Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020
Đặt vấn đề: Đột quỵ luôn là vấn đề quan trọng trên toàn thế giới. Nhận thức tốt về các yếu tố nguy cơ và
dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ góp phần làm giảm gánh nặng của đột quỵ vì điều này giúp dự phòng đột quỵ có
hiệu quả hơn đồng thời giúp cải thiện kết cục điều trị.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ và một số
yếu tố liên quan đến các tỉ lệ nhận thức không đạt đó ở người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk.
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 94 NHẬN THỨC VỀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ DẤU HIỆU CẢNH BÁO ĐỘT QUỴ Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, ĐẮK LẮK NĂM 2020 Đặng Thị Xuyến1, Đinh Hữu Hùng1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đột quỵ luôn là vấn đề quan trọng trên toàn thế giới. Nhận thức tốt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ góp phần làm giảm gánh nặng của đột quỵ vì điều này giúp dự phòng đột quỵ có hiệu quả hơn đồng thời giúp cải thiện kết cục điều trị. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ và một số yếu tố liên quan đến các tỉ lệ nhận thức không đạt đó ở người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 464 người trưởng thành ở Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sử dụng một bộ câu hỏi được soạn sẵn để thu thập các thông tin thông qua phỏng vấn trực tiếp. Kết quả: Trong tháng 01/2020, chúng tôi đã thu thập 464 đối tượng nghiên cứu. Kết quả cho thấy rằng có 67,9% và 76,1% người trưởng thành nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ. Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ là tuổi cao (≥ 65 tuổi), dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp và nghề nông. Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về dấu hiệu cảnh báo đột quỵ là lớn tuổi, trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp và tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ. Không có sự khác biệt về sự nhận thức đối với các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ giữa những người có tiền sử mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu so với nhóm còn lại. Kết luận: Tỉ lệ nhận thức không đạt về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ của người dân tuổi trưởng thành ở mức cao. Các yếu tố có liên quan đến cả hai tỉ lệ nhận thức không đạt này là tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp. Riêng nhận thức về yếu tố nguy cơ, còn có liên quan với nhóm dân tộc, và đối với nhận thức về dấu hiệu cảnh báo, còn có liên quan với tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ. Từ khóa: nhận thức, yếu tố nguy cơ, dấu hiệu cảnh báo, đột quỵ ABSTRACT AWARENESS OF RISK FACTORS AND WARNING SIGNS FOR STROKE AMONG ADULTS IN BUON MA THUOT CITY, DAK LAK PROVINCE Dang Thi Xuyen, Dinh Huu Hung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 94 - 100 Background: Stroke is always an important issue in the world. The good awareness of stroke risk factors and warning signs decrease the burden of stroke because that help more effective prevention and improve outcomes treatment. Objective: To identify the poor awareness of risk factors and warning signs for stroke among the adult population in Buon Ma Thuot city, Dak Lak province, and some associated factors with this poor awareness. Methods: Descriptive cross-sectional study of 464 participants in Buon Ma Thuot city, Dak Lak province. We used a designed questionnaire to collect data from the subjects through direct interviews. 