Nhân một trường hợp u tuyến cận giáp cường tiết parahormone biến chứng viêm tuỵ thể nặng được chẩn đoán và điều trị thành công tại Bệnh viện Quân Y 175
Căn nguyên gây viêm tuỵ thường do rượu, sỏi mật, tăng lipid máu. Tăng calci máu
là nguyên nhân hiếm gặp gây viêm tuỵ, thường là tăng calci máu thứ phát sau cường
tiết parahormon do Adenoma cận giáp. Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi gặp một
trường hợp Adenoma tuyến cận giáp cường tiết parahormon gây tăng calci máu biến
chứng viêm tuỵ thể nặng từ các gợi ý: tăng nồng độ calci máu, loãng xương, sỏi thận, sỏi
tuỵ. Sau phẫu thuật cắt u cận giáp, kết hợp điều trị viêm tuỵ bệnh nhân có đáp ứng tốt.
Chúng tôi trình bày ca bệnh với mục đích để làm rõ hơn về cơ chế bệnh sinh, mối liên
quan giữa cường cận giáp và bệnh lý viêm tuỵ cũng như phương pháp điều trị
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp u tuyến cận giáp cường tiết parahormone biến chứng viêm tuỵ thể nặng được chẩn đoán và điều trị thành công tại Bệnh viện Quân Y 175", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp u tuyến cận giáp cường tiết parahormone biến chứng viêm tuỵ thể nặng được chẩn đoán và điều trị thành công tại Bệnh viện Quân Y 175
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 98 TÓM TẮT Căn nguyên gây viêm tuỵ thường do rượu, sỏi mật, tăng lipid máu. Tăng calci máu là nguyên nhân hiếm gặp gây viêm tuỵ, thường là tăng calci máu thứ phát sau cường tiết parahormon do Adenoma cận giáp. Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi gặp một trường hợp Adenoma tuyến cận giáp cường tiết parahormon gây tăng calci máu biến chứng viêm tuỵ thể nặng từ các gợi ý: tăng nồng độ calci máu, loãng xương, sỏi thận, sỏi tuỵ. Sau phẫu thuật cắt u cận giáp, kết hợp điều trị viêm tuỵ bệnh nhân có đáp ứng tốt. Chúng tôi trình bày ca bệnh với mục đích để làm rõ hơn về cơ chế bệnh sinh, mối liên quan giữa cường cận giáp và bệnh lý viêm tuỵ cũng như phương pháp điều trị. Từ khoá: Viêm tuy, cường cận giáp nguyên phát. A CASE OF SERVERE PANCREATITIS DUE TO PRIMARY HYPERPARATHYROIDISM WHICH DIAGNOSED AND TREATED WELL IN 175 MILITARY HOSPITAL ABSTRACT The cause of pancreatitis are largely dominated by alcohol, gallstones, hyperlipidemia. Hypercalcemia is a rare cause of pancreatitis which usually secondary to the secretion of parathyroid hormone following parathyroid adenoma. We found one case of hypercalcemia due to adenoma hyperparathyroidism with development servere pancreatitis from the suggestions: Hypercalcemia, osteoporosis, kidney stones, NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP U TUYẾN CẬN GIÁP CƯỜNG TIẾT PARAHORMONE BIẾN CHỨNG VIÊM TUỴ THỂ NẶNG ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 175 Trần Văn Hiều1, Trần Hà Hiếu1, Nguyễn Hoàng Khải1, Nguyễn Chí Tùng1, Trương Đình Cẩm1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Trần Văn Hiều ([email protected]) Ngày nhận bài: 3/9/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/9/2017 Ngày bài báo được đăng: 25/12/2017 TRAO ĐỔI HỌC TẬP 99 pancreatic stones. After resection Parathyroid adenoma, pancreatitis treatment, patient has responded well. We present