Nhận thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng

Mục tiêu: Mô tả nhận thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng (EBP: Evidence-Based Practice), xác định một số yếu tố liên quan đến nhận thức về EBP. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang thông qua bộ câu hỏi EBPQ (Evidence-Based Practice Questionnaire). Tổng cộng có 173 điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định và Bệnh viện Đa khoa khu vực Cam Ranh tham gia vào nghiên cứu. Kết quả: Điều dưỡng có kiến thức (ĐTB = 3,66; SD = 0,53) và kỹ năng thực hành EBP (ĐTB = 3,59; SD = 0,80) ở mức độ trung bình và có thái độ tiêu cực về EBP (ĐTB = 3,81; SD = 0,81). Điều dưỡng có kinh nghiệm làm việc >10 năm sẽ có điểm số trung bình cao hơn điều dưỡng có kinh nghiệm làm việc ≤5 năm về cả ba mặt thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng EBP. Các rào cản được tìm thấy có ảnh hưởng đến việc áp dụng EBP trong chăm sóc điều dưỡng bao gồm thiếu thời gian, tốn kém chi phí, kiến thức hạn chế/ không đầy đủ và thiếu điều dưỡng có kiến thức nghiên cứu trong môi trường làm việc. Kết luận: Cần đưa ra những chiến lược phù hợp nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, kỹ năng EBP cho điều dưỡng qua đó khuyến khích họ áp dụng các bằng chứng mới nhất trong chăm sóc người bệnh, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế

pdf 10 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng

Nhận thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng
148
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
 NHẬN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ THỰC HÀNH DỰA VÀO BẰNG CHỨNG
Nguyễn Thị Bích Trâm1, Trần Thị Hoàng Oanh2, Bùi Thị Diệu3
1Trường Đại học Duy Tân, 
2Bệnh viện Đa khoa khu vực Cam Ranh,
 3Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả nhận thức của điều 
dưỡng về thực hành dựa vào bằng chứng 
(EBP: Evidence-Based Practice), xác định 
một số yếu tố liên quan đến nhận thức về 
EBP. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô 
tả cắt ngang thông qua bộ câu hỏi EBPQ 
(Evidence-Based Practice Questionnaire). 
Tổng cộng có 173 điều dưỡng tại Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Bình Định và Bệnh viện 
Đa khoa khu vực Cam Ranh tham gia vào 
nghiên cứu. Kết quả: Điều dưỡng có kiến 
thức (ĐTB = 3,66; SD = 0,53) và kỹ năng 
thực hành EBP (ĐTB = 3,59; SD = 0,80) ở 
mức độ trung bình và có thái độ tiêu cực về 
EBP (ĐTB = 3,81; SD = 0,81). Điều dưỡng 
có kinh nghiệm làm việc >10 năm sẽ có 
điểm số trung bình cao hơn điều dưỡng có 
kinh nghiệm làm việc ≤5 năm về cả ba mặt 
thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng 
EBP. Các rào cản được tìm thấy có ảnh 
hưởng đến việc áp dụng EBP trong chăm 
sóc điều dưỡng bao gồm thiếu thời gian, 
tốn kém chi phí, kiến thức hạn chế/ không 
đầy đủ và thiếu điều dưỡng có kiến thức 
nghiên cứu trong môi trường làm việc. Kết 
luận: Cần đưa ra những chiến lược phù 
hợp nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, kỹ 
năng EBP cho điều dưỡng qua đó khuyến 
khích họ áp dụng các bằng chứng mới nhất 
trong chăm sóc người bệnh, góp phần nâng 
cao chất lượng dịch vụ y tế. 
Từ khóa: Thực hành dựa vào bằng 
chứng, điều dưỡng, kiến thức, thái độ, kỹ 
năng, rào cản.
PERCEPTION OF EVIDENCE-BASED PRACTICE AMONG NURSES
ABSTRACT
Objective: This paper was a report 
of a study to describe nurses’ practice, 
attitudes, knowledge/ skills about 
Evidence-Based Practice (EBP) and 
identify the related factors to nurses’ 
cognitive on EBP. Method: This study, 
conducted in 2020, had a descriptive, 
cross-sectional survey design using the 
Evidence-Based Practice Questionnaire 
(EBPQ). A total of 173 nurses participated 
in this study. Results: The findings 
showed that participants had medium 
scores on practice (mean = 3.59; SD 
= 0.80) and knowledge/ skills (mean 
= 3.66; SD = 0.53), and nurses had 
negative attitudes towards EBP (mean = 
3.81; SD = 0.81). Statistically significant 
differences were found for practice, 
attitudes, and knowledge/ skills between 
those with more than 10-years’ experience 
compared to those with less than or 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Bích Trâm
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 02/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
149
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
equal to 5-years’ experience. They cited 
barriers to implementing EBP were time, 
cost, limited knowledge of research, and 
no nurses with research knowledge in a 
practice setting. Conclusion: The findings 
suggested that it is necessary to devise 
appropriate strategies to improve EBP 
practice, attitudes, and knowledge/ skills 
for nurses. This would also encourage 
them to apply the latest evidence to 
patient care and contribute to improving 
the quality of medical services .
