Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87
Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp và
theo nhiều tác giả thì chiếm khoảng 0,3 – 2,5% [1,7,8], kết quả điều trị các tai biến này
phụ thuộc vào thời gian phát hiện, tốt nhất là được chẩn đoán và xử lý ngay trong mổ.
Tuy nhiên những tổn thương này lại thường được phát hiện muộn với biểu hiện dò nước
tiểu hoặc tắc nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân [2,6].
Đây là trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu thuật sản phụ khoa đầu tiên tại bệnh
viện quân y 87 với rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị - tổn thương niệu quản
cả hai bên và triệu chứng bị che lấp bởi tình trạng suy thận cấp kéo dài - nhưng chúng
tôi đã điều trị tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời,
hạn chế được các biến chứng nặng nề cho bệnh nhân
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 113 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP TỔN THƯƠNG NIỆU QUẢN TRONG PHẪU THUẬT SẢN KHOA TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 87 Trần Quốc Việt1, Nguyễn Bá Hành2, Phạm Văn Tiện2 Vũ Đình Ân1, Nguyễn Văn Nghĩa2 (1) Bệnh viện Quân y 175 (2) Bệnh viện Quân y 87 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Nghĩa ([email protected]) Ngày nhận bài: 27/7/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/8/2015 TÓM TẮT Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp và theo nhiều tác giả thì chiếm khoảng 0,3 – 2,5% [1,7,8], kết quả điều trị các tai biến này phụ thuộc vào thời gian phát hiện, tốt nhất là được chẩn đoán và xử lý ngay trong mổ. Tuy nhiên những tổn thương này lại thường được phát hiện muộn với biểu hiện dò nước tiểu hoặc tắc nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân [2,6]. Đây là trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu thuật sản phụ khoa đầu tiên tại bệnh viện quân y 87 với rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị - tổn thương niệu quản cả hai bên và triệu chứng bị che lấp bởi tình trạng suy thận cấp kéo dài - nhưng chúng tôi đã điều trị tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời, hạn chế được các biến chứng nặng nề cho bệnh nhân. Từ khóa: Tổn thương tiết niệu, phẫu thuật sản khoa REPORT A CASE WITH URETERAL INJURY IN GYNECOLOGICAL SURGERY TREATMENT AT 87 MILITARY HOSPITAL SUMMARY Urologic injuries in gynecological surgery is quite common and accounting for about 0.3 to 2.5%, the treatment result of which much relies on detection time; in- surgical diagnose is the best application. However, such injury which is often detected late with leakage of urine or ureteral obstruction, leaving the serious consequences for the patient. This is the first patient suffering from ureteral injury after surgical gynecology at Military hospital 87 with several challenges in diagnosis and treament - ureteral injury both and symptoms blinded by state prolonged acute renal failure - but we really treated aggressively with properly diagnose after 07 days of treatment, timely emergency surgery, which help reduce severe complications for patients. Keywords: Urologic injuries, gynecological surgery TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 114 ĐẶT VẤN ĐỀ Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp chiếm khoảng 0,3 – 2,5% do sự liên quan mật thiết giữa niệu quản đoạn chậu với các cơ quan sinh dục nữ [1,7,8], kết quả điều trị các tai biến này phụ thuộc vào thời gian phát hiện, tốt nhất là chẩn đoán được và xử lý ngay trong mổ. Tuy nhiên những tổn thương này lại thường được phát hiện muộn với biểu hiện dò nước tiểu hoặc tắc nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân [2,6]. Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu thuật sản phụ khoa được phát hiện sau 07 ngày và điều trị thành công tại Bệnh viện quân y 87, chúng tôi xin trình bày để đồng nghiệp cùng tham khảo. GIỚI THIỆU CA BỆNH Bệnh nhân (BN) Đỗ Thùy D., sinh năm 1980, nữ, số bệnh án 2912, địa chỉ: Nha Trang – Khánh Hòa, vào Bệnh viện quân y 87 cấp cứu lúc 0h05 ngày 17/03/2015. Chẩn đoán khi vào viện: Thai con lần II – 39 tuần chuyển dạ/ Vết mổ cũ. Diễn biến bệnh: Khoảng 22h ngày 16 tháng 03 bệnh nhân thấy đau bụng, ra dịch hồng âm đạo, chuyển đến Bệnh viên quan y 87 cấp cứu trong tình trạng: tỉnh táo, tiếp xúc được, không sốt; nhịp tim đều 80 chu kỳ/phút, huyết áp 110/60mmHg; Tự thở tần số 18 lần/phút, nghe phổi không có rales, SpO2 100%; Khám sản khoa: BCTC/VB 35/100cm, ngôi đầu thế (T), tim thai 142l/p, TV: AH, AĐ bình thường, cổ tử cung mở > 1cm, có dịch hồng theo găng. Bệnh nhân được hoàn thành các xét nghiệm tiền phẫu: Công thức máu, MĐ- MC, đông máu toàn bộ, sinh hóa, điện tim, Xquang tim phổi, siêu âm, kết quả trong giới hạn bình thường. Đến 04h ngày 17 tháng 03, toàn trạng bênh nhân như cũ; Về sản khoa: tim thai 148l/p, cơn co tử cung thưa, TV: CTC mở 3cm, ối vỡ hoàn toàn . Bệnh nhân có chỉ định mổ lấy thai. Bệnh nhân được mổ lấy thai từ lúc 4h30 đến 5h30, trong mổ bệnh nhân có biểu hiện tụt huyết áp (80/55mmHg), nhưng được xử trí bằng Ephedrin thì bệnh nhân ổn định trở lại. Đến 6h cùng ngày bệnh nhân dược chuyển về khoa sản theo dõi tiếp. Đến 7h cùng ngày bệnh nhân có biểu hiện sốc: hốt hoảng, kích thích vật vã, da vã mồ hôi lạnh, niêm mạc nhợt, thở nhanh 30l/p, mạch nhanh 150l/p, huyết áp tụt không đo được, vô niệu (Bệnh nhân được đặt sonde tiểu trong quá trình cấp cứu), tử cung ngang rốn, kiểm tra âm đạo thấy có ít máu sẫm màu. Bệnh nhân nhanh chóng được chuyển sang khoa Hồi sức và được cấp cứu tích cực với chẩn đoán: Sốc mất máu mức độ nặng/ Theo dõi băng huyết sau sinh/ Hậu phẫu mổ lấy thai G2-3 với kết quả xét nghiệm: HC 1,2T/l, HST 37g/l, HCT 12,1%. Bệnh nhân được truyền dịch tinh thể, dịch keo (HES 6%), 04 UI máu toàn phần cùng nhóm, thuốc vận mạch, nhanh chóng chuyển mổ cắt tử cung và cầm máu cấp cứu từ 9h đến 10h20 cùng ngày. Trong mổ, bệnh nhân tiếp tục được truyền thêm 04UI máu toàn phần cùng nhóm, đến 9h30, sau khi cầm được máu thì huyết động ổn định TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 115 dao động xung quanh 100/60mmHg. Bệnh nhân về lại khoa Hồi sức lúc 10h30 trong tình trạng: nằm yên dưới tác dụng thuốc an thần, niêm mạc hồng nhạt; tự thở đảm bảo 24l/p qua ống NKQ, Sp02 99%; mạch 100l/p, HA 110/65mmHg, dẫn lưu Douglas và dưới gan có ít dịch máu; vô niệu. Kết quả xét nghiệm máu: HC3,2T/l, HST 98g/l, HCT 29,1%. Tuy nhiên đến 15h30, bệnh nhân có biểu hiện nặng trở lại: kích thích vật vã, da xanh, niêm mạc nhợt; thở nhanh 30l/p, Sp02 96%; mạch nhanh 130l/p, HA 125/75mmHg; bụng chướng hơn, dẫn lưu ra nhiều dịch máu không đông (600ml); vô niệu. Kết quả xét nghiệm máu: HC 1,82T/l, HST 56g/l, HCT 16,4%, TC 33G/l, PT 20,3s; APTT 64,3; %Prothrombin 46%, ure 4,7mmol/l, creatinin 101µmol/l. Bệnh nhân tiếp tục được điều trị truyền máu tươi (04UI), huyết tương tươi giàu tiểu cầu (02UI) với chẩn đoán chảy máu sau mổ do rối loạn đông máu. Sau truyền máu bệnh nhân ổn định dần, biểu hiện: tỉnh táo, niêm mạc hồng nhạt; tự thở đảm bảo 24l/p qua ống NKQ, Sp02 99%; huyết động ổn định, mạch 100l/p, HA 120/70mmHg, dẫn lưu Douglas và dưới gan giảm dần; vô niệu. Kết quả xét nghiệm máu: HC3,03T/l, HST 94g/l, HCT 27,7%, TC 57G/l, PT 13,9s, APTT 28,7s, Prothrombin 87%. Bệnh nhân tiếp tục được điều trị: bù máu tươi, huyết tương tươi giàu tiểu cầu, dịch theo kết quả xét nghiệm máu và CVP, kháng sinh mạnh phối hợp, test lasix. Cho đến 22h cùng ngày bệnh nhân vẫn vô niệu hoàn toàn mặc dù huyết động ổn định HA 120/70mmHg, đủ khối lượng tuần hoàn CVP 15cm H20, Lasix 20mg x38 ống. Bệnh viện hội chẩn viện và quyết định lọc máu cho bệnh nhân lúc 22h30. Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 bệnh nhân tiến triển tốt dần lên: hô hấp đảm bảo (đã rút ống NKQ), huyết động ổn định mạch 80-90l/p, HA 115/70mmHg, dịch máu dẫn lưu trong hơn và giảm dần. Tuy nhiên bệnh nhân vẫn mất máu rỉ rả và vô niệu nên phải truyền hồng cầu khối, huyết tương và lọc máu hàng ngày. Trong quá trình điều trị bệnh nhân được làm các xét nghiệm cận lâm sàng sau: Xét nghiệm nhiều lần ure, creatinin máu và dịch dẫn lưu: kết quả ure và creatinin trong máu những ngày đầu không tăng, những ngày cuối tăng nhẹ; trong dịch dẫn lưu tương đương hoặc thấp hơn trong máu. Siêu âm ổ bụng nhiều lần: hai thận bình thường, tưới máu thận tốt, đài bể thận và niệu quản không giãn, dịch ổ bụng lượng ít, cấu trúc tăng âm trong lòng bàng quang nghi cục máu tụ. CT scan ổ bụng: hai thận bình thường, niệu quản không giãn, không thấy hình ảnh tổn thương niệu quản, bàng quang. Bơm xanhmetylen vào bàng quang sau đó kẹp sonde: không thấy dịch dẫn lưu ổ bụng có màu xanh. Chụp bàng quang cản quang: không thấy thuốc cản quang tràn vào ổ bụng, có hình ảnh choán chỗ trong lòng bàng quang phía trên bên phải. Chụp UIV: hai thận hầu như không ngấm thuốc, chức năng kém. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 116 Đến ngày thứ 06 sau mổ bệnh nhân được chụp niệu quản ngược dòng (UPR) với phương pháp vô cảm tiền mê, tê tại chỗ. Niệu quản phải chỉ luồn được sonde khoảng 5cm, niệu quản trái luồn đến 1/3 trên. Trên hình ảnh Xquang niệu quản trái cong võng. Đặc biệt là sau khi chụp bệnh nhân bắt đầu có những giọt nước tiểu đầu tiên (100ml/12h). Đến ngày thứ 7 sau mổ, bệnh nhân tiếp tục được siêu âm ổ bụng, trên hình ảnh siêu âm có biểu hiện 2 thận ứ dịch nhẹ. Bệnh nhân tiếp tục được hội chẩn liên viện (với Bệnh viện quân y 175), trong hội chẩn đa số các ý kiến đều nghĩ bệnh nhân có tổn thương niệu quản và thống nhất tiếp tục thám sát niệu quản ngược dòng dưới gây tê tủy sống. Dưới gây tê tủy sống, đưa ống soi vào niệu quản (T) thấy viêm phù nề nhiều, quyết định đặt sonde JJ, sau đặt thấy nước tiểu chảy ra nhiều. Đưa ống soi vào niệu quản (P) thấy tắc hoàn toàn ở đoạn 1/3 dưới, quyết định mổ mở kiểm tra niệu quản (P). Niệu quản (P) bị đứt ở 1/3 dưới, đầu trung tâm giãn to 12mm, bị khâu túm cùng động mạch tử cung, dây chằng rộng và tổ chức sau phúc mạc, gỡ chỉ thấy nước tiểu chảy ra. Bóc tách xuống dưới tìm được đầu ngoại vi, tiến hành đặt sonde JJ, nối niệu quản tận tận. Sau mổ xử trí tổn thương niệu quản, bệnh nhân tiểu tốt, toàn trạng ổn định dần, ra viện sau 16 ngày điều trị. BÀN LUẬN 1. Tỷ lệ tai biến tiết niệu: Theo các tác giả Hoàng Long [2], Tô Minh Hùng [1], tai biến tiết niệu xảy ra sau các phẫu thuật sản khoa có tỷ lệ khác nhau, trong đó phẫu thuật cắt tử cung toàn phần gặp nhiều nhất, sau đó đến mổ lấy thai. Bệnh nhân mà chúng tôi gặp phải trải qua cả hai phẫu thuật này, đặc biệt phải cắt tử cung toàn phần để cầm máu trong điều kiện cấp cứu tối khẩn cấp. Vì hai phẫu thuật này rất gần nhau nên rất khó xác định được một cách rõ ràng tai biến xảy ra trong phẫu thuật nào. Tuy nhiên nhiều khả năng tai biến xảy ra trong phẫu thuật cắt tử cung, vì phẫu thuật mổ lấy thai thường gây tổn thương bàng quang mà