Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020

Đặt vấn đề: Đột quỵ luôn là vấn đề quan trọng trên toàn thế giới. Nhận thức tốt về các yếu tố nguy cơ và

dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ góp phần làm giảm gánh nặng của đột quỵ vì điều này giúp dự phòng đột quỵ có

hiệu quả hơn đồng thời giúp cải thiện kết cục điều trị.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ và một số

yếu tố liên quan đến các tỉ lệ nhận thức không đạt đó ở người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh

Đắk Lắk.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020

Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở người trưởng thành tại thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk năm 2020
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 94
NHẬN THỨC VỀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ 
VÀ DẤU HIỆU CẢNH BÁO ĐỘT QUỴ Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH 
TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, ĐẮK LẮK NĂM 2020 
Đặng Thị Xuyến1, Đinh Hữu Hùng1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đột quỵ luôn là vấn đề quan trọng trên toàn thế giới. Nhận thức tốt về các yếu tố nguy cơ và 
dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ góp phần làm giảm gánh nặng của đột quỵ vì điều này giúp dự phòng đột quỵ có 
hiệu quả hơn đồng thời giúp cải thiện kết cục điều trị. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ và một số 
yếu tố liên quan đến các tỉ lệ nhận thức không đạt đó ở người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh 
Đắk Lắk. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 464 người trưởng thành ở Thành 
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sử dụng một bộ câu hỏi được soạn sẵn để thu thập các thông tin thông qua 
phỏng vấn trực tiếp. 
Kết quả: Trong tháng 01/2020, chúng tôi đã thu thập 464 đối tượng nghiên cứu. Kết quả cho thấy rằng có 
67,9% và 76,1% người trưởng thành nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ. 
Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ đột quỵ là tuổi cao (≥ 65 tuổi), dân tộc 
thiểu số, trình độ học vấn thấp và nghề nông. Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt về dấu hiệu cảnh 
báo đột quỵ là lớn tuổi, trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp và tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ. Không có 
sự khác biệt về sự nhận thức đối với các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ giữa những người có tiền 
sử mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu so với nhóm còn lại. 
Kết luận: Tỉ lệ nhận thức không đạt về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ của người dân tuổi 
trưởng thành ở mức cao. Các yếu tố có liên quan đến cả hai tỉ lệ nhận thức không đạt này là tuổi, trình độ học 
vấn và nghề nghiệp. Riêng nhận thức về yếu tố nguy cơ, còn có liên quan với nhóm dân tộc, và đối với nhận thức 
về dấu hiệu cảnh báo, còn có liên quan với tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ. 
Từ khóa: nhận thức, yếu tố nguy cơ, dấu hiệu cảnh báo, đột quỵ 
ABSTRACT 
AWARENESS OF RISK FACTORS AND WARNING SIGNS FOR STROKE AMONG ADULTS 
IN BUON MA THUOT CITY, DAK LAK PROVINCE 
Dang Thi Xuyen, Dinh Huu Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 94 - 100 
Background: Stroke is always an important issue in the world. The good awareness of stroke risk 
factors and warning signs decrease the burden of stroke because that help more effective prevention and 
improve outcomes treatment. 
Objective: To identify the poor awareness of risk factors and warning signs for stroke among the adult 
population in Buon Ma Thuot city, Dak Lak province, and some associated factors with this poor awareness. 
Methods: Descriptive cross-sectional study of 464 participants in Buon Ma Thuot city, Dak Lak province. 
We used a designed questionnaire to collect data from the subjects through direct interviews. 
1Trường Đại học Tây Nguyên 
Tác giả liên lạc: BS. Đặng Thị Xuyến ĐT: 0902712456 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 95
Results: In January 2020, we recruited 464 participants. The results indicated that 67.9% and 76.1% 
of participants had poor awareness of risk factors and warning signs for stroke. Factors associated with poor 
awareness of stroke risk factors are older age (65 years old and more), ethnic minority, low education level, 
and farmers. Factors associated with awareness of warning signs for stroke are older age, lower level of 
education, occupation and familial history have a ralatively experienced stroke. No variations about the 
awareness between the respondents who have hypertension, diabetes mellitus, and dyslipidemia with the 
respondents without these characteristics. 