the case for the purpose of further clarifying the pathogenesis of the disease, the association between hyperparathyroidism and pancreatitis as well as the therapeutic approach. Keywords: Pancretitis, primary hyperparathyroidism. MỞ ĐẦU Cường cận giáp nguyên phát là một hội chứng gồm những rối loạn do tuyến cận giáp tăng tiết parahormone, nguyên nhân cường tuyến phần lớn do adenoma, một phần do tăng sinh, hiếm gặp ung thư tuyến. Cường cận giáp nguyên phát là một bệnh hiếm gặp, nữ gặp nhiều hơn nam, tuổi từ 30 - 50. Triệu chứng chính của cường cận giáp phụ thuộc vào hai rối loạn là huỷ xương và tăng calci máu từ đó gây ra hai nhóm triệu chứng: nhóm triệu chứng tại xương (hư xương do cường cận giáp) và nhóm triệu chứng ngoài xương (phần lớn là hậu quả của tình trạng tăng calci máu). Trong nhóm triệu chứng ngoài xương, biểu hiện tại hệ thống tiêu hoá bao gồm những rối loạn chức năng (chán ăn, buồn nôn, khó tiêu, táo bón), loét dạ dày - tá tràng, viêm tuỵ và sỏi tuỵ [1]. Viêm tuỵ là tình trạng tổn thương viêm nhu mô tuỵ do tình trạng hoạt hoá các enzyme tuỵ ngay tại tuyến tuỵ gây ra quá trình tự tiêu. Nguyên nhân gây viêm tuỵ chiếm phần lớn là do rượu và sỏi mật. Cường tuyến cận giáp nguyên phát được xem là nguyên nhân hiếm gặp gây viêm tuỵ cấp hoặc viêm tuỵ mạn, tỉ lệ gặp khoảng 3,6%. Có nhiều cơ chế nhưng tăng calci máu thứ phát do cường tiết parahormone là cơ chế bệnh sinh quan trọng. Sự xuất hiện và mối liên quan tác động giữa hai bệnh lý này còn nhiều bất đồng [2]. Chúng tôi xin trình bày trường hợp lâm sàng viêm tuỵ thể nặng do adenoma tuyến cận giáp gây tăng nồng độ calci máu đã được chẩn đoán và điều trị có hiệu quả tại Khoa Nội tiêu hoá Bệnh viện Quân Y 175. BÁO CÁO CA BỆNH Bệnh nhân nam N. V. D, 56 tuổi, tiền sử phẫu thuật lấy sỏi thận bên phải cách 6 tháng. Vào viện ngày 05/06/2017 do trướng bụng, đau thượng vị, đau cột sống thắt lưng và xương đùi 2 bên. Khi vào viện: Thể trạng gầy (BMI: ), không phù, không sốt. Tim nhịp đều 80 chu kỳ/ phút, huyết áp: 100/ 70 mmHg. Thông khí hai phổi rõ, không có ran. Bụng cổ trướng tự do mức độ vừa, gan - lách không to, ấn thượng vị đau nhẹ, mendel (-), ấn điểm Mayo - robson không đau. Xét nghiệm thường quy: Công thức máu: Hồng cầu: 3,33 T/L; Hemoglobin: 83 g/l; Hematocrit: 26,9%. Bạch cầu: 8,1G/L; Neutro : 75,7%. Sinh hoá máu: Glucose : 6,4 mmol/l. Ure : 12,2 mmol/l; Creatinin: 193 micromol/l. Amylase : 974,3 U/L ; Lipase : 672,2 U/L, GOT: 60 U/L Cholesterol: 3,1 mmol/l; Triglycerid: 1,5 mmol/l; Ca++: 3,53 mmol/l. Protein:68,99 g/l; Albumin: 28,3 g/l. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 100 Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng thấy tổn thương tuỵ (nhu mô thô, teo nhỏ, sỏi tuỵ và hoại tử đầu tuỵ), dịch ổ bụng lượng nhiều, sỏi thận 2 bên. Chọc thăm dò dịch ổ bụng thấy dịch đỏ máu không đông - bản chất dịch tiết với nồng amylase dịch tăng cao (3070 U/L). Nhận định đây là một trường hợp viêm tuỵ mạn đợt cấp thể hoại tử xuất huyết có tăng calci máu - suy thận cấp trước thận - sỏi thận 2 bên. Trước dữ kiện bệnh nhân đau nhức nhiều xương cột sống thắt lưng, xương đùi 2 bên kèm theo tăng calci máu chúng tôi