Keywords: Evidence-based practice, 
nurses, knowledge, attitudes, practice, 
barriers.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
EBP là cách tiếp cận giải quyết vấn 
đề trong việc đưa ra quyết định lâm sàng 
kết hợp tìm kiếm bằng chứng tốt nhất và 
mới nhất, đồng thời kết hợp với kiến thức 
và kinh nghiệm của thầy thuốc cũng như 
tham khảo nguyện vọng của người bệnh 
trong môi trường chăm sóc [1]. Trong lịch 
sử y học hiện đại đã có quá nhiều trường 
hợp sai lầm vì điều trị không dựa vào bằng 
chứng khoa học. Do đó, sự nhấn mạnh 
đối với việc EBP được xác định là rất 
quan trọng trong việc thúc đẩy tính hiệu 
quả trong công tác chăm sóc sức khỏe [2]. 
EBP gồm năm bước: một là phát hiện tình 
huống/ vấn đề và chuyển thành câu hỏi 
có thể trả lời được, hai là tìm kiếm bằng 
chứng liên quan, ba là đánh giá nghiêm 
túc những kết quả nghiên cứu được lựa 
chọn, bốn là tích hợp bằng chứng với kiến 
thức và kinh nghiệm lâm sàng và các ưu 
tiên của người bệnh để áp dụng giải quyết 
tình huống đó, và năm là đánh giá hiệu 
quả việc dùng bằng chứng tiến hành các 
bước từ một đến bốn để cải thiện cho lần 
sau [3]. 
Thực hành dựa vào bằng chứng chẳng 
những mang lại lợi ích, hiệu quả trong điều 
trị, chăm sóc người bệnh, không những 
vậy EBP còn làm cho người thực hành 
nhận thấy tầm quan trọng, ý nghĩa của 
nghiên cứu khoa học để cung cấp bằng 
chứng cho cải thiện thực hành lâm sàng 
nói chung và thực hành điều dưỡng nói 
riêng từ đó sẽ hăng hái hơn, có động lực 
rõ rệt hơn để thực hiện nghiên cứu khoa 
học [1]. Trong nghiên cứu của Olade (n = 
106), 23,6% điều dưỡng có thái độ tích cực 
đối với nghiên cứu, điều này có mối tương 
quan (có ý nghĩa thống kê) với loại hình 
văn bằng đào tạo điều dưỡng. Điều này 
củng cố giả định rằng việc đưa nghiên cứu 
vào giáo dục điều dưỡng là điều cần thiết 
để phát triển thái độ tích cực về nghiên 
cứu. Kết quả cũng cho thấy mối tương 
quan có ý nghĩa thống kê giữa nhu cầu 
EBP với thái độ đối với EBP. Mặc dù chỉ 
có 21% điều dưỡng báo cáo hiện tại có sử 
dụng nghiên cứu nhưng 76% mong muốn 
sử dụng nghiên cứu nhiều hơn nếu các rào 
cản được giảm thiểu [4].
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Phạm 
Thị Oanh và cộng sự (2018) cho thấy điều 
dưỡng có thái độ tích cực về EBP (5,08 ± 
1,34) tuy nhiên kiến thức và kĩ năng về EBP 
của họ mới đạt ở mức độ trung bình (4,00 ± 
1,23) và (3,79 ± 1,39). Bên cạnh đó, trình độ 
chuyên môn có mối tương quan tỷ lệ thuận 
với kiến thức EBP (r = 0,053; p < 0,1), với 
thái độ về EBP (r = 0,112; p < 0,05), và với 
kỹ năng EBP (r = 0,125; p < 0,01) [5]. Từ 
kết quả nghiên cứu này cho thấy cần có 
chiến lược phù hợp nhằm nâng cao kiến 
thức, thái độ, kĩ năng EBP cho điều dưỡng, 
từ đó góp phần nâng cao chất lượng dịch 
vụ chăm sóc cho người bệnh [5]. 
Tuy nhiên, việc triển khai và áp dụng 
EBP còn nhiều thách thức và đáng tiếc, 
chỉ có một tỷ lệ nhỏ điều dưỡng thực hành 
trong khuôn khổ EBP [2], [6]. Các tài liệu 
cho thấy rằng nhiều thực hành điều dưỡng 
hiện nay dựa trên kinh nghiệm, truyền 
thống và trực giác thay vì dựa trên tính xác 
150
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
thực của khoa học [7]. Hơn nữa, mặc dù 
ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu điều 
dưỡng và nhiều nghiên cứu được thiết 
kế để cải thiện thực hành lâm sàng ở cấp 
độ điều dưỡng nhưng nhiều điều dưỡng 
vẫn còn thiếu kiến thức, kỹ năng và thiếu 
hiểu biết về nghiên cứu. Thông thường, 
các điều dưỡng thiếu kỹ năng sử dụng 
máy tính khiến cho việc thực hiện các yêu 
cầu khoa học trở nên vô cùng khó khăn 
[4]. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Đặng 
Thị Minh Phượng và cộng sự về các yếu 
tố liên quan đến việc áp dụng chứng cứ 
trong thực hành chăm sóc của cử nhân 
điều dưỡng đã chỉ ra các yếu tố cản trở 
bao gồm: hạn chế khả năng đọc hiểu tiếng 
Anh, không đủ thời gian để tìm kiếm các 
báo cáo nghiên cứu và không đủ thẩm 
quyền để thay đổi thực hành [8].