Conclusion: The poor perception of risk factors and warning signs for stroke among adults in the 
community is high. Factors associated with the poor awareness of both stroke risk factors and warning signs are 
age, level of education, occupational. Singular poor awareness of stroke risk factors associated with ethnic 
minority, and the poor perception of warning signs of stroke associated with a familial history that his ralatives 
had experienced stroke. 
Keywords: awareness, risk factors, warning signs, stroke 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ (ĐQ) luôn là vấn đề thời sự của mọi 
quốc gia bởi tỉ lệ tử vong và tàn tật luôn ở mức 
cao và số người chết, mắc mới và hiện mắc vẫn 
không ngừng tăng lên với tỉ lệ lần lượt là 41%, 
66% và 84%(1). Để làm giảm gánh nặng do đột 
quỵ, chiến lược dự phòng đột quỵ nguyên phát 
nhấn mạnh nên tập trung vào những yếu tố 
nguy cơ (YTNC) thuộc về hành vi như hút thuốc 
lá, chế độ ăn không hợp lý, thói quen ít vận 
động(1). Bên cạnh đó, việc thiếu nhận thức về 
triệu chứng ban đầu cũng như các dấu hiệu cảnh 
báo (DHCB) đột quỵ là nguyên nhân dẫn đến 
nhập viện muộn làm ảnh hưởng không tốt đến 
kết cục điều trị ĐQ(2,3). 
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vấn 
đề nhận thức về YTNC và DHCB của người dân 
tại cộng đồng, kết quả cho thấy tỉ lệ nhận thức 
của người dân chưa cao. Bằng chứng từ nhiều 
nghiên cứu ở các quốc gia phát triển và đang 
phát triển cho thấy việc xác định được bất kỳ 
YTNC và DHCB của người dân ở mức chung là 
dưới 50%(4). Theo nghiên cứu tổng quan của 
Jones SP (2010), những yếu tố liên quan đến 
nhận thức kém của người dân về YTNC và 
DHCB đột quỵ là những người lớn tuổi, trình độ 
học vấn thấp và dân tộc thiểu số(2). 
Lý Thị Kim Thương và cs đã tiến hành 
nghiên cứu tại một phường tại Thành phố 
Pleiku, tỉnh Gia Lai cho thấy tỉ lệ nhận thức 
không đạt về YTNC và DHCB của người dân là 
51,3% và 58,8%(5). Tuy nhiên, cho đến thời điểm 
hiện tại số lượng các nghiên cứu về vấn đề này 
trong cộng đồng còn khá khiêm tốn. Chính vì 
vậy, để góp phần xây dựng những chiến lược 
can thiệp cụ thể làm giảm gánh nặng do ĐQ gây 
ra, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này với 
hai mục tiêu cụ thể: 
- Xác định tỉ lệ nhận thức không đạt về các 
yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ ở 
người trưởng thành tại Thành phố Buôn Ma 
Thuột, tỉnh Đắk Lắk, 
- Xác định một số yếu tố liên quan với tỉ lệ 
nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ và 
dấu hiệu cảnh báo đột quỵ tại điểm nghiên cứu. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là những người dân từ 18 tuổi trở lên, có hộ 
khẩu thường trú và đang sinh sống tại Thành 
phố Buôn Ma Thuột từ 6 tháng trở lên. 
Tiêu chuẩn loại ra 
Người mất năng lực hành vi, tâm thần, câm, 
điếc, không đi lại được, không có khả năng giao 
tiếp; Người vắng mặt tại địa phương trong thời 
điểm nghiên cứu sau hai lần mời hoặc tiếp xúc 
mà không gặp được; Người là khách vãng lai. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 96
Cỡ mẫu 
Tính theo công thức xác định tỉ lệ trong 
quần thể: 
Với α=0,05; d=0,05 và p=78,2% (tỉ lệ nhận 
thức không đạt về YTNC đột quỵ của 
Olorukooba AA(6)), ta tính được n=262. Tương 
tự, với p=77,6% (tỉ lệ nhận thức không đạt về 
DHCB đột quỵ của Pandian JD(7)), ta tính được 
n=268. Như vậy, cỡ mẫu cần cho nghiên cứu này 
là 268. Bởi vì chọn mẫu nhiều giai đoạn nên 
chúng tôi chọn hệ số thiết kế là 1,5 và có dự 
phòng trường hợp mất mẫu (5%) nên cỡ mẫu 
thực sự cần có là: 268 x 1,5 x 1,05 ≈ 423. 
