Nhân một trường hợp viêm tụy cấp do sỏi tụy được điều trị khỏi bằng nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)
Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) là kỹ thuật khảo sát sự lưu thông của ống dẫn
mật lớn và ống tụy. Thủ thuật có thể kết hợp giải quyết các nguyên nhân gây tắc đường
dẫn mật tụy như là một phương pháp điều trị nguyên nhân đạt kết quả cao và ít biến
chướng. Ca lâm sàng: Bệnh nhân Trần Thị Ái M. 17 tuổi, quê Bà Rịa- Vũng Tàu. Năm
9 tuổi (2006) bị viêm tụy cấp do sỏi ống tụy được phẫu thuật dẫn lưu nang giả tụy. Năm
2013, bệnh tái phát điều trị 3 lần tại BV Chợ Rẫy, bệnh ổn định tuy nguyên nhân vẫn
chưa được loại bỏ. Tháng 9 năm 2014, bệnh tái phát được nhận vào khoa A3, BV 175
với bệnh cảnh điển hình của viêm tụy cấp. Tại đây, kết quả chẩn đoán hình ảnh (SA và
CT) cho thấy bệnh nhân có 2 sỏi ống tụy kính thước khoảng 15mm kèm theo giãn ống
tụy cũng khoảng 15mm. Chúng tôi đã mạnh dạn làm ERCP, mở rộng cơ Oddi, dùng
Baloon kéo được 1 khối sỏi dạng “cơm nát” ra sau đó tiếp tục hồi sức nội khoa. Qúa
trình theo dõi tiếp cho thấy, lâm sàng dần ổn định bệnh nhân khỏi bệnh, và điều ngạc
nhiên là sau đó SA và CT không còn phát hiện sỏi trong ống tụy (mà đáng ra phải còn 1
viên khá lớn). Kết luận: Viêm tụy cấp do sỏi tụy rất nặng và khó điều trị tuy nhiên, nếu
có giãn ống tụy thì nên được cân nhắc để giải quyết triệt để bằng ERCP
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp viêm tụy cấp do sỏi tụy được điều trị khỏi bằng nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 70 TÓM TẮT: Nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP) là kỹ thuật khảo sát sự lưu thông của ống dẫn mật lớn và ống tụy. Thủ thuật có thể kết hợp giải quyết các nguyên nhân gây tắc đường dẫn mật tụy như là một phương pháp điều trị nguyên nhân đạt kết quả cao và ít biến chướng. Ca lâm sàng: Bệnh nhân Trần Thị Ái M. 17 tuổi, quê Bà Rịa- Vũng Tàu. Năm 9 tuổi (2006) bị viêm tụy cấp do sỏi ống tụy được phẫu thuật dẫn lưu nang giả tụy. Năm 2013, bệnh tái phát điều trị 3 lần tại BV Chợ Rẫy, bệnh ổn định tuy nguyên nhân vẫn chưa được loại bỏ. Tháng 9 năm 2014, bệnh tái phát được nhận vào khoa A3, BV 175 với bệnh cảnh điển hình của viêm tụy cấp. Tại đây, kết quả chẩn đoán hình ảnh (SA và CT) cho thấy bệnh nhân có 2 sỏi ống tụy kính thước khoảng 15mm kèm theo giãn ống tụy cũng khoảng 15mm. Chúng tôi đã mạnh dạn làm ERCP, mở rộng cơ Oddi, dùng Baloon kéo được 1 khối sỏi dạng “cơm nát” ra sau đó tiếp tục hồi sức nội khoa. Qúa trình theo dõi tiếp cho thấy, lâm sàng dần ổn định bệnh nhân khỏi bệnh, và điều ngạc nhiên là sau đó SA và CT không còn phát hiện sỏi trong ống tụy (mà đáng ra phải còn 1 viên khá lớn). Kết luận: Viêm tụy cấp do sỏi tụy rất nặng và khó điều trị tuy nhiên, nếu có giãn ống tụy thì nên được cân nhắc để giải quyết triệt để bằng ERCP. CASE REPORT: ACUTE PANCREATITIS DUE TO PANCREATIC DUC- TAL GRAVEL TREATED BY ENDOSCOPIC REROGRADE CHOLANGIO- PANCREATOGRAPHY (ERCP) SUMMARY: ERCP is a specialized endoscopic procedure allowing evaluating the circulating of main bile and pancreatic ducts. The technique