Ngoài ra rào cản còn xuất phát từ phía 
các nhà tổ chức quản lý chăm sóc sức 
khỏe. Đó là khi các tổ chức chăm sóc sức 
khỏe có xu hướng đặt ra các mục tiêu ưu 
tiên phát triển khác cao hơn như ưu tiên 
phát triển nguồn tài chính hay tuyển dụng 
nhân viên thay vì ưu tiên cho nghiên cứu 
[7]. Các rào cản khác cũng được báo cáo 
bao gồm thiếu sự quan tâm của các nhà 
quản lý, thiếu các nhà tư vấn và thiếu sự 
hỗ trợ về nghiên cứu [4]. Rycroft-Malone 
và cộng sự đã mô tả ba yếu tố ảnh hưởng 
đến việc áp dụng EBP của một tổ chức, 
bao gồm: bằng chứng, bối cảnh và sự 
thuận lợi. Bằng chứng bao gồm nghiên 
cứu, kinh nghiệm lâm sàng và trải nghiệm 
của bệnh nhân. Các yếu tố bối cảnh bao 
gồm văn hóa nơi làm việc, lãnh đạo và quá 
trình đánh giá. Yếu tố thứ ba, sự thuận lợi 
liên quan đến việc phù hợp giữa mục đích, 
vai trò, kỹ năng của EBP với nhu cầu thực 
tiễn [9].
Cơ sở lý thuyết (Theoretical 
framework)
Khung lý thuyết được chọn để hướng 
dẫn cho nghiên cứu này là lý thuyết khuếch 
tán đổi mới của Rogers (Rogers’s theory 
of Diffusion of Innovations) [10]. Lý thuyết 
khuếch tán đổi mới tìm kiếm lời giải thích 
làm thế nào và tại sao ý tưởng mới và thực 
nghiệm lại được chấp nhận với các mốc thời 
gian có khả năng lan truyền ra trong thời 
gian dài [10]. Khi đưa ra quyết định có thực 
hiện đổi mới hay không, mỗi cá nhân sẽ đi 
qua một quá trình theo thời gian gồm năm 
giai đoạn: giai đoạn nhận thức (knowledge), 
giai đoạn thuyết phục (persuasion), giai 
đoạn quyết định (decision), giai đoạn 
thực hiện (implementation) và giai đoạn 
xác nhận (confirmation) [10]. Mô hình này 
chứng minh rằng việc áp dụng một đổi mới 
là một quá trình với nhiều giai đoạn.
Áp dụng khung lý thuyết này trong EBP 
chỉ ra rằng, kết quả nghiên cứu hoặc bằng 
chứng đại diện cho sự đổi mới, còn bài báo 
cáo hoặc phần trình bày nghiên cứu chính 
là cách lan truyền kết quả hoặc bằng chứng 
vào trong hệ thống chăm sóc sức khỏe. Kết 
quả nghiên cứu của Ting-Ting Lee cũng 
chỉ ra rằng mô hình lý thuyết khuếch tán 
đổi mới của Rogers có thể mô tả chính xác 
hành vi của điều dưỡng trong quá trình 
áp dụng các đổi mới tại nơi làm việc [11]. 
Quá trình ra quyết định đổi mới của mô 
hình Rogers cung cấp một lý do hợp lý cho 
nghiên cứu này, vì việc tìm hiểu kiến thức 
và thái độ của các điều dưỡng là rất quan 
trọng để xác định sự sẵn sàng chấp nhận 
EBP của họ.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu 
công bố về kiến thức, kĩ năng và thái độ của 
điều dưỡng về EBP, cũng như ít có nghiên 
cứu báo cáo về các rào cản ngăn cản việc 
áp dụng EBP trong thực hành điều dưỡng. 
Vì vậy, tác giả tiến hành nghiên cứu này 
nhằm các mục tiêu sau đây: Mô tả nhận 
thức của điều dưỡng về thực hành dựa vào 
bằng chứng và xác định một số yếu tố liên 
quan đến nhận thức về EBP.
151
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phương pháp chọn 
mẫu
Đối tượng nghiên cứu là điều dưỡng 
đang công tác tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Bình Định và Bệnh viện Đa khoa khu vực 
Cam Ranh. Số liệu được thu thập từ ngày 
08 tháng 7 đến ngày 05 tháng 8 năm 2020 
bằng bộ câu hỏi tự điền. 
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: 
Phương pháp chọn mẫu thuận tiện đã 
được áp dụng trong nghiên cứu này. Tiêu 
chuẩn chọn mẫu bao gồm: Những người 
tham gia có bằng cấp đào tạo chuyên 
ngành điều dưỡng từ trình độ Cao đẳng 
trở lên và hoàn thành tất cả câu hỏi bắt 
buộc trong bảng câu hỏi. Sau khi loại trừ 
các đối tượng không thỏa mãn tiêu chuẩn 
chọn mẫu thì tổng số mẫu cuối cùng đi vào 
nghiên cứu là 173. Nghiên cứu đã được 
phê duyệt bởi Hội đồng Y Sinh Dược Đại 
học Duy Tân. Sự đồng thuận tham gia 
nghiên cứu của người tham gia được ngụ 
ý thông qua việc người tham gia gửi lại 
bảng câu hỏi sau khi hoàn thành. Sự tham 
gia là tự nguyện và người tham gia hoàn 
toàn được ẩn danh.