Phương pháp chọn mẫu 
Gồm các giai đoạn: (1) chọn 7 cụm 
(xã/phường) thuộc Thành phố Buôn Ma Thuột, 
tỉnh Đắk Lắk bằng phương pháp PPS, (2) chọn 
hộ gia đình theo phương pháp ngẫu nhiên hệ 
thống từ mỗi cụm. Với ước tính mỗi hộ gia đình 
có 2 người thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu thì 
mỗi cụm sẽ cần chọn ra 31 hộ gia đình, và (3) 
chọn tất cả các thành viên trong hộ gia đình 
được chọn theo tiêu chuẩn chọn mẫu. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Số liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi soạn 
sẵn. Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu 
đều được phỏng vấn mặt đối mặt để ghi nhận 
các thông tin về: (1) các yếu tố nhân khẩu học 
như tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, 
nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân; các yếu tố 
về tiền sử y khoa như tăng huyết áp (THA), đái 
tháo đường (ĐTĐ), rối loạn lipid máu (RLLM), 
tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ; và (2) 
sự nhận thức về các YTNC và DHCB ĐQ (câu 
hỏi mở, không có gợi ý). Nhận thức không đạt 
khi kể tên được ít hơn 2 YTNC/DHCB ĐQ, nhận 
thức đạt khi kể tên được từ 2 YTNC/DHCB ĐQ 
trở lên(6). Trước khi tiến hành thu thập số liệu tại 
thực địa, chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều 
tra thử tại một cụm trên 30 người tham gia để 
thử nghiệm bộ công cụ và thực hành các hoạt 
động thu thập số liệu. 
Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 
3.1 và được xử lý bằng phần mềm Stata 14.0. 
Thống kê mô tả (tần số, tỉ lệ %) và thống kê phân 
tích (phép kiểm Chi bình phương và phép kiểm 
chính xác của Fisher) được sử dụng để phân tích 
số liệu. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y 
Dược TP. HCM, số 25/HĐĐĐ, ngày 6/01/2020. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu 
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (n=464) 
Đặc điểm Tần số (%) 
Giới tính 
Nam 145 (31,2) 
Nữ 319 (68,8) 
Tuổi 
54,03 ±14,92 
18-44 123 (26,5) 
45-64 226 (48,7) 
≥ 65 115 (24,8) 
Dân tộc 
Kinh 359 (77,4) 
Dân tộc thiểu số 105 (22,6) 
Trình độ học 
vấn 
Từ tiểu học trở xuống 127 (27,4) 
Trung học cơ sở 161 (34,7) 
Trung học phổ thông 90 (19,4) 
Đại học/Cao đẳng trở lên 86 (18,5) 
Nghề nghiệp 
Nông dân 161 (34,7) 
Nội trợ 86 (18,5) 
Công nhân viên chức 58 (12,5) 
Buôn bán 33 (7,1) 
Nghề khác* 126 (27,2) 
Tình trạng hôn 
nhân 
Chưa kết hôn 30 (6,5) 
Đã kết hôn** 434 (93,5) 
Tiền sử tăng huyết áp 144 (31,0) 
Tiền sử đái tháo đường 45 (9,7) 
Tiền sử rối loạn lipid máu 78 (16,8) 
Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ 86 (18,5) 
**ã kt hôn gm ang sng vi v/chng, 
ly hôn/ly thân, góa 
*Nghề khác bao gồm nghỉ hưu, bốc vác, nghề không cố định 
Nhận thức của người dân về các yếu tố nguy cơ 
và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ 
Hơn 2/3 số người tham gia nghiên cứu có 
nhận thức không đạt về các YTNC ĐQ và hơn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 97
3/4 có nhận thức không đạt về DHCB ĐQ. Trong 
đó, có đến 42,9% không biết bất kỳ YTNC nào và 
47% không biết bất kỳ DHCB nào. 