can simultaneously deal with the causes of cholangiopancreatic duct obstruction as a highly effective and low - rate NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP VIÊM TỤY CẤP DO SỎI TỤY ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ KHỎI BẰNG NỘI SOI MẬT TỤY NGƯỢC DÒNG ( ERCP) Trần Hà Hiếu*, Nguyễn Thế Dũng* * Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thế Dũng (Email: [email protected]) Ngày gửi bài: 01/11/2015. Ngày phản biện đánh giá: 12/11/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 71 complication one. Case report: Patient Trần Thị Ái M. 17 year-old, from Bà Rịa – Vũng Tàu province. At age of 9 (2006), the patient was diagnosed of acute pancreatitis and was underwent a pancreatic pseudocyst drainage surgery. In 2013, the disease relapsed and she was treated 3 times at Chợ Rẫy Hospital. Then she was discharged in stable condition, but the underlying cause still had not been removed. In September 2014, the disease had relapsed once again when she was admitted to A3, Military Hospital 175 with the clinical signs of typical acute pancreatitis. The image study (Ultrasound and CT Scan) showed there are 2 pancreatic ductal gravels, with 15 mm maximum diameter, and the pancreatic ductal was dilated 15 mm diameter as well. We decided to perform ERCP, dissected Oddi sphincter, pulled a mass of gravel in shape of “crushed steamed rice” by balloon, and gave patient a internal intensive care after that. On observation, clinical signs were gradually improved and the patient got recovery totally then. The most surprising thing is that on the re check-up with ultrasound and CT Scan we can not identify any pancreatic ductal gravel (instead of there is still a big one). Conclusion: Acute pancreatitis due to pancreatic ductal gravel is severe, and challenging to management. However, if there is dilated pancreatic ductal we should consider to apply ERCP in order to gravel removal effectively. ĐẶT VẤN ĐỀ Sỏi tụy là một trong những nguyên nhân gây tổn thương tụy cấp tính. Là một cấp cứu nội khoa tuy nhiên giải quyết triệt để nguyên nhân do sỏi bằng phương pháp ERCP hay phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi kèm nối tụy ruột còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí, kích thước sỏi, thể trạng bệnh nhân, kinh nghiệm của nhà nội soi hay của phẫu thuật viên. Nhân một ca bệnh khó viêm tụy cấp do sỏi ống tụy được can thiệp ERCP lấy sỏi tại khoa Nội tiêu hóa – Bệnh viện Quân Y 175. Năm 9 tuổi, bệnh nhân vào bệnh viện Nhi Đồng 2 với chẩn đoán sỏi ống tụy biến chứng tạo nang giả tụy được phẫu thuật dẫn lưu, sau phẫu thuật bệnh tạm ổn. Đầu năm 2013 bệnh nhân liên tục xuất hiện các cơn đau bụng âm ỉ dai dẳng, khám tại bệnh viện Chợ Rẫy chẩn đoán viêm tụy cấp do sỏi ống tụy, nhưng không can thiệp ERCP cũng như phẫu thuật mở ống tụy lấy sỏi, chỉ điều trị nội khoa 3 lần bệnh không cải thiện về nhà ăn kém, thể trạng gầy sút, đau dai dẳng liên tục, bệnh nhân không thể sinh hoạt bình thường phải nghỉ học giữa chừng. Đến giữa năm 2014, việc điều trị lâm vào bế tắc, kinh tế cạn kiệt nghe giới