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cắt ngang sử 
dụng bộ câu hỏi tự đánh giá được áp dụng 
trong nghiên cứu này. 
2.3. Công cụ nghiên cứu
Bộ câu hỏi thực hành dựa vào bằng 
chứng EBPQ do Upton và cộng sự phát 
triển được sử dụng trong nghiên cứu này 
[12]. EBPQ gồm 24 câu hỏi, dùng thang 
điểm Likert từ 1 đến 7 để đo lường nhận 
thức của nhân viên y tế về EBP với 3 nội 
dung thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ 
năng. Phần thực hành được đánh giá bằng 
sáu câu hỏi, phần kiến thức/ kỹ năng được 
đánh giá bằng 14 câu hỏi và được chia ở 
các mức độ: thấp (1,0 ≤ ĐTB < 3,0), trung 
bình (3,0 ≤ ĐTB < 5,0) và cao (5,0 ≤ ĐTB 
≤ 7,0). Bốn câu hỏi còn lại dùng để đánh 
giá thái độ về EBP, thái độ được coi là tích 
cực khi điểm trung bình thái độ từ 4,0 trở 
lên [12].
Trong nghiên cứu của Upton, độ tin cậy 
Cronbach’s α là 0,87 cho toàn bộ bảng câu 
hỏi. Cronbach’s α cho ba phần của EBPQ 
lần lượt như sau: 0,85 cho thực hành; 0,79 
cho thái độ và 0,91 cho kiến thức [12]. Đối 
với nghiên cứu này, nghiên cứu thí điểm 
đã được thực hiện trên 30 điều dưỡng để 
xác định mức độ tin cậy và thay đổi bộ câu 
hỏi sao cho phù hợp. Từ đó tìm ra hệ số 
Cronbach’s α được dùng để ước lượng độ 
tin cậy của bộ công cụ nghiên cứu với kết 
quả lần lượt là: 0,97 (toàn bộ bảng câu hỏi); 
0,92 (thực hành); 0,81 (thái độ) và 0,94 
(kiến thức/ kỹ năng). 
Ngoài ra bảng câu hỏi còn có thêm 
năm câu hỏi bổ sung để thu thập thông 
tin của người tham gia bao gồm: Tuổi, 
số năm kinh nghiệm làm điều dưỡng, 
văn bằng cao nhất hiện có trong lĩnh vực 
điều dưỡng, khoa đang làm việc và có 
đọc hoặc đăng ký tạp chí chuyên ngành 
điều dưỡng nào hay không. Điều dưỡng 
cũng được yêu cầu trả lời một số câu hỏi 
khác như: Bạn có hiểu khái niệm của cụm 
“Thực hành dựa vào bằng chứng” hay 
không?, theo bạn, các nguyên nhân nào 
dưới đây là rào cản dẫn đến hạn chế việc 
thực hành dựa vào bằng chứng. Đồng 
thời, điều dưỡng được yêu cầu viết ra 
các bình luận về các rào cản và cảm nhận 
khác khi áp dụng bằng chứng vào trong 
thực hành.
2.4. Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm 
thống kê SPSS 18.0 với độ tin cậy alpha 
0,05. Thống kê mô tả được sử dụng để mô 
tả thông tin cá nhân cũng như nhận thức 
đối với thực hành, thái độ, kiến thức/ kỹ 
152
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
năng của điều dưỡng về EBP. Phân tích 
đa phương sai (MANOVA: Multivariate 
analysis of variance) được sử dụng để đo 
lường các biến của trình độ chuyên môn và 
số năm kinh nghiệm làm điều dưỡng với 
ba phần của bộ câu hỏi EBPQ. Trong đó, 
phép phân tích phương sai ANOVA cũng 
được sử dụng và bằng phương pháp kiểm 
định Bonferroni mỗi ANOVA được kiểm tra 
ở mức 0,016. Ngoài ra, phép phân tích sâu 
(Post hoc) cũng được sử dụng để tiến hành 
so sánh theo cặp. Cuối cùng, phương pháp 
phân tích nội dung (Content analysis) được 
sử dụng để phân tích các câu trả lời cho 
câu hỏi về các rào cản đối với việc EBP.
3. KẾT QUẢ
3.1. Thông tin người tham gia
Nghiên cứu thu về được 187 phiếu trả 
lời, tuy nhiên có 14 người tham gia bị loại 
khỏi nghiên cứu do không thỏa mãn tiêu 
chuẩn chọn mẫu (bằng Trung cấp điều 
dưỡng). Do đó, tổng cộng có 173 điều 
dưỡng tham gia vào nghiên cứu. 