Bảng 2: Tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy 
cơ và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ (n=464) 
Nhận thức 
Yếu tố nguy cơ Dấu hiệu cảnh báo 
Tần số Tỉ lệ (%) Tần số Tỉ lệ (%) 
Không đạt 315 67,9 353 76,1 
Đạt 149 32,1 111 23,9 
Đạt: kể được từ 2 yếu tố nguy cơ/dấu hiệu cảnh báo trở lên; 
Không đạt: kể tên được ít hơn 2 yếu tố nguy cơ/dấu hiệu 
cảnh báo 
Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức không đạt 
về yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo ĐQ 
Kết quả Bảng 3 cho thấy: 
- Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận 
thức không đạt về các YTNC ĐQ bao gồm: 
Tuổi (≥65), dân tộc thiểu số, trình độ học vấn 
(trình độ học vấn càng thấp, tỉ lệ nhân thức 
không đạt càng cao) và nghề nghiệp mà đặc 
biệt là nghề nông dân. 
- Không có sự khác biệt giữa những người 
có tiền sử tăng huyết áp, đái tháo đường, rối 
loạn lipid máu, tiền sử gia đình có người thân 
bị đột quỵ về sự nhận thức không đạt YTNC 
với những người không có những tiền sử y 
khoa nói trên. 
Kết quả Bảng 4 cho thấy: 
- Một số yếu tố liên quan đến tỉ lệ nhận thức 
không đạt về DHCB ĐQ bao gồm: Tuổi (tuổi 
càng cao, tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), 
trình độ học vấn (trình độ học vấn càng thấp, tỉ 
lệ nhận thức không đạt càng cao), nghề nghiệp 
(nghề nông dân có tỉ lệ nhận thức không đạt cao 
nhất) và tiền sử gia đình có người thân bị đột 
quỵ (có tỉ lệ nhận thức không đạt thấp hơn). 
- Không có sự khác biệt giữa những người có 
tiền sử tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn 
lipid máu về sự nhận thức không đạt về DHCB 
ĐQ với những người không có những tiền sử y 
khoa nói trên. 
Bảng 3: Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ của đột quỵ 
Đặc điểm OR KTC 95% P 
Tuổi 
≥ 65 1,83 1,05 - 3,2 0,033 
45 – 64 1,30 0,82 - 2,05 0,267 
18 – 44 1 Tham chiếu 
Giới tính 
Nữ 1,17 0,77 - 1,74 0,461 
Nam 1 Tham chiếu 
Dân tộc 
Dân tộc thiểu số 5,34 2,76 - 10,32 <0,001 
Dân tộc kinh 1 Tham chiếu 
Trình độ học vấn 
Từ tiểu học trở xuống 21,84 9,98 - 47,8 <0,001 
Trung học cơ sở 4,03 2,31 - 7,01 <0,001 
Trung học phổ thông 3,38 1,82 - 6,28 <0,001 
Đại học/Cao đẳng trở lên 1 Tham chiếu 
Nghề nghiệp 
Nông dân 19,11 9,06 - 40,28 <0,001 
Buôn bán 5,73 2,26 - 14,56 <0,001 
Nội trợ 5,08 2,44 - 10,6 <0,001 
Nghề khác 5,53 2,76 - 11,07 <0,001 
Công nhân viên chức 1 Tham chiếu 
Tình trạng hôn nhân 
Đã kết hôn 1,94 0,92 - 4,08 0,082 
Chưa kết hôn 1 Tham chiếu 
Tiền sử tăng huyết áp 
Có 0,74 0,49 - 1,11 0,147 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử đái tháo đường 
Có 0,62 0,33 - 2,25 0,129 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử rối loạn lipid máu 
Có 0,67 0,40 - 1,10 0,115 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ Có 0,86 0,52-1,41 0,542 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 98
Không 1 Tham chiếu 
OR: Odds Ratio (tỷ suất chênh) KTC: khoảng tin cậy 