1Trường Đại học Tây Nguyên Tác giả liên lạc: BS. Đặng Thị Xuyến ĐT: 0902712456 Email: [email protected] Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 95 Results: In January 2020, we recruited 464 participants. The results indicated that 67.9% and 76.1% of participants had poor awareness of risk factors and warning signs for stroke. Factors associated with poor awareness of stroke risk factors are older age (65 years old and more), ethnic minority, low education level, and farmers. Factors associated with awareness of warning signs for stroke are older age, lower level of education, occupation and familial history have a ralatively experienced stroke. No variations about the awareness between the respondents who have hypertension, diabetes mellitus, and dyslipidemia with the respondents without these characteristics. Conclusion: The poor perception of risk factors and warning signs for stroke among adults in the community is high. Factors associated with the poor awareness of both stroke risk factors and warning signs are age, level of education, occupational. Singular poor awareness of stroke risk factors associated with ethnic minority, and the poor perception of warning signs of stroke associated with a familial history that his ralatives had experienced stroke. Keywords: awareness, risk factors, warning signs, stroke ĐẶT VẤN ĐỀ Đột quỵ (ĐQ) luôn là vấn đề thời sự của mọi quốc gia bởi tỉ lệ tử vong và tàn tật luôn ở mức cao và số người chết, mắc mới và hiện mắc vẫn không ngừng tăng lên với tỉ lệ lần lượt là 41%, 66% và 84%(1). Để làm giảm gánh nặng do đột quỵ, chiến lược dự phòng đột quỵ nguyên phát nhấn mạnh nên tập trung vào những yếu tố nguy cơ (YTNC) thuộc về hành vi như hút thuốc lá, chế độ ăn không hợp lý, thói quen ít vận động(1). Bên cạnh đó, việc thiếu nhận thức về triệu chứng ban đầu cũng như các dấu hiệu cảnh báo (DHCB) đột quỵ là nguyên nhân dẫn đến nhập viện muộn làm ảnh hưởng không tốt đến kết cục điều trị ĐQ(2,3). Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề nhận thức về YTNC và DHCB của người dân tại cộng đồng, kết quả cho thấy tỉ lệ nhận thức của người dân chưa cao. Bằng chứng từ nhiều nghiên cứu ở các quốc gia phát triển và đang phát triển cho thấy việc xác định được bất kỳ YTNC và DHCB của người dân ở mức chung là dưới 50%(4). Theo nghiên cứu tổng quan của Jones SP (2010), những yếu tố liên quan đến nhận thức kém của người dân về YTNC và DHCB đột quỵ là những người lớn tuổi, trình độ học vấn thấp và dân tộc thiểu số(2). Lý Thị Kim Thương và cs đã tiến hành nghiên cứu tại một phường tại Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai cho thấy tỉ lệ nhận thức không đạt về YTNC và DHCB của người dân là 51,3% và 58,8%(5). Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại số lượng các nghiên cứu về vấn đề này trong cộng đồng còn khá khiêm tốn. Chính vì vậy, để góp phần xây dựng những chiến lược can thiệp cụ thể làm giảm gánh nặng do ĐQ gây ra, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này với hai mục tiêu cụ thể: - Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, - Xác định một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ tại điểm nghiên cứu. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Là những người dân từ 18 tuổi trở lên, có hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại Thành phố Buôn Ma Thuột từ 6 tháng trở lên. Tiêu chuẩn loại ra Người mất năng lực hành vi, tâm thần, câm, điếc, không đi lại được, không có khả năng giao tiếp; Người vắng mặt tại địa phương trong thời điểm nghiên cứu sau hai lần mời hoặc tiếp xúc mà không gặp được; Người là khách vãng lai. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 96 Cỡ mẫu Tính theo công thức xác định tỉ lệ trong quần thể: Với α=0,05; d=0,05 và p=78,2% (tỉ lệ nhận thức không đạt về YTNC đột quỵ của Olorukooba AA(6)), ta tính được n=262. Tương tự, với p=77,6% (tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB đột quỵ của Pandian JD(7)), ta tính được n=268. Như vậy, cỡ mẫu cần cho nghiên cứu này là 268. Bởi vì chọn mẫu nhiều giai đoạn nên chúng tôi chọn hệ số thiết kế là 1,5 và có dự phòng trường hợp mất mẫu (5%) nên cỡ mẫu thực sự cần có là: 268 x 1,5 x 1,05 ≈ 423. Phương pháp chọn mẫu Gồm các giai đoạn: (1) chọn 7 cụm (xã/phường) thuộc Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bằng phương pháp PPS, (2) chọn hộ gia đình theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống từ mỗi cụm. Với ước tính mỗi hộ gia đình có 2 người thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu thì mỗi cụm sẽ cần chọn ra 31 hộ gia đình, và (3) chọn tất cả các thành viên trong hộ gia đình được chọn theo tiêu chuẩn chọn mẫu. Phương pháp thu thập số liệu Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu đều được phỏng vấn mặt đối mặt để ghi nhận các thông tin về: (1) các yếu tố nhân khẩu học như tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân; các yếu tố về tiền sử y khoa như tăng huyết áp (THA), đái tháo đường (ĐTĐ), rối loạn lipid máu (RLLM), tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ; và (2) sự nhận thức về các YTNC và DHCB ĐQ (câu hỏi mở, không có gợi ý). Nhận thức không đạt khi kể tên được ít hơn 2 YTNC/DHCB ĐQ, nhận thức đạt khi kể tên được từ 2 YTNC/DHCB ĐQ trở lên(6). Trước khi tiến hành thu thập số liệu tại thực địa, chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều tra thử tại một cụm trên 30 người tham gia để thử nghiệm bộ công cụ và thực hành các hoạt động thu thập số liệu. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và được xử lý bằng phần mềm Stata 14.0. Thống kê mô tả (tần số, tỉ lệ %) và thống kê phân tích (phép kiểm Chi bình phương và phép kiểm chính xác của Fisher) được sử dụng để phân tích số liệu. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 25/HĐĐĐ, ngày 6/01/2020. KẾT QUẢ Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (n=464) Đặc điểm Tần số (%) Giới tính Nam 145 (31,2) Nữ 319 (68,8) Tuổi 54,03 ±14,92 18-44 123 (26,5) 45-64 226 (48,7) ≥ 65 115 (24,8) Dân tộc Kinh 359 (77,4) Dân tộc thiểu số 105 (22,6) Trình độ học vấn Từ tiểu học trở xuống 127 (27,4) Trung học cơ sở 161 (34,7) Trung học phổ thông 90 (19,4) Đại học/Cao đẳng trở lên 86 (18,5) Nghề nghiệp Nông dân 161 (34,7) Nội trợ 86 (18,5) Công nhân viên chức 58 (12,5) Buôn bán 33 (7,1) Nghề khác* 126 (27,2) Tình trạng hôn nhân Chưa kết hôn 30 (6,5) Đã kết hôn** 434 (93,5) Tiền sử tăng huyết áp 144 (31,0) Tiền sử đái tháo đường 45 (9,7) Tiền sử rối loạn lipid máu 78 (16,8) Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ 86 (18,5) ** ã k t hôn g m ang s ng v i v /ch ng, ly hôn/ly thân, góa *Nghề khác bao gồm nghỉ hưu, bốc vác, nghề không cố định Nhận thức của người dân về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ Hơn 2/3 số người tham gia nghiên cứu có nhận thức không đạt về các YTNC ĐQ và hơn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 97 3/4 có nhận thức không đạt về DHCB ĐQ. Trong đó, có đến 42,9% không biết bất kỳ YTNC nào và 47% không