Bảng 1. Thông tin người tham gia (n = 173)
Trình độ chuyên môn
Số năm kinh 
nghiệm
Cao 
đẳng
Đại 
học Tổng (%)
≤5 42 35 77 (44,5)
>5 - 10 60 8 68 (39,3)
>10 12 16 28 (16,2)
Tổng (%) 114 (65,9)
59 
(34,1)
173
(100)
Bảng 1 cho thấy thông tin về trình độ 
chuyên môn và số năm kinh nghiệm làm 
điều dưỡng của người tham gia. Đa số 
phiếu khảo sát được trả lại bởi những 
người tham gia có số năm kinh nghiệm 
làm điều dưỡng từ ≤5 năm (44,5%) và 
những người tham gia trong độ tuổi từ 21 
– 30 (49,1%). Đa số điều dưỡng tham gia 
nghiên cứu đến từ khoa Nhi (9,2%), theo 
sau là khoa ... ba nhóm kinh nghiệm làm việc (≤5, >5-10, và >10 năm) đối với ba biến phụ 
thuộc – điểm số thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê được tìm thấy giữa ba nhóm kinh nghiệm làm việc và các biến phụ thuộc, Wilks’s Ʌ = 
0,87; F(6, 336) = 3,97; p = 0,001, η2 = 0,07. Bảng 2 chứa giá trị trung bình và SD của các 
biến phụ thuộc đối với từng nhóm kinh nghiệm làm việc.
Bảng 3. Sự biến thiên về ảnh hưởng của số năm kinh nghiệm làm việc đối với 
thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng EBP
Các phần của 
bảng câu hỏi EBPQ
Sum of 
squares d.f.
Mean 
square F-ratio Alpha
Thực hành 13,45 2 6,73 11,70 0,000
Thái độ 7,88 2 3,94 6,33 0,002
Kiến thức/ kỹ năng 4,61 2 2,30 8,95 0,000
Tiếp theo, phép phân tích phương sai (ANOVA) được thực hiện cho từng biến phụ 
thuộc (bảng 3). Bằng phương pháp kiểm định Bonferroni, mỗi ANOVA được kiểm tra ở 
mức 0,016. Kết quả cho thấy phân tích phương sai về từng điểm số của thực hành, thái 
độ, kiến thức/ kỹ năng đối với từng nhóm kinh nghiệm làm việc đều có ý nghĩa thống kê 
lần lượt tương ứng là F(2, 170) = 11,70, p < 0,001, η2 = 0,12; F(2, 170) = 6,33, p = 0,002, 
η2 = 0,07; F(2, 170) = 8,95, p < 0,001, η2 = 0,10.
154
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 4. So sánh theo cặp của ba nhóm kinh nghiệm làm việc
Số năm 
kinh nghiệm
 làm điều dưỡng
Mean Difference
Thực hành Thái độ Kiến thức / kỹ năng
p Mean Difference p
Mean 
Difference p
≤5
>5 - 10 -0,28 0,085 -0,18 0,541 -0,12 0,514
>10 -0,80 0.000* -0,62 0,001* -0,47 0,000*
>5 - 10
≤5 0,28 0,085 0,18 0,541 0,12 0,514
>10 -0,52 0.007 -0,44 0,040 -0,36 0,006
>10
≤5 0,80 0,000* 0,62 0,001* 0,47 0,000*
>5 – 10 0,52 0,007 0,44 0,040 0,36 0,006
* p < 0,005
Phép phân tích sâu (Post hoc) trong ANOVA đã được sử dụng cho các điểm số trung 
bình để tiến hành so sánh theo cặp nhằm tìm ra số năm kinh nghiệm nào trong ba nhóm 
kinh nghiệm trên ảnh hưởng đến thực hành, thái độ, kiến thức/ kỹ năng EBP mạnh mẽ 
nhất. Mỗi so sánh theo cặp được kiểm tra ở mức p = 0,005 (p = 0,016 / 3). Kết quả cho 
thấy nhóm kinh nghiệm >10 năm có điểm số cao hơn (có ý nghĩa thống kê) về cả ba mặt 
thực hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng đối với nhóm kinh nghiệm ≤5 năm. Ngoài ra 
không có sự khác biệt nào khác có ý nghĩa thống kê được tìm thấy (Bảng 4).
3.4. Các rào cản của việc thực hành dựa vào bằng chứng
Có 47 (27,2%) người tham gia cho biết 
họ không hoàn toàn hiểu về khái niệm thực 
hành dựa vào bằng chứng. Đối với câu hỏi 
về các rào cản của EBP, những người tham 
gia được thông báo rằng họ có thể chọn 
nhiều hơn một câu trả lời. Họ cũng có thể 
đưa ra ý kiến cá nhân. Tổng cộng có 284 
phản hồi được ghi nhận cho sáu tùy chọn: 
Không có rào cản nào tồn tại (1,4%), không 
có thời gian (35,6%), quá tốn kém chi phí 
(31,3%), không có kiến thức/ hạn chế kiến 
thức về nghiên cứu (23,6%), không có điều 
dưỡng nào có kiến thức về nghiên cứu 
trong môi trường làm việc (8,1%) và điều 
dưỡng trưởng không quan tâm về việc thực 
hành dựa vào bằng chứng (0%).