Bảng 4: Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức không đạt về dấu hiệu cảnh báo đột quỵ 
Đặc điểm OR KTC 95% P 
Tuổi 
≥ 65 4,53 2,28 - 8,97 < 0,001 
45 – 64 1,88 1,17 - 3,04 0,01 
18 – 44 1 Tham chiếu 
Giới tính 
Nữ 0,91 0,57 - 1,45 0,692 
Nam 1 Tham chiếu 
Dân tộc 
Dân tộc thiểu số 1,56 0,90 - 2,70 0,114 
Dân tộc kinh 1 Tham chiếu 
Trình độ học vấn 
Từ tiểu học trở xuống 9,62 4,72 - 19,63 < 0,001 
Trung học cơ sở 4,6 2,58 - 8,19 < 0,001 
Trung học phổ thông 3,39 1,79 - 6,43 < 0,001 
Đại học/Cao đẳng trở lên 1 Tham chiếu 
Nghề nghiệp 
Nông dân 7,9 4,03 - 15,49 < 0,001 
Buôn bán 3,5 1,41 - 8,69 0,007 
Nội trợ 7,82 3,59 - 17,03 <0,001 
Nghề khác 5,85 2,96 - 11,56 < 0,001 
Công nhân viên chức 1 Tham chiếu 
Tình trạng hôn nhân 
Đã kết hôn 0,55 0,25 - 1,19 0,129 
Chưa kết hôn 1 Tham chiếu 
Tiền sử tăng huyết áp 
Có 1,02 0,65 -1,63 0,916 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử đái tháo đường 
Có 1,79 0,78 - 4,34 0,171 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử rối loạn lipid máu 
Có 1,06 0,59-1,89 0,848 
Không 1 Tham chiếu 
Tiền sử gia đình có người thân bị đột quỵ 
Có 0,58 0,35-0,97 0,039 
Không 1 Tham chiếu 
OR: Odds Ratio (tỷ suất chênh) KTC: khoảng tin cậy 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ nhận thức không đạt về các yếu tố nguy cơ 
và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ 
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân tuổi 
trưởng thành trong cộng đồng có nhận thức 
không đạt của về các YTNC ĐQ ở mức cao 
(67,9%). Con số này tương đương với nghiên 
cứu của Sadeghi-Hokmabadi E ở Iran (64,9%) và 
thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của 
Olorukooba AA ở Nigeria (78,2%)(6,8). Tuy nhiên, 
kết quả của chúng tôi lại cao hơn so với nghiên 
cứu của Blades LL tại Mỹ (55%) và nghiên cứu 
Lý Thị Kim Thương tại Gia Lai (51,3%)(5,9). Bên 
cạnh đó, tỉ lệ người không có khả năng kể được 
tên bất kỳ một YTNC đột quỵ nào cũng ở mức 
cao (42,9%). Kết quả này cao hơn nghiên cứu của 
Chhabra M tại Ấn Độ (28,85%)(10), Blades LL tại 
Mỹ (21%)(9) và nghiên cứu của Sadeghi-
Hokmabadi E ở Iran (20,2%)(8). Không biết gì về 
YTNC ĐQ là vấn đề đáng báo động vì hơn 90% 
gánh nặng đột quỵ là do các YTNC có thể thay 
đổi được, nhưng lại không được nhận thức để 
thay đổi(4). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ nhận 
thức không đạt về DHCB ĐQ là 76,1%, kết quả 
này tương tự nghiên cứu của Pandian JD ở Ấn 
Độ (77,6%) và cao hơn nhiều so với nghiên cứu 
của Blades LL tại Mỹ (30%)(7,9). Bên cạnh đó, tỉ 
lệ người dân không biết bất kỳ DHCB ĐQ nào 
trong nghiên cứu này cũng cao hơn rất nhiều 
(47%) so với nghiên cứu của Pandian JD 
(23%)(7) và của Blades LL (38%)(9). Tỉ lệ nhận 
thức không đạt này cũng cao hơn so với 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 99
nghiên cứu của Lý Thị Kim Thương với tỉ lệ 
nhận thức không đạt là 58,8% và tỉ lệ người 
dân không biết về DHCB là 32,6%(5). 