nghĩ tới 2 căn nguyên chính hay gặp là cường tuyến cận giáp và bệnh đa u tuỷ xương. Khảo sát đánh giá tổn thương xương khung chậu, xương cột sống, xương sọ bằng chụp X quang, tuỷ đổ và đo mật độ xương thì chỉ thấy loãng xương vùng cột sống thắt lưng (T-score: - 3,4). Bằng siêu âm chúng tôi phát hiện khối u cận giáp tại thuỳ dưới trái tuyến giáp, định lượng nồng độ parahormone tăng cao trên 8 lần so với giới hạn bình thường cao (416,2 ng/ml). Hội chẩn viện đưa ra chẩn đoán xác định: U tuyến cận giáp cường tiết parahormone biến chứng tổn thương viêm tuỵ mạn đợt cấp thể hoại tử xuất huyết tràn dịch máu ổ bụng, suy thận cấp trước thận - sỏi thận hai bên. Xử trí: bệnh nhân được phẫu thuật cắt u tuyến cận giáp kích thước 2 cm, kết quả phẫu bệnh lý adenoma tuyến. Hậu phẫu, theo dõi nồng độ calci máu thường ở mức giới hạn thấp 1,8 - 1,9 mmol/l, không có biểu hiện cơn tetani, tình trạng viêm tuỵ tiến triển tốt lên, hết tràn dịch máu ổ bụng, bệnh nhân ăn uống được, tăng 10 kg/ 2 tháng. Hình 3. Hình ảnh mô bệnh học Adenoma tuyến cận giáp sau phẫu thuật. Hình 2. Hình ảnh CT cho thấy đầu tuỵ hoại tử, sỏi thận 2 bên. Hình1. Hình ảnh CT cho thấy sỏi tuỵ, nhiều dịch ổ bụng. TRAO ĐỔI HỌC TẬP 101 BÀN LUẬN. Mối liên quan giữa viêm tuỵ và cường cận giáp đã được đề cập từ lâu trong y văn. Viêm tuỵ là bệnh lý rối loạn chức năng ngoại tiết còn cường cận giáp do rối loạn chức năng nội tiết. Có nhiều giả thuyết nhưng chưa thật sự rõ ràng về nguyên nhân mối quan hệ giữa hai bệnh lý này. Một số bệnh nhân cường cận giáp đã được miêu tả có sự lắng đọng calci, vôi hoá hình thành sỏi trong tuyến tuỵ [7]. Trong thực nghiệm, hoại tử cục bộ tuyến tuỵ đã xảy ra bởi thử nghiệm tăng liều hormone tuyến cận giáp [4]. Ca lâm sàng được báo cáo đầu tiên về liên quan giữa cường cận giáp và vôi hoá tuỵ vào năm 1974 bởi Martin và Canseco nhưng cho đến khi Cope và cộng sự thông báo kết quả của họ rằng viêm tuỵ được xem là một biểu hiện khác của cường cận giáp nguyên phát [12]. Sự xuất hiện viêm tụy sau cường cận giáp nguyên phát là hiếm gặp với tỉ lệ trung bình 3,6% (1,5 - 15,3%). Cường cận giáp nguyên phát làm tăng tỉ lệ yếu tố nguy cơ của viêm tuỵ lên 10 – 30 lần [2], và viêm tuỵ thường xảy ra trong giai đoạn tiến triển của bệnh lý cận giáp. Cơ chế của sự xuất hiện viêm tuỵ do cường cận giáp nguyên phát còn nhiều tranh cãi nhưng có thể do tăng calci máu là yếu tố liên quan có ý nghĩa [5]. Shah cho rằng nồng độ calci máu tăng cao trên 1,3 lần so với bình thường là một yếu tố liên quan tới khởi phát viêm tuỵ. Nồng độ calci máu ở những bệnh nhân cường cận giáp có viêm tuỵ cao hơn ở những bệnh nhân chỉ có cường cận giáp đơn thuần và ở những bệnh nhân viêm tuỵ mạn - biến chứng của cường cận giáp thì nồng độ calci máu cũng cao hơn những bệnh nhân viêm tuỵ mạn nguyên nhân do rượu hoặc viêm tuỵ vô căn [11]. Tăng calci máu gây ra một số biến chứng: tăng nồng độ calci trong dịch tuỵ làm tăng quá trình hoạt hoá trypsinogen thành trypsin trong ống tuỵ, hoạt hoá en- zym tuỵ thông qua hệ thống tiêu thể và thuỷ phân, sự kết tủa calci và đông vón với protein làm khởi nguồn viêm tuỵ. Di truyền cũng được cho là một yếu tố nguy cơ. Thật vậy, đột