Quy-che-
tuyen-sinh-dao-tao-trinh-do-tien-si-338487.aspx. [Accessed 19 7 2017]. 
28. Tóm tắt xuất bản quốc tế giai đoạn (2012 – 2017) (Summary international publication (2012 
-2017), (2017), Kỷ niệm 60 năm thành lập Đại học Huế (1957 -2017), Huế: Đại học Khoa học 
Huế. 
29. Zhang, H. (2016), Against Plagiarism, Heidelberg New York Dordrecht London: Springer 
International Publishing. 
Phạm Thị Diễm Hương, Nguyễn Thị Minh Nghĩa Tập 126, Số 5D, 2017 
28 
AWARENESS OF STUDENTS AND TEACHERS ABOUT 
PLAGIARISM AT SCHOOL OF HOSPITALITY AND TOURISM 
– HUE UNIVERSITY 
Phan Thi Diem Huong*, Nguyen Thi Minh Nghia 
HU – School of Hospitality and Tourism, 22 Lam Hoang St., Hue, Vietnam 
Abstract: This article explores the issue of awareness of plagiarism among students and young 
lecturers at School of Hospitality and Tourism – Hue University. The study aims to investigate 
their understanding of the concept of plagiarism as well as their view of the reasons for this 
problem through an online survey. The findings indicated that most students and young 
lecturers in the survey clearly recognized several forms of plagiarism. However, they confessed 
that they committed at least one form of plagiarism. This is due to the internal causes (e.g. lack 
of skill in research or lack of awareness for acknowledgement of others’ studies) and external 
causes (e.g. pressure, Internet availability, lack of the recommendation from their institutions or 
plagiarism becomes popular). 
Keywords: plagiarism, students, lecturers, School of Hospitality and Tourism, causes 

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_ve_dao_van_cua_sinh_vien_va_giang_vien_khoa_du_lic.pdf