Như vậy, nghiên cứu này chỉ ra rằng sự 
nhận thức của người dân trưởng thành trong 
cộng đồng về các YTNC và DHCB ĐQ còn thấp. 
Rõ ràng, đây là một thách thức không nhỏ đối 
với nỗ lực dự phòng ĐQ(11). Và đó cũng là rào 
cản lớn trong việc điều trị ĐQ mà tác giả 
Nguyễn Thị Trà Giang và Lê Văn Tuấn đã cho 
thấy việc chậm trễ trong nhập viện của bệnh 
nhân ĐQ liên quan đến nhận biết về triệu chứng 
ban đầu của ĐQ(3). Do đó, cần có những biện 
pháp thích hợp nhằm nâng cao nhận thức của 
người dân về các YTNC, DHCB ĐQ và cách 
kiểm soát các YTNC này cũng như cách xử trí 
khi gặp các DHCB ĐQ này để góp phần làm 
giảm gánh nặng ĐQ cho gia đình và xã hội. 
Một số yếu tố liên quan với tỉ lệ nhận thức 
không đạt về các yếu tố nguy cơ và dấu hiệu 
cảnh báo đột quỵ 
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nhận thức không 
đạt về YTNC ĐQ cao gấp gần 2 lần ở nhóm 
người ≥65 tuổi so với nhóm từ 18-45 tuổi, ở 
người dân tộc thiểu số cao gấp 5 lần so với người 
Kinh và những người có trình độ học vấn càng 
thấp thì tỉ lệ nhận thức không đạt về YTNC ĐQ 
càng cao. Kết luận tương cũng được chỉ ra trong 
nghiên cứu tổng quan của Jones và cs khi có đến 
70% người ≥65 tuổi có nhận thức không đạt về 
các YTNC ĐQ, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 
<65 tuổi (50%). Thiếu nhận thức về YTNC ĐQ 
cao hơn ở người Mỹ gốc Phi và những người có 
trình độ học vấn thấp(6). Bên cạnh đó, theo Lý Thị 
Kim Thương và cs thì những người có trình độ 
trung học phổ thông có nhận thức không đạt về 
YTNC ĐQ cao hơn những người có trình độ từ 
cao đẳng trở lên với OR=38,73 (KTC 95%; p 
<0,001)(5). Thêm vào đó, kết quả của chúng tôi 
cũng chỉ ra tỉ lệ nhận thức không đạt về các 
YTNC ĐQ cũng rất cao ở nhóm người dân làm 
nghề nông. Điều này có lẽ do trong nghiên cứu 
này những người làm nghề nông đa số là những 
người có trình độ học vấn thấp. 
Càng lớn tuổi, tỉ lệ mắc đột quỵ càng cao và 
từ 55 tuổi trở lên nguy cơ mắc đột quỵ tăng gấp 
đôi sau mỗi 10 năm(4). Nhưng trong nghiên cứu 
của chúng tôi và nhiều nghiên cứu khác cũng 
cho thấy, sự nhận thức về các YTNC ĐQ ở nhóm 
tuổi ≥65 lại rất hạn chế. Đây có thể là yếu tố góp 
phần làm cho tỉ lệ đột quỵ vốn đã cao ở nhóm 
đối tượng này ngày càng cao hơn. Tỉ lệ nhận 
thức không đạt cao về YTNC ĐQ của nhóm 
người có trình độ học vấn thấp và dân tộc thiểu 
số trong nghiên cứu của chúng tôi cũng là vấn 
đề đáng được quan tâm bởi Đắk Lắk là một tỉnh 
thuộc khu vực Tây Nguyên nơi có tới 35% là 
người đồng bào dân tộc thiểu số, tỉ lệ dân số từ 
15 tuổi trở lên chưa bao giờ được đi học đứng 
hàng thứ 2 so với cả nước(11). 