Ngoài ra, người tham gia còn đưa ra các 
ý kiến bổ sung được xem là các rào cản có 
thể gây cản trở EBP. Các cản trở này được 
phân tích và thuộc ba nhóm nội dung sau: 
rào cản từ người điều dưỡng, rào cản từ 
phía quản lý và rào cản từ người bệnh. Cụ 
thể, rào cản xuất phát từ người điều dưỡng 
như “điều dưỡng ngại thực hiện nghiên 
cứu khoa học”, “điều dưỡng chưa thực 
sự quan tâm đến thực hành dựa vào bằng 
chứng”. Rào cản từ phía nhà quản lý thể 
hiện qua việc “điều dưỡng chưa được tạo 
điều kiện để nghiên cứu” hay “điều dưỡng 
gặp khó khăn trong việc thuyết phục lãnh 
đạo thực hiện”. Rào cản xuất phát từ người 
bệnh bao gồm “người bệnh quá đông” hay 
“người bệnh không hợp tác”. Bên cạnh đó, 
có một số điều dưỡng đã đưa ra các nhận 
thức về tính hữu ích của EBP. Cụ thể có 
bảy bình luận liên quan đến việc áp dụng: 
“nên triển khai thực hành dựa vào bằng 
chứng trong lĩnh vực điều dưỡng” hay “cần 
có sự hỗ trợ trong nghiên cứu khoa học 
điều dưỡng”.
Tóm lại, thiếu thời gian, tốn kém chi 
phí và kiến thức nghiên cứu hạn chế hoặc 
không đầy đủ là những rào cản được trích 
dẫn thường xuyên nhất trong việc áp dụng 
EBP. Một số ít người tham gia báo cáo 
những rào cản khác liên quan đến sự sẵn 
có của các điều dưỡng có kiến thức nghiên 
cứu trong môi trường làm việc.
155
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm 
mô tả nhận thức của điều dưỡng đối với 
thực hành, thái độ, kiến thức/kỹ năng về 
EBP, xác định mức độ ảnh hưởng của trình 
độ chuyên môn và số năm kinh nghiệm làm 
điều dưỡng đối với thực hành, thái độ, kiến 
thức/ kỹ năng về EBP, cũng như tìm ra một 
số rào cản ngăn cản việc áp dụng EBP.
Nhìn chung, những người tham gia tự 
đánh giá bản thân ở mức độ trung bình đối 
với thực hành và kiến thức/ kỹ năng về EBP. 
Kết quả này tương đồng với kết quả của một 
số nghiên cứu trước đây [5], [13], [14]. Tuy 
nhiên, các điều dưỡng lại có thái độ tiêu cực 
về EBP. Điều này cho thấy, hiện nay việc áp 
dụng EBP trong chăm sóc điều dưỡng còn 
mang tính thụ động và các điều dưỡng chưa 
thực sự hiểu rõ các khái niệm liên quan đến 
EBP và nghiên cứu cũng như chưa hiểu rõ 
những lợi ích mà EBP sẽ mang lại trong quá 
trình chăm sóc người bệnh. Bên cạnh đó, gần 
ba phần tư người tham gia báo cáo không 
đọc hoặc đăng ký bất cứ tạp chí chuyên 
ngành điều dưỡng nào, điều này phần nào 
ảnh hưởng đến thái độ của điều dưỡng về 
EBP dẫn đến hạn chế về mặt thực hành cũng 
như kiến thức/ kỹ năng đối với EBP.
Nghiên cứu của AbuRuz và cộng sự chỉ 
ra rằng trình độ chuyên môn có mối liên 
quan với kiến thức, thái độ và kỹ năng EBP 
của điều dưỡng [13]. Ngược lại, nghiên cứu 
này không tìm thấy sự khác biệt giữa trình 
độ chuyên môn với nhận thức của điều 
dưỡng về EBP. Điều này có nghĩa rằng một 
điều dưỡng dù tốt nghiệp trình độ Cao đẳng 
hay Đại học đều có thể có đủ khả năng áp 
dụng EBP giống nhau. Điều này có thể do 
hiện nay cả chương trình Cao đẳng và Đại 
học điều dưỡng đều đưa môn nghiên cứu 
khoa học vào giảng dạy và học tập. Môn 
nghiên cứu khoa học giúp sinh viên tập làm 
quen với một số đề tài nghiên cứu quy mô 
nhỏ, sẽ được tiếp cận với những vấn đề 
cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ, và tập 
cách tư duy để tự nghiên cứu giải quyết 
một vấn đề. Từ đó làm cơ sở nền móng cho 
việc thúc đẩy khả năng tra cứu để chọn lựa 
chứng cứ cho một tình huống cụ thể phục 
vụ công tác chăm sóc điều dưỡng sau này.
Khác với trình độ chuyên môn, số năm 
kinh nghiệm làm điều dưỡng có ảnh hưởng 
đến nhận thức của điều dưỡng đối với thực 
hành, thái độ, kiến thức/ kỹ năng về EBP. 