thiệu bệnh viện 175 có thể can thiệp lấy sỏi, gia đình quyết định đưa cháu vào khoa Nội tiêu hóa – bệnh viện Quân y 175 điều trị như một cứu cánh cuối cùng. Sau điều trị nội khoa tích cực kết hợp hội chẩn với chuyên khoa ngoại về phương án điều trị, chúng tôi quyết định can thiệp lấy sỏi bằng phương pháp ERCP. Can thiệp khó, chỉ lấy được một phần hệ sỏi mục đích giảm áp lực phần nào trong đường tụy. Tuy nhiên, kết quả đạt được nằm ngoài mong đợi của kíp kỹ thuật, bệnh nhân can thiệp ổn định, 6 tháng tái khám, cháu ăn được, tăng 10kg, hết đau bụng, kết quả chẩn đoán hình ảnh TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 72 cho thấy ống tụy cũng như chức năng tuyến tụy hoàn toàn bình thường, không phát hiện sỏi trong ống tụy, nhân một ca bệnh khó chúng tôi xin trình bày để quý đồng nghiệp cùng tham khảo. GIỚI THIỆU CA BỆNH Bệnh nhân(BN) Trần Thị Ái M., sinh năm 1997, nữ, số bệnh án 1424 736, địa chỉ: Hòa Long- TP.Bà Rịa- Bà Rịa- Vũng Tàu, vào khoa lúc 8h30 ngày 3/9/2014 với chẩn đoán: Đau bụng cấp theo dõi viêm tụy cấp do sỏi ống tụy chính/ Nang giả tụy đã phẫu thuật năm thứ 10. Diễn biến bệnh: Trước vào viện 7 ngày, bệnh nhân thấy đau âm ỉ vùng thượng vị, không lan xuyên, đau tăng về đêm, nằm co hoặc ngồi đỡ đau, không nôn, không sốt, đại tiện bình thường vào khoa trong tình trạng : Tỉnh táo, tiếp xúc tốt, thể trạng gầy (cao: 158cm, nặng: 33kg), da niêm mạc hồng, môi khô, không sốt. Nhịp tim đều 90 lần/ phút, huyết áp 100/60 mmHg. Tần số thở 18 lần/ phút, phổi không ran. Bụng 2 đường mổ ngang liền sẹo, mềm, tham gia nhịp thở tốt, không u cục thành bụng, ấn đau thượng vị, cảm ứng phúc mạc (-). Các xét nghiệm cận lâm sàng: CT bụng: Tụy không to, ống tụy chính giãn (d# 12mm), có hai viên sỏi d# 11mm. Siêu âm bụng: đầu tụy giãn d# 18mm, có cấu trúc tăng âm d#13x15 mm, có bóng cản, thân tụy có cấu trúc trống âm d#10x15mm. Xét nghiệm máu BC 6,9 G/L (N 48,6%); Ca 2,29mmol/l; Glucose 5mmol/l; Bilirubin toàn phần/trực tiếp 8,71µmol/l/2,7µmol/l; Amylase 2016U/L; Lipase 1877,1U/L; GOT 24,5U/L. Xét nghiệm nước tiểu: Am- ylase niệu 15839,5U/L. Diễn biến điều trị: Sau khi chẩn đoán xác định, bệnh nhân được điều trị nội khoa: nhịn ăn, truyền dịch, nuôi dưỡng tĩnh mạch, kháng sinh, giảm đau, giãn cơ, giảm tiết. Sau 10 ngày điều trị toàn trạng cải thiện: không sốt, bụng đỡ đau, không nôn, ăn được cháo. Các xét nghiệm men tụy đều giảm: Amylase 1059U/L, Lipase 1284U/L. Ngày 18/9/14, hội chẩn quyết định ERCP lấy sỏi. Can thiệp khó và phức tạp do nhú Vater phù nề, khi xâm nhập vào đường tụy quan sát ống tụy giữa giãn 12mm trong lòng có hai vật cản quang lớn d# 12mm- 15mm, mở rộng cơ Oddi, dùng Balloon kéo viên sỏi từ ống tụy chính được chất trắng đặc (cơm nát) không luồn được dụng cụ qua viên sỏi còn lại tại ống tụy chính, rút máy, thủ thuật kết thúc an toàn trong 30 phút. Bệnh nhân được chuyển về khoa theo dõi sát, duy trì kháng sinh, giảm tiết, giảm đau. Các xét nghiệm men tụy giảm dần: 20/9/14 Amylase 828U/L, Lipase 460U/L; 26/9/14 Lipase 91,9U/L. Kết quả siêu âm: vùng đầu tụy vẫn còn vài sỏi nhỏ, đường kính lớn nhất 15mm tương ứng hình ảnh