Vì thế, chúng ta cần có những giải pháp phù 
hợp và thiết thực nhất nhằm nâng cao nhận thức 
của người lớn tuổi, những người là đồng bào 
dân tộc thiểu số và những người có trình độ học 
vấn thấp về các YTNC ĐQ để góp phần làm 
giảm gánh nặng gây ra bởi các bệnh không lây 
nhiễm nói chung và ĐQ nói riêng. 
Về vấn đề nhận thức các DHCB ĐQ, nghiên 
cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng, có mối liên 
quan với tỉ lệ nhận thức không đạt với tuổi (tuổi 
càng cao thì tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), 
trình độ học vấn (trình độ học vấn càng thấp thì 
tỉ lệ nhận thức không đạt càng cao), nghề nghiệp 
(những người làm nghề nông có tỉ lệ nhận thức 
không đạt cao nhất) và tiền sử gia đình có người 
thân bị đột quỵ (có tỉ lệ nhận thức không đạt 
thấp hơn). 
Tỉ lệ nhận thức không đạt về DHCB ĐQ cao 
hơn ở những người ≥65 tuổi so với những người 
ở độ tuổi 45-64 cũng được báo cáo trong nghiên 
cứu của Blades LL và tổng quan của Jones SP(2,9). 
Vấn đề này cần được chú ý hơn nữa với mong 
muốn cải thiện kết cục điều trị ĐQ vì khả năng 
mắc ĐQ ở những người càng lớn tuổi thì càng 
cao. Họ cần được cung cấp những kiến thức cần 
thiết về những DHCB ĐQ, cách xử trí khi gặp 
những triệu chứng đó xảy ra với chính họ hoặc 
những người xung quanh họ. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Thần Kinh - Da Liễu 100 
Trình độ học vấn trên 12 năm có sự nhận 
thức về DHCB ĐQ tốt hơn được Blades LL 
chứng minh sau khi đưa vào phân tích hồi quy 
đa biến(9), kết quả tương đồng với tác giả Lý Thị 
Kim Thương(5). Cũng giống như lý do đã nêu 
trên sự nhận thức về các YTNC ĐQ, những 
người làm nghề nông có tỉ lệ nhận thức không 
đạt về DHCB ĐQ cao hơn so với những nhóm 
còn lại. Như vậy những chiến lược làm gia tăng 
nhận thức về DHCB ĐQ cuả những người có 
trình độ học vấn thấp cần phải lưu ý đến khả 
năng tiếp nhận thông tin cũng như hình thức 
truyền tải thông tin đến nhóm đối tượng này. 
Trong nghiên cứu này, những người có tiền 
sử gia đình có người thân bị đột quỵ thì có tỉ lệ 
nhận thức không đạt về DHCB ĐQ thấp hơn 
nhóm còn lại, điều này có thể được lý giải do họ 
đã được chứng kiến hay quan tâm hơn về những 
triệu chứng mà người thân của họ đã trải qua. 
Tuy nhiên, tỉ lệ chung nhận thức không đạt về 
DHCB ĐQ vẫn là rất cao. 
Điều đáng quan tâm trong nghiên cứu của 
chúng tôi là tỉ lệ nhận thức không đạt cả về 
YTNC và DHCB ĐQ ở những người có tiền sử y 
khoa như THA, ĐTĐ, RLLM không có sự khác 
biệt gì so với những người không có tiền sử trên. 