biết bất kỳ DHCB nào. Bảng 2: Tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ (n=464) Nhận thức Yếu tố nguy cơ Dấu hiệu cảnh báo Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) Không đạt 315 67,9 353 76,1 Đạt 149 32,1 111 23,9 Đạt: kể được từ 2 yếu tố nguy cơ/dấu hiệu cảnh báo trở lên; Không đạt: kể tên được ít hơn 2 yếu tố nguy cơ/dấu hiệu cảnh báo Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo ĐQ Kết quả Bảng 3 cho thấy: - Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về các YTNC ĐQ bao gồm: Tuổi (≥65), dân tộc thiểu số, trình độ học vấn (trình độ học vấn càng thấp, tỉ lệ nhân thức không đạt càng cao) và nghề nghiệp mà đặc biệt là nghề nông dân. - Không có sự khác biệt giữa những người có tiền sử tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ về sự nhận thức không đạt YTNC với những người không có những tiền sử y khoa nói trên. Kết quả Bảng 4 cho thấy: - Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ bao gồm: Tuổi (tuổi càng cao, tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), trình độ học vấn (trình độ học vấn càng thấp, tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), nghề nghiệp (nghề nông dân có tỉ lệ nhận thức không đạt cao nhất) và tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ (có tỉ lệ nhận thức không đạt thấp hơn). - Không có sự khác biệt giữa những người có tiền sử tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu về sự nhận thức không đạt về DHCB ĐQ với những người không có những tiền sử y khoa nói trên. Bảng 3: Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ của đột quỵ Đặc điểm OR KTC 95% P Tuổi ≥ 65 1,83 1,05 - 3,2 0,033 45 – 64 1,30 0,82 - 2,05 0,267 18 – 44 1 Tham chiếu Giới tính Nữ 1,17 0,77 - 1,74 0,461 Nam 1 Tham chiếu Dân tộc Dân tộc thiểu số 5,34 2,76 - 10,32 <0,001 Dân tộc kinh 1 Tham chiếu Trình độ học vấn Từ tiểu học trở xuống 21,84 9,98 - 47,8 <0,001 Trung học cơ sở 4,03 2,31 - 7,01 <0,001 Trung học phổ thông 3,38 1,82 - 6,28 <0,001 Đại học/Cao đẳng trở lên 1 Tham chiếu Nghề nghiệp Nông dân 19,11 9,06 - 40,28 <0,001 Buôn bán 5,73 2,26 - 14,56 <0,001 Nội trợ 5,08 2,44 - 10,6 <0,001 Nghề khác 5,53 2,76 - 11,07 <0,001 Công nhân viên chức 1 Tham chiếu Tình trạng hôn nhân Đã kết hôn 1,94 0,92 - 4,08 0,082 Chưa kết hôn 1 Tham chiếu Tiền sử tăng huyết áp Có 0,74 0,49 - 1,11 0,147 Không 1 Tham chiếu Tiền sử đái tháo đường Có 0,62 0,33 - 2,25 0,129 Không 1 Tham chiếu Tiền sử rối loạn lipid máu Có 0,67 0,40 - 1,10 0,115 Không 1 Tham chiếu Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ Có 0,86 0,52-1,41 0,542 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 98 Không 1 Tham chiếu OR: Odds Ratio (tỷ suất chênh) KTC: khoảng tin cậy Bảng 4: Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về dấu hiệu cảnh báo đột quỵ Đặc điểm OR KTC 95% P Tuổi ≥ 65 4,53 2,28 - 8,97 < 0,001 45 – 64 1,88 1,17 - 3,04 0,01 18 – 44 1 Tham chiếu Giới tính Nữ 0,91 0,57 - 1,45 0,692 Nam 1 Tham chiếu Dân tộc Dân tộc thiểu số 1,56 0,90 - 2,70 0,114 Dân tộc kinh 1 Tham chiếu Trình độ học vấn Từ tiểu học trở xuống 9,62 4,72 - 19,63 < 0,001 Trung học cơ sở 4,6 2,58 - 8,19 < 0,001 Trung học phổ thông 3,39 1,79 - 6,43 < 0,001 Đại học/Cao đẳng trở lên 1 Tham chiếu Nghề nghiệp Nông dân 7,9 4,03 - 15,49 < 0,001 Buôn bán 3,5 1,41 - 8,69 0,007 Nội trợ 7,82 3,59 - 17,03 <0,001 Nghề khác 5,85 2,96 - 11,56 < 0,001 Công nhân viên chức 1 Tham chiếu Tình trạng hôn nhân Đã kết hôn 0,55 0,25 - 1,19 0,129 Chưa kết hôn 1 Tham chiếu Tiền sử tăng huyết áp Có 1,02 0,65 -1,63 0,916 Không 1 