biến gen SPINK1 (Ser- ine Protease Inhibitor Kazal type I) và gen CFTR (Cystic Fibrosis Transmembrane Conductance Regulator) thường phát triển viêm tuỵ cấp ở bệnh nhân cường cận giáp nguyên phát [8]. Trong case lâm sàng chúng tôi gặp, sự tăng nồng độ calci máu dường như là cơ chế chính gây viêm tuỵ, với nồng độ calci máu tăng 1,33 lần so với giá trị bình thường cao. Do vậy, nghiên cứu tìm hiểu những cơ chế khác nhau, mối liên quan giữa cường cận giáp nguyên phát và viêm tuỵ có nhiều dạng khác nhau. Jacob và cộng sự đề xuất bảng phân loại về mối liên quan này ở 4 dạng [9]: Cường cận giáp nguyên phát biểu hiện bởi viêm tuỵ cấp, cường cận giáp nguyên phát biểu lộ bởi sự xuất hiện viêm tuỵ cấp mà không có viêm tuỵ mạn, và cường cận giáp nguyên phát biểu hiện bằng viêm tuỵ cấp có hoặc không có sự lắng đọng calci, hoặc hậu phẫu cường cận giáp nguyên phát biến chứng viêm tuỵ cấp. Hoàn cảnh phát hiện ra mối liên quan này có đến 75% trường hợp là viêm tuỵ cấp [2]. Chẩn đoán viêm tuỵ cấp dựa vào triệu chứng đau bụng cấp, sự tăng nồng độ enzyme tuỵ và chẩn đoán hình ảnh. Viêm tuỵ cấp này có thể xuất hiện trên nền tuyến tuỵ trước đó bình thường hoặc TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 102 hoặc viêm tuỵ mạn. Trong nghiên cứu của Bai và cộng sự tỉ lệ viêm tuỵ mạn chiếm 35,3% [2] còn theo Diallo và cộng sự tỷ lệ này chiếm 40% [6]. Việc chẩn đoán cường cận giáp nguyên phát trong ca bệnh của chúng tôi dựa vào tìm hiểu căn nguyên viêm tuỵ và tăng nồng độ calci máu. Chẩn đoán xác định khi nồng độ PTH tăng trên 8 lần (416,2 pg/ml) so với giá trị bình thường (16 - 65 pg/ml) kết hợp trên siêu âm phát hiện khối u tuyến cận giáp. Nồng độ hor- mone cận giáp ở những bệnh nhân cường cận giáp có xảy ra viêm tuỵ cũng không cao hơn so với những bệnh nhân chỉ cường cận giáp nguyên phát [9] [7]. Định vị tổn thương rối loạn bài tiết được thực hiện bởi khảo sát siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính vùng cổ trước và có thể thực hiện xạ hình tuyến cận giáp với chất đồng vị MIBI - Tc - 99m. Tại Western, một khảo sát được nghiên cứu thấy rằng u tuyến (adenoma) tuyến cận giáp gặp từ 58 - 79% các trường hợp, cường sản chiếm 12 - 21% trong khi u ác tính không ghi nhận trường hợp nào [10]. Việc phát hiện cường cận giáp nguyên phát thường dựa vào các triệu chứng của tăng calci máu. Trong đợt tiến triển bệnh lý tuyến cận giáp, những bệnh nhân biểu hiện viêm tuỵ thường có triệu tổn thương ở những cơ quan khác. Theo đó, sỏi thận chiếm 42-46%, 35% trường hợp sỏi mật [9] [10]. Badhada thấy rằng lắng đọng calci ở thận, sỏi túi mật hoặc sỏi thận, cơn đau quặn thận, bệnh lý xương và rối loạn tâm thần thường gặp ở những bệnh nhân viêm tuỵ mạn do cường cận giáp nguyên phát hơn là những trường hợp viêm tuỵ mạn căn nguyên rượu hoặc nguyên nhân khác [3]. Bệnh nhân của chúng tôi biểu hiện đợt cấp tính của viêm tuỵ mạn đồng thời có biểu hiện sỏi thận và loãng xương. Điều trị viêm tuỵ ở bệnh nhân cường cận giáp nguyên phát trước hết dựa vào nguyên lý điều trị viêm tuỵ cấp nặng. Trong thời gian chưa tiến hành phẫu thuật tuyến cận giáp, cần thiết phải kiểm soát tích cực nồng độ calci máu bằng các