quan sát bằng ERCP. Diễn biến sau can thiệp, bệnh nhân sốt nhẹ vài ngày, ăn cháo, bụng đỡ đau. Tuy nhiên, ngày 27/9/14 đột ngột đau bụng quặn cơn vùng thượng vị, không lan xuyên, không tư thế giảm đau, không nôn, không sốt. Khám bụng mềm, ấn thượng vị đau, Blumberg (-). Xét nghiệm: Lipase 619 U/L, Amylase 331 U/L. Siêu âm bụng phát hiện vài viên sỏi ống tụy chính dmax# 6mm. Nhận định: Viêm tụy cấp tái phát tiếp tục điều trị nội TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 73 khoa, sau điều trị bệnh dần ổn định, đỡ đau bụng, ăn ngủ được ngày 30/9/14 bệnh nhân ra viện. Kết quả cuối cùng: 6 tháng sau, tái khám chẩn đoán hình ảnh qua siêu âm bụng và chụp CT bụng ống tụy hoàn toàn không sỏi, xét nghiệm Lipase 8,1U/L; bệnh nhân thể trạng tốt hơn trước nhiều, ăn được, tăng 10kg (43kg), hết đau bụng, tiếp tục quay trở về với lớp học. BÀN LUẬN Nội soi mật tụy ngược dòng có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý đường mật tụy. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây tại các bệnh viện lớn cho thấy tỉ lệ can thiệp ERCP để lấy sỏi tụy vẫn còn hạn chế[1]. Khó khăn thường gặp như biến dạng/hẹp tá tràng do sẹo loét co kéo hoặc u xâm lấn tá tràng, nhú Vater phù nề, chít hẹp hoặc do sỏi thì một đặc điểm quan trọng là giải phẫu ống tụy giữa đoạn đầu và thân tụy là một đoạn gập khúc do đó nếu sỏi ở quá sâu trong ống tụy thì việc đưa được sỏi ra mà hạn chế tối đa tới tổn thương mô tụy cũng là một vấn đề khó. Với ca bệnh này, việc quyết định ERCP lấy sỏi là một lựa chọn khó khăn do thể trạng của bệnh nhân suy kiệt gầy, trải qua phẫu thuật từ nhỏ và có lẽ đó là lý do mà bệnh viện Chợ Rẫy không còn chỉ định gì ngoài điều trị nội khoa. Kết quả can thiệp s là điều mà chúng tôi chưa tiên lượng được do ít kinh nghiệm, khi vào đường tụy bơm thuốc hiện hình thấy sỏi kích thước khá lớn (12-15mm), quyết định mở rộng cơ Oddi dùng Balloon kéo sỏi gần, nhưng không luồn dụng cụ qua vị trí viên sỏi thứ 2 tại ống tụy chính, dừng thủ thuật. Như vậy, trong ống tụy bệnh nhân vẫn còn viên sỏi khá to. Tuy nhiên, tái khám sau 6 tháng qua siêu âm và chụp CT bụng kết quả ống tụy hoàn toàn không còn sỏi đây là một điều rất bất ngờ nằm ngoài dự kiến. Có thể khi mở rộng cơ Oddi nút thắt từ đường tụy vào tá tràng được giải phóng, cùng với áp lực dịch tụy tiết trong ống tụy tăng cao đã đẩy viên sỏi còn lại dần ra khỏi đường tụy được mở rộng. Hiệu quả của một thủ thuật ERCP được đánh giá dựa trên các yếu tố: sự thành công về mặt kỹ thuật, các biến chứng do thủ thuật gây ra và hiệu quả lâm sàng. Về hiệu quả lâm sàng, sau 6 tháng bệnh nhân đã hoàn toàn khỏe mạnh, ăn uống bình thường và tăng cân. Về biến chứng, theo nhiều báo cáo thì biến chứng sau ERCP như: buồn nôn, nôn, bí trung đại tiện, nhiễm khuẩn... trong đó viêm tụy cấp là biến chứng thường gặp nhất [2], [4], [5]. Về tình trạng viêm tụy cấp, một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ viêm tụy sau ERCP là bệnh nhân trẻ tuổi, giới nữ, nồng độ bilirubin bình thường, có tiền sử viêm tụy (bệnh nhân này là một ví dụ điển hình). Một số yếu tố về mặt kỹ thuật cũng được xem là có