Tham chiếu Tiền sử đái tháo đường Có 1,79 0,78 - 4,34 0,171 Không 1 Tham chiếu Tiền sử rối loạn lipid máu Có 1,06 0,59-1,89 0,848 Không 1 Tham chiếu Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ Có 0,58 0,35-0,97 0,039 Không 1 Tham chiếu OR: Odds Ratio (tỷ suất chênh) KTC: khoảng tin cậy BÀN LUẬN Tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân tuổi trưởng thành trong cộng đồng có nhận thức không đạt của về các YTNC ĐQ ở mức cao (67,9%). Con số này tương đương với nghiên cứu của Sadeghi-Hokmabadi E ở Iran (64,9%) và thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Olorukooba AA ở Nigeria (78,2%)(6,8). Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại cao hơn so với nghiên cứu của Blades LL tại Mỹ (55%) và nghiên cứu Lý Thị Kim Thương tại Gia Lai (51,3%)(5,9). Bên cạnh đó, tỉ lệ người không có khả năng kể được tên bất kỳ một YTNC đột quỵ nào cũng ở mức cao (42,9%). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Chhabra M tại Ấn Độ (28,85%)(10), Blades LL tại Mỹ (21%)(9) và nghiên cứu của Sadeghi- Hokmabadi E ở Iran (20,2%)(8). Không biết gì về YTNC ĐQ là vấn đề đáng báo động vì hơn 90% gánh nặng đột quỵ là do các YTNC có thể thay đổi được, nhưng lại không được nhận thức để thay đổi(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ là 76,1%, kết quả này tương tự nghiên cứu của Pandian JD ở Ấn Độ (77,6%) và cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Blades LL tại Mỹ (30%)(7,9). Bên cạnh đó, tỉ lệ người dân không biết bất kỳ DHCB ĐQ nào trong nghiên cứu này cũng cao hơn rất nhiều (47%) so với nghiên cứu của Pandian JD (23%)(7) và của Blades LL (38%)(9). Tỉ lệ nhận thức không đạt này cũng cao hơn so với Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 99 nghiên cứu của Lý Thị Kim Thương với tỉ lệ nhận thức không đạt là 58,8% và tỉ lệ người dân không biết về DHCB là 32,6%(5). Như vậy, nghiên cứu này chỉ ra rằng sự nhận thức của người dân trưởng thành trong cộng đồng về các YTNC và DHCB ĐQ còn thấp. Rõ ràng, đây là một thách thức không nhỏ đối với nỗ lực dự phòng ĐQ(11). Và đó cũng là rào cản lớn trong việc điều trị ĐQ mà tác giả Nguyễn Thị Trà Giang và Lê Văn Tuấn đã cho thấy việc chậm trễ trong nhập viện của bệnh nhân ĐQ liên quan đến nhận biết về triệu chứng ban đầu của ĐQ(3). Do đó, cần có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao nhận thức của người dân về các YTNC, DHCB ĐQ và cách kiểm soát các YTNC này cũng như cách xử trí khi gặp các DHCB ĐQ này để góp phần làm giảm gánh nặng ĐQ cho gia đình và xã hội. Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nhận thức không đạt về YTNC ĐQ cao gấp gần 2 lần ở nhóm người ≥65 tuổi so với nhóm từ 18-45 tuổi, ở người dân tộc thiểu số cao gấp 5 lần so với người Kinh và những người có trình độ học vấn càng thấp thì tỉ lệ nhận thức không đạt về YTNC ĐQ càng cao. Kết luận tương cũng được chỉ ra trong nghiên cứu tổng quan của Jones và cs khi có đến 70% người ≥65 tuổi có nhận thức không đạt về các YTNC ĐQ, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm <65 tuổi (50%). Thiếu nhận thức về YTNC ĐQ cao hơn ở người Mỹ gốc Phi và những người có trình độ học vấn thấp(6). Bên cạnh đó, theo Lý Thị Kim Thương và cs thì những người có trình độ trung học phổ thông có nhận thức không đạt về YTNC ĐQ cao hơn những người có trình độ từ cao đẳng trở lên với OR=38,73 (KTC 95%; p <0,001)(5). Thêm vào đó, kết quả của chúng tôi cũng chỉ ra tỉ lệ nhận thức không đạt về các YTNC ĐQ cũng rất cao ở nhóm người dân làm nghề nông. Điều này có lẽ do trong nghiên