biện pháp bù nước điện giải, biphosphonate và nhóm calcitonin. Phẫu thuật tuyến cận giáp cường tiết PTH sẽ làm giảm nồng độ PTH và nồng độ calci sau mổ cần phải theo dõi chặt chẽ. Sau phẫu thuật tuyến cận giáp có thể làm giảm tình trạng viêm tuỵ cấp trong tất cả các trường hợp [10]. Trong viêm tuỵ mạn, việc phẫu thuật cắt tuyến cận giáp cường tiết PTH chỉ làm hết tình trạng viêm cấp tính chứ không thể giải quyết và đảo ngược được tình trạng viêm tuỵ mạn đã xảy ra trước đó [9]. Trong ca bệnh của chúng tôi, sau khi tiến hành phẫu thuật cắt u tuyến tuyến cận giáp thì biểu hiện đợt cấp của viêm tuỵ mạn giảm nhanh chóng, hết tràn dịch máu ổ bụng, enzyme tuỵ giảm. KẾT LUẬN Tổn thương tuỵ xảy ra trong quá trình bệnh lý cường cận giáp là hiếm gặp. Nồng độ calci máu bình thường hoặc cao trong bệnh lý cấp hoặc mạn tính viêm tuỵ đặc biệt những trường hợp viêm tuỵ chưa rõ căn nguyên cần phải được chú ý và thăm dò bổ sung các xét nghiệm về nội tiết học hay các bệnh lý ác tính khác. Khi cường cận giáp có biểu hiện viêm tuỵ kèm theo bên cạnh việc điều chỉnh nồng độ calci huyết, điều trị viêm tuỵ thì phẫu thuật cắt tuyến cận giáp cường tiết cần được tiến hành sớm. TRAO ĐỔI HỌC TẬP 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Ngọc Ân (2002), “Cường cận giáp nguyên phát”, Bệnh thấp khớp, Nhà xuất bản y học, Hà Nội, tr. 38 - 45. 2. Bai H. X., et al. (2012), “The association of primary hyperparathyroidism with pancreatitis”, J Clin Gastroenterol, 46(8), 656-61. 3. Bhadada S. K., et al. (2008), “Chronic pancreatitis in primary hyperparathyroidism: comparison with alcoholic and idiopathic chronic pancreatitis”, J Gastroenterol Hepatol, 23(6), 959-64. 4. Cope O., et al. (1957), “Pancreatitis, a diagnostic clue to hyperparathyroidism”, Ann Surg, 145(6), 857-63. 5. Curto C., et al. (2009), “Pancréatite aiguë et hyperparathyroïdie primaire : étude multicentrique de l’Association francophone de chirurgie endocrinienne”, Journal de Chirurgie, 146(3), 270-274. 6. Diallo I., et al. (2016), “Primary Hyperparathyroidism and Pancreatitis: A Rare Association with Multiple Facets”, Int Sch Res Notices, 2016, 7294274. 7. Faust D. B. (1935), “Pancreatic lithiasis”, Annals of Internal Medicine, 9(5), 625-637. 8. Felderbauer Peter, et al. (2008), “Pancreatitis Risk in Primary Hyperparathyroidism: Relation to Mutations in the SPINK1 Trypsin Inhibitor (N34S) and the Cystic Fibrosis Gene”, Am J Gastroenterol, 103(2), 368- 374. 9. Jacob Jubbin, et al. (2006), “Does hyperparathyroidism cause pancreatitis? A South Indian experience and a review of published work”, Vol. 76, 740-4. 10. Janka-Zires M., et al. (2015), “Decrease in the Prevalence of Pancreatitis Associated with Primary Hyperparathyroidism: Experience at a Tertiary Referral Center”, Rev Invest Clin, 67(3), 177-81. 11. Khoo T. K., et al. (2009), “Acute Pancreatitis in Primary Hyperparathyroidism: A Population- Based Study”, J Clin Endocrinol Metab, 94(6), 2115-8. 12. Sitges-Serra A., et al. (1988), “Pancreatitis and hyperparathyroidism”, Br J Surg, 75(2), 158-60.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_u_tuyen_can_giap_cuong_tiet_parahormone.pdf