liên quan đến tình trạng viêm tụy sau ERCP là thời gian thông đường mật kéo dài, thông vào tụy nhiều lần, bơm nhiều thuốc cản quang vào đường tụy, thời gian thủ thuật kéo dài hoặc sử dụng kỹ thuật cắt trước [6]. Để kiểm soát tình trạng viêm tụy xảy ra sau can thiệp, điều cần thiết là phải theo dõi sát tình trạng bụng bệnh nhân, xét nghiệm Amylase máu, nước tiểu kết hợp kháng TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 74 sinh, giảm tiết men tụy. Với bệnh nhân này sau ERCP được điều trị nội khoa: kháng sinh, giảm tiết, giảm đau, xét nghiệm Am- ylase, Lipase máu làm các ngày tiếp theo đều giảm dần và trở về bình thường. Tuy nhiên, tới ngày thứ 10 sau can thiệp, bệnh nhân đột ngột đau quặn cơn vùng thượng vị, không sốt, đi cầu lỏng, không nôn, xét nghiệm Lipase, Amylase máu tăng (Li- pase 618U/L, Amylase 331U/L), siêu âm bụng hình ảnh sỏi trong ống tụy d# 6mm, theo nhận định của chúng tôi thì tình trạng viêm tụy cấp của bệnh nhân xảy ra đột ngột như vậy (trước đó 10 ngày bệnh nhân hoàn toàn bình thường) là do sự bít tắc lưu thông đường tụy, nguyên nhân sỏi sót ở phía trên cùng với việc áp lực dịch tụy tiết trong đường tụy tống đẩy ra. Bởi vậy, tình trạng viêm tụy cấp nhanh chóng được cải thiện 2 ngày tiếp theo bệnh nhân hết đau và xin ra viện. KẾT LUẬN Sỏi ống tụy là một trong những nguyên nhân gây viêm tụy cấp và viêm tụy mãn hay gặp tại nước ta. Việc điều trị vẫn còn nhiều tranh cãi giữa ERCP và phẫu thuật mở tụy lấy sỏi nối tụy ruột. Bệnh viện 175 ứng dụng ERCP điều trị bệnh lý đường mật do nhiều nguyên nhân, nhưng can thiệp lấy sỏi ống tụy còn rất hạn chế. Nhân một trường hợp điển hình bệnh nhân viêm tụy cấp do sỏi ống tụy đã trải qua phẫu thuật không đem lại hiệu quả, chúng tôi điều trị nội khoa tích cực kết hợp với can thiệp ERCP giúp bệnh nhân khỏe mạnh quay trở lại học tập và sinh hoạt bình thường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Đăng Qúy Dũng, Phạm Hữu Tùng và cs, (2012). Đánh giá tình hình nội soi chụp mật tụy ngược dòng tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2011. Tạp chí Y Học Thực Hành số 832+833/2012; tr 34-40. 2. Đỗ Đình Công, Võ Duy Long (2005). Nhận xét về viêm tụy cấp sau nội soi mật tụy ngược dòng. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh Tập 9, Phụ bản của số 1/2005; tr 33-37. 3. Cohen S, Bacon BR, Berlin JA, et al. National Institutes of Health State-of- the-Science Conference Statement: ERCP for diagnosis and therapy, Januar 14-16, 2002. Gastrointest Endosc 2002; 56:803. 4. Testoni PA. Why the incidence of post-ERCP pancreatitis varies consider- ably? Factors affecting the diagnosis and the incidence of this complication. JOP. 2002 Nov;3(6):195-201. 5. Freeman ML, Disario JA, Nelson DB, et al. Risk factors for post-ERCP pan- creatitis: a prospective, multicenter study. Gastrointest Endosc. 2001 Oct;54(4):425- 434. 6. Rochester J.(2007). Risk of Endo- scopic Retrograde Cholangiopancreatog- raphy and Sphincterotomy. Tech Gastroin- test Endosc, 10, pp.14-21.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_viem_tuy_cap_do_soi_tuy_duoc_dieu_tri_kh.pdf