cứu này những người làm nghề nông đa số là những người có trình độ học vấn thấp. Càng lớn tuổi, tỉ lệ mắc đột quỵ càng cao và từ 55 tuổi trở lên nguy cơ mắc đột quỵ tăng gấp đôi sau mỗi 10 năm(4). Nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi và nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy, sự nhận thức về các YTNC ĐQ ở nhóm tuổi ≥65 lại rất hạn chế. Đây có thể là yếu tố góp phần làm cho tỉ lệ đột quỵ vốn đã cao ở nhóm đối tượng này ngày càng cao hơn. Tỉ lệ nhận thức không đạt cao về YTNC ĐQ của nhóm người có trình độ học vấn thấp và dân tộc thiểu số trong nghiên cứu của chúng tôi cũng là vấn đề đáng được quan tâm bởi Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên nơi có tới 35% là người đồng bào dân tộc thiểu số, tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ được đi học đứng hàng thứ 2 so với cả nước(11). Vì thế, chúng ta cần có những giải pháp phù hợp và thiết thực nhất nhằm nâng cao nhận thức của người lớn tuổi, những người là đồng bào dân tộc thiểu số và những người có trình độ học vấn thấp về các YTNC ĐQ để góp phần làm giảm gánh nặng gây ra bởi các bệnh không lây nhiễm nói chung và ĐQ nói riêng. Về vấn đề nhận thức các DHCB ĐQ, nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng, có mối liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt với tuổi (tuổi càng cao thì tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), trình độ học vấn (trình độ học vấn càng thấp thì tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), nghề nghiệp (những người làm nghề nông có tỉ lệ nhận thức không đạt cao nhất) và tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ (có tỉ lệ nhận thức không đạt thấp hơn). Tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ cao hơn ở những người ≥65 tuổi so với những người ở độ tuổi 45-64 cũng được báo cáo trong nghiên cứu của Blades LL và tổng quan của Jones SP(2,9). Vấn đề này cần được chú ý hơn nữa với mong muốn cải thiện kết cục điều trị ĐQ vì khả năng mắc ĐQ ở những người càng lớn tuổi thì càng cao. Họ cần được cung cấp những kiến thức cần thiết về những DHCB ĐQ, cách xử trí khi gặp những triệu chứng đó xảy ra với chính họ hoặc những người xung quanh họ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 100 Trình độ học vấn trên 12 năm có sự nhận thức về DHCB ĐQ tốt hơn được Blades LL chứng minh sau khi đưa vào phân tích hồi quy đa biến(9), kết quả tương đồng với tác giả Lý Thị Kim Thương(5). Cũng giống như lý do đã nêu trên sự nhận thức về các YTNC ĐQ, những người làm nghề nông có tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ cao hơn so với những nhóm còn lại. Như vậy những chiến lược làm gia tăng nhận thức về DHCB ĐQ cuả những người có trình độ học vấn thấp cần phải lưu ý đến khả năng tiếp nhận thông tin cũng như hình thức truyền tải thông tin đến nhóm đối tượng này. Trong nghiên cứu này, những người có tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ thì có tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ thấp hơn nhóm còn lại, điều này có thể được lý giải do họ đã được chứng kiến hay quan tâm hơn về những triệu chứng mà người thân của họ đã trải qua. Tuy nhiên, tỉ lệ chung nhận thức không đạt về DHCB ĐQ vẫn là rất cao. Điều đáng quan tâm trong nghiên cứu của chúng tôi là tỉ lệ nhận thức không đạt cả về YTNC và DHCB ĐQ ở những người có tiền sử y khoa như THA, ĐTĐ, RLLM không có sự khác biệt gì so với những người không có tiền sử trên. THA, RLLM, ĐTĐ là 3 trong 10 YTNC quan trọng của ĐQ được xác định trong nghiên cứu INTERSTROKE