Cụ thể cho thấy những điều dưỡng có kinh 
nghiệm làm việc trên 10 năm sẽ có điểm số 
trung bình cao hơn những điều dưỡng có 
kinh nghiệm làm việc từ 5 năm trở xuống 
về cả ba mặt thực hành, thái độ và kiến 
thức/ kỹ năng đối với EBP. Nghiên cứu của 
Koehn cũng chỉ ra rằng điều dưỡng có số 
năm công tác nhiều hơn có kiến thức và kỹ 
năng EBP cao hơn [15]. Điều này có thể 
do những điều dưỡng có kinh nghiệm làm 
việc lâu hơn thì thời gian trải nghiệm của 
họ trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh sẽ 
nhiều hơn, qua đó họ có thể rút ra nhiều 
bài học cũng như biết được nhiều cách 
thức làm việc phù hợp hơn. Ngoài ra, kinh 
nghiệm làm việc chính là những kỹ năng 
mềm, kỹ năng kiến thức chuyên môn và kể 
cả kỹ năng tìm kiếm nguồn thông tin hoặc 
bằng chứng phù hợp được điều dưỡng vận 
dụng vào trong quá trình chăm sóc thực tế.
Có rất nhiều rào cản ảnh hưởng đến việc 
áp dụng EBP trong chăm sóc điều dưỡng, 
trong đó thiếu thời gian là rào cản được 
trích dẫn thường xuyên nhất. Dường như 
điều dưỡng không có đủ thời gian để tìm 
kiếm các bằng chứng khoa học mới nhất và 
áp dụng vào thực tế lâm sàng vì số lượng 
người bệnh luôn trong tình trạng quá tải. 
Do vậy, điều dưỡng thường không có đủ 
thời gian để tiến hành các nghiên cứu và 
EBP chưa phải là ưu tiên hàng đầu của các 
điều dưỡng. Nhiều nghiên cứu trên thế giới 
cũng đã chỉ ra rằng áp lực công việc quá tải 
và thiếu thời gian là các yếu tố chính ảnh 
hưởng đến kỹ năng EBP của điều dưỡng 
[14], [15]. Bên cạnh đó, chi phí và kiến thức 
nghiên cứu hạn chế/ không đầy đủ cũng là 
những rào cản cản trở việc áp dụng EBP. 
Đồng thời việc thiếu hụt các điều dưỡng 
có kiến thức nghiên cứu trong môi trường 
làm việc cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng 
EBP chung của toàn đơn vị.
156
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy điều dưỡng có kiến 
thức và kỹ năng thực hành EBP ở mức độ 
trung bình và có thái độ tiêu cực về EBP. 
Trình độ chuyên môn không ảnh hưởng 
đến các nhận thức của điều dưỡng về 
EBP. Tuy nhiên, số năm kinh nghiệm làm 
điều dưỡng có ảnh hưởng đến nhận thức 
của điều dưỡng đối với thực hành, thái độ, 
kiến thức/ kỹ năng về EBP. Cụ thể cho thấy 
những điều dưỡng có kinh nghiệm làm việc 
trên 10 năm sẽ có điểm số trung bình cao 
hơn những điều dưỡng có kinh nghiệm làm 
việc từ 5 năm trở xuống về cả ba mặt thực 
hành, thái độ và kiến thức/ kỹ năng đối với 
EBP. Các rào cản được tìm thấy có ảnh 
hưởng đến việc áp dụng EBP trong chăm 
sóc điều dưỡng bao gồm thiếu thời gian, 
tốn kém chi phí, kiến thức nghiên cứu hạn/ 
không đầy đủ và thiếu các điều dưỡng có 
kiến thức nghiên cứu trong môi trường làm 
việc.
Để tăng cường năng lực EBP cho điều 
dưỡng, các bệnh viện cần phối hợp với các 
trường Đại học Y Dược thường xuyên tổ 
chức các chương trình đào tạo hoặc các 
khóa tập huấn, hội thảo và hội nghị về EBP. 
Đồng thời, các nghiên cứu nhằm đánh giá 
hiệu quả của những chương trình can thiệp 
này cũng cần được tiến hành. Ngoài ra, 
cần có giải pháp phù hợp để khuyến khích 
điều dưỡng tích cực nghiên cứu khoa học 
qua đó nâng cao kiến thức, thái độ và kỹ 
năng EBP. Thể hiện qua việc bệnh viện đặt 
ra những định hướng, khuyến khích hằng 
năm, luôn quán triệt sâu sắc nhiệm vụ 
nghiên cứu khoa học, chú trọng nâng cao 
chất lượng và hiệu quả của các công trình 
nghiên cứu khoa học và khơi dậy năng 
lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ điều 
dưỡng viên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Melnyk BM, Fineout-Overholt E. 
Evidence-based practice in nursing & 
healthcare: A guide to best practice: 
Lippincott Williams & Wilkins; 2011.
2. Shirey MR. Evidence-based practice: 
how nurse leaders can facilitate innovation. 
Nursing administration quarterly. 
2006;30(3):252-65.
3. Mehrdad N, Joolaee S, Joulaee A, 
Bahrani N, research m. Nursing faculties’ 
knowledge and attitude on evidence-
based practice. Iranian journal of nursing. 
2012;17(7):506.
4. Olade RA. Evidence-based practice 
and research utilization activities among 
rural nurses. Journal of Nursing Scholarship. 
2004;36(3):220-5.