THA, RLLM, ĐTĐ là 3 trong 10 YTNC quan 
trọng của ĐQ được xác định trong nghiên cứu 
INTERSTROKE với nguy cơ quy trách gây ra 
ĐQ trong dân số lần lượt là 47,9%, 26,8%, 
3,9%(11). Điều này lại một lần nữa nhấn mạnh 
rằng những người có nguy cơ cao bị đột quỵ lại 
thiếu nhận thức về YTNC cũng như DHCB ĐQ, 
phải chăng đó là một trong những lý do mà tỉ lệ 
mắc ĐQ vẫn chưa được kiểm soát tốt. Đây là 
điều đáng phải quan tâm hơn nữa trong công tác 
dự phòng ĐQ, bên cạnh các chiến lược tầm soát 
các YTNC của ĐQ cần phải có các chiến lược 
nâng cao nhận thức của những người có nguy cơ 
cao này về tầm quan trọng của các YTNC cũng 
như việc kiểm soát các YTNC đó. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ nhận thức không đạt về yếu tố nguy cơ 
và dấu hiệu cảnh báo đột quỵ của người dân 
tuổi trưởng thành ở mức cao. Các yếu tố có liên 
quan đến cả hai tỉ lệ nhận thức không đạt này là 
tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp. Riêng 
nhận thức về yếu tố nguy cơ, còn có liên quan 
với nhóm dân tộc, và đối với nhận thức về dấu 
hiệu cảnh báo, còn có liên quan với tiền sử gia 
đình có người thân bị đột quỵ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Feigin VL, Norrving B, Mensah GA (2017). Primary 
prevention of cardiovascular disease through population-wide 
motivational strategies: insights from using smartphones in 
stroke prevention. BMJ Global Health, 2(2):e000306. 
2. Jones SP, Jenkinson AJ, Leathley MJ, Watkins CL (2010). Stroke 
knowledge and awareness: an integrative review of the 
evidence. Age Ageing, 39(1):11-22. 
3. Nguyễn Thị Trà Giang, Lê Văn Tuấn (2018). Các yếu tố ảnh 
hưởng đến thời gian nhập viện và kết cục lâm sàng của bệnh 
nhân nhồi máu não cấp tại bệnh viện Đa khoa Đắk Lắk. Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):262-268. 
4. Donkor ES (2018). Stroke in the 21(st) Century: A Snapshot of 
the Burden, Epidemiology, and Quality of Life. Stroke Res Treat, 
doi: 10.1155/2018/3238165. 
5. Lý Thị Kim Thương, Đinh Hữu Hùng, Phạm Thị Hoàng Yến 
(2019). Nhận thức về các yếu tố nguy cơ và biểu hiện cảnh báo 
đột quỵ não của người dân tại phường Tây Sơn Thành phố 
Pleiku tỉnh Gia Lai năm 2016. Nghiên cứu Khoa học, 2(1):82-90. 
6. Olorukooba AA, Mohammed Y, Yahaya SS, et al (2018). 
Awareness of stroke and knowledge of its risk factors among 
respondents in Shika community, Kaduna State, Nigeria. 
Archives of Medicine and Surgery, 3(1):30-34. 
7. Pandian JD, Jaison A, Deepak SS, et al (2005). Public awareness 
of warning symptoms, risk factors, and treatment of stroke in 
northwest India. Stroke, 36(3):644-648. 
8. Sadeghi-Hokmabadi E, Vahdati SS, Rikhtegar R, Ghasempour 
K, Rezabakhsh A (2019). Public knowledge of people visiting 
Imam Reza hospital regarding stroke symptoms and risk 
factors. BMC Emerg Med, 19(1):36. 
9. Blades LL, Oser CS, Dietrich DW, et al (2005). Rural 
community knowledge of stroke warning signs and risk 
factors. Prev Chronic Dis, 2(2):A14. 
10. Chhabra M, Gudi SK, Rashid M, et al (2019). Assessment of 
Knowledge on Risk Factors, Warning Signs, and Early 
Treatment Approaches of Stroke among Community Adults in 
North India: A Telephone Interview Survey. J Neurosci Rural 
Pract, 10(3):417-422. 
11. Kalkonde YV, Alladi S, et al (2018). Stroke Prevention 
Strategies in the Developing World. Stroke, 49(12):3092-3097. 
12. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung Ương (2019). 
Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019-Tổ chức thực hiện và kết 
quả sơ bộ. Nhà xuất bản Thống kê, pp.45-6. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_ve_cac_yeu_to_nguy_co_va_dau_hieu_canh_bao_dot_quy.pdf