với nguy cơ quy trách gây ra ĐQ trong dân số lần lượt là 47,9%, 26,8%, 3,9%(11). Điều này lại một lần nữa nhấn mạnh rằng những người có nguy cơ cao bị đột quỵ lại thiếu nhận thức về YTNC cũng như DHCB ĐQ, phải chăng đó là một trong những lý do mà tỉ lệ mắc ĐQ vẫn chưa được kiểm soát tốt. Đây là điều đáng phải quan tâm hơn nữa trong công tác dự phòng ĐQ, bên cạnh các chiến lược tầm soát các YTNC của ĐQ cần phải có các chiến lược nâng cao nhận thức của những người có nguy cơ cao này về tầm quan trọng của các YTNC cũng như việc kiểm soát các YTNC đó. KẾT LUẬN Tỉ lệ nhận thức không đạt về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ của người dân tuổi trưởng thành ở mức cao. Các yếu tố có liên quan đến cả hai tỉ lệ nhận thức không đạt này là tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp. Riêng nhận thức về yếu tố nguy cơ, còn có liên quan với nhóm dân tộc, và đối với nhận thức về dấu hiệu cảnh báo, còn có liên quan với tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Feigin VL, Norrving B, Mensah GA (2017). Primary prevention of cardiovascular disease through population-wide motivational strategies: insights from using smartphones in stroke prevention. BMJ Global Health, 2(2):e000306. 2. Jones SP, Jenkinson AJ, Leathley MJ, Watkins CL (2010). Stroke knowledge and awareness: an integrative review of the evidence. Age Ageing, 39(1):11-22. 3. Nguyễn Thị Trà Giang, Lê Văn Tuấn (2018). Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian nhập viện và kết cục lâm sàng của bệnh nhân nhồi máu não cấp tại bệnh viện Đa khoa Đắk Lắk. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):262-268. 4. Donkor ES (2018). Stroke in the 21(st) Century: A Snapshot of the Burden, Epidemiology, and Quality of Life. Stroke Res Treat, doi: 10.1155/2018/3238165. 5. Lý Thị Kim Thương, Đinh Hữu Hùng, Phạm Thị Hoàng Yến (2019). Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và biểu hiện cảnh báo đột quỵ não của người dân tại phường Tây Sơn Thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai năm 2016. Nghiên cứu Khoa học, 2(1):82-90. 6. Olorukooba AA, Mohammed Y, Yahaya SS, et al (2018). Awareness of stroke and knowledge of its risk factors among respondents in Shika community, Kaduna State, Nigeria. Archives of Medicine and Surgery, 3(1):30-34. 7. Pandian JD, Jaison A, Deepak SS, et al (2005). Public awareness of warning symptoms, risk factors, and treatment of stroke in northwest India. Stroke, 36(3):644-648. 8. Sadeghi-Hokmabadi E, Vahdati SS, Rikhtegar R, Ghasempour K, Rezabakhsh A (2019). Public knowledge of people visiting Imam Reza hospital regarding stroke symptoms and risk factors. BMC Emerg Med, 19(1):36. 9. Blades LL, Oser CS, Dietrich DW, et al (2005). Rural community knowledge of stroke warning signs and risk factors. Prev Chronic Dis, 2(2):A14. 10. Chhabra M, Gudi SK, Rashid M, et al (2019). Assessment of Knowledge on Risk Factors, Warning Signs, and Early Treatment Approaches of Stroke among Community Adults in North India: A Telephone Interview Survey. J Neurosci Rural Pract, 10(3):417-422. 11. Kalkonde YV, Alladi S, et al (2018). Stroke Prevention Strategies in the Developing World. Stroke, 49(12):3092-3097. 12. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ương (2019). Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019-Tổ chức thực hiện và kết quả sơ bộ. Nhà xuất bản Thống kê, pp.45-6. Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
nhan_thuc_ve_cac_yeu_to_nguy_co_va_dau_hieu_canh_bao_dot_quy.pdf