5. Oanh PT, Hoa LT, Kiên HT. Kiến thức, 
thái độ và kĩ năng của điều dưỡng về thực 
hành dựa trên bằng chứng (EBP). Tạp chí 
Khoa học & Công nghệ. 2018;187(11):157-
62.
6. Gerrish K, Ashworth P, Lacey A, 
Bailey J, Cooke J, Kendall S, et al. Factors 
influencing the development of evidence-
based practice: a research tool. Journal of 
advanced nursing. 2007;57(3):328-38.
7. Pravikoff DS, Tanner AB, Pierce ST. 
Readiness of US Nurses for Evidence-
Based Practice: Many don’t understand 
or value research and have had little or no 
training to help them find evidence on which 
to base their practice. AJN The American 
Journal of Nursing. 2005;105(9):40-51.
8. Phượng ĐTM, Hà NTT, Parker C. Các 
yếu tố liên quan đến việc áp dụng chứng cứ 
trong thực hành chăm sóc bệnh nhi của cử 
nhân điều dưỡng. 2017.
9. Rycroft-Malone J, Gill H, Kitson 
A. Getting evidence into practice: 
ingredients for change. Nursing Standard. 
2002;16(37):38.
10. Rogers E. Diffusion of innovations, 
5th edn Tampa. FL: Free Press. 2003.
11. Lee T-T. Nurses’ adoption of 
technology: application of Rogers’ 
innovation-diffusion model. Applied Nursing 
Research. 2004;17(4):231-8.
12. Upton D, Upton P. Nurses’ attitudes 
to evidence-based practice: impact of a 
157
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
national policy. British Journal of Nursing. 
2005;14(5):284-8.
13. AbuRuz ME, Hayeah HA, Al-Dweik G, Al-
Akash HY. Knowledge, attitudes, and practice 
about evidence-based practice: a Jordanian 
study. Health Science Journal. 2017;11(2):1.
14. Majid S, Foo S, Luyt B, Zhang X, 
Theng Y-L, Chang Y-K, et al. Adopting 
evidence-based practice in clinical decision 
making: nurses’ perceptions, knowledge, 
and barriers. Journal of the Medical Library 
Association: JMLA. 2011;99(3):229.
15. Koehn ML, Lehman K. Nurses’ 
perceptions of evidence-based nursing 
practice. Journal of advanced nursing. 
2008;62(2):209-15.
KHẢO SÁT SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH NỘI TRÚ VỀ TÌNH HÌNH CUNG CẤP 
SUẤT ĂN CỦA KHOA DINH DƯỠNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2018
Nguyễn Thị Phương Thảo1, Bùi Thị Lan1
Nguyễn Thị Kim Liên1, Mai Thị Liên1, Nguyễn Thị Khuyên1
1Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả sự hài lòng của người 
bệnh ăn suất ăn dinh dưỡng về thái độ 
phục vụ của nhân viên Khoa Dinh dưỡng, 
Mô tả sự hài lòng của người bệnh ăn suất 
ăn dinh dưỡng về thời gian giao thức ăn, 
Mô tả sự hài lòng của người bệnh ăn suất 
ăn dinh dưỡng về các suất ăn. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt 
ngang 1000 người bệnh điều trị nội trú tại 
các khoa lâm sàng trong bệnh viện theo bộ 
phiếu thu thập thông tin và suất ăn do khoa 
Dinh dưỡng cung cấp. Kết quả: Tỷ lệ người 
bệnh hài lòng nhất với giá tiền suất ăn với 
96%; hài lòng với nhân viên phát suất ăn là 
89,2%; hài lòng với suất ăn là 78,9%; hài 
lòng về vấn đề vệ sinh khay đựng là 77,8%; 
75,9% người bệnh tiếp tục sử dụng dịch vụ; 
73% người bệnh hài lòng về món ăn; 68,2% 
người bệnh hài lòng về thời gian giao suất 
ăn. Kết luận: Đa số người bệnh hài lòng về 
sự cung cấp thức ăn của Khoa dinh dưỡng. 
Bệnh viện cần tiếp tục phát huy làm tăng sự 
hài lòng của người bệnh về chế độ ăn hợp 
lý, đặc biệt về thời gian giao suất ăn, các 
món ăn và vấn đề vệ sinh khay đựng.
Từ khóa: Người bệnh, hồ sơ bệnh án, 
chế độ ăn.
SURVEY OF SATISFACTION OF AIDING DISEASE ON THE SUPPLY OF FOOD 
RATIO OF THAI BINH MULTIPLAYER HOSPITAL DEPARTMENT IN 2018
ABSTRACT
Objective: To describe the satisfaction of 
patients who ate nutritious meals about the 
service attitude of staff of the Department 
of Nutrition, Describe the satisfaction of 
patients who ate nutritious meals on time 
of delivery, Description patient satisfaction 
with nutritious meals on meals. Method: 
Cross-describe 1000 patientsinpatient 
treatment at clinical departments in the 
hospital according to the information 
collection form and meals provided by the 
Nutrition Department. Results: Percentage 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Phương Thảo
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 09/10/2020
Ngày duyệt bài: 23/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_cua_dieu_duong_ve_thuc_hanh_dua_vao_bang_chung.pdf