rất ít khi gây tổn thương niệu quản. 2. Chẩn đoán: Theo hầu hết các tác giả, tổn thương tiết niệu thường được phát hiện muộn do triệu chứng rất kín đáo, chỉ có một số ít trường hợp được phát hiện sớm do biểu hiện lâm sàng rõ ràng. Đối với tổn thương niệu quản chỉ được phát hiện sớm ở thể vô niệu, thiểu niệu hoặc dò nước tiểu; các thể khác thường được phát hiện rất muộn, thậm chí đến 9-10 năm sau [2]. Về lâm sàng, tùy vào tổn thương tiết niệu mà có các triệu chứng hay gặp là: rò nước tiểu âm đạo, rối loạn tiểu tiện, đau thắt lưng, thận to, thiểu niệu, vô niệu, lỗ rò âm đạo [1,2,8]. Nhưng ở trường hợp bệnh nhân này chỉ có triệu chứng vô niệu, tuy nhiên khó khăn mà chúng tôi gặp phải là bệnh nhân bị suy thận cấp sau sốc mất máu, vì vậy triệu chứng vô niệu không có nhiều giá trị trong chẩn đoán. Một vấn đề khác mà chúng tôi cũng đặt ra là liệu nước TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 117 tiểu có chảy vào ổ bụng không, vì trong những ngày đầu dẫn lưu Douglas ra rất nhiều dịch máu không đông. Tuy nhiên kết quả xét nghiệm urê, creatinin trong dịch dẫn lưu luôn tương đương hoặc thấp hơn so với máu, chứng tỏ không có nước tiểu trong dịch dẫn lưu. Mặc dù nước tiểu không có trong dịch dẫn lưu, nhưng chúng tôi cũng chưa loại trừ hoàn toàn bệnh nhân có tổn thương tiết niệu hay không, vì nếu bệnh nhân bị vô niệu thì dù có tổn thương tiết niệu thì cũng không thể có nước tiểu trong dịch dẫn lưu được. Giả thiết này càng được khẳng định khi xem trên hình ảnh chụp CT scan có bơm thuốc cản quang và chụp UIV không thấy tổn thương niệu quản, hai thận ngấm thuốc rất kém. Tuy nhiên tại sao thận bị suy lâu như vậy thì chúng tôi chưa có lý giải thõa đáng. Theo Tô Minh Hùng thì chụp CT scan 64 dãy trở lên rất có giá trị trong chẩn đoán, và trong nghiên cứu của tác giả thì tất cả bệnh nhân được chụp CT scan 64 dãy đều cho chẩn đoán xác định các tai biến tiết niệu sau phẫu thuật. Rất tiếc bệnh viện chúng tôi chưa có máy CT scan 64 dãy. Siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được áp dụng rộng rãi. Bệnh nhân được kiểm tra siêu âm liên tục trong 06 ngày đầu sau mổ, kết quả: hai thận bình thường, tưới máu thận tốt, đài bể thận và niệu quản không giãn, cấu trúc tăng âm trong lòng bàng quang nghi cục máu tụ. Do có cấu trúc tăng âm trong lòng bàng quang nên chúng tôi cũng đặt vấn đề liệu có tổn thương bàng quang không? Để trả lời cho câu hỏi đó chúng tôi đã cho bơm căng bàng quang bằng nước muối cũng như Xanh methylen, chụp bàng quang cản quang và xác định là không có tổn thương bàng quang. Một nghi vấn nữa mà chúng tôi cũng đặt ra là bàng quang được bơm rất căng, nhưng không thấy thuốc cản quang phụt ngược lên niệu quản, phải chăng đây là dấu hiệu tổn thương tắc nghẽn niệu quản. Đến ngày thứ 07 thì thấy hai thận ứ nước nhẹ, đây là dấu hiệu rất quan trọng ghi nhận thận bắt đầu hồi phục chức năng trở lại và có sự cản trở lưu thông của đường tiết niệu. 3. Một số vấn đề khác: Vấn đề rối loạn đông máu: sau khi bệnh nhân được phẫu thuật lần thứ hai xuất hiện tình trạng chảy máu thứ phát do rối loạn đông máu khá nặng nề (TC 33G/l, PT 20,3s, APTT 64,3, %Prothrombin 46%). Ngoài nguyên nhân do shock mất máu nặng, rối loạn chức năng đa cơ quan thì việc truyền máu chưa phù hợp làm trầm trọng thêm tình trạng rối loạn đông máu cũng được đặt ra. Ở bệnh nhân này, do mất máu quá nhiều nên chúng tôi đã truyền liên tục 8UI máu toàn phần cùng nhóm trong quá trình hồi sức tích cực cũng như trong phẫu thuật. Tuy nhiên, chúng tôi đã kịp thời điều chỉnh bằng cách truyền máu theo khuyến cáo mới (01UI hồng cầu khối, 01UI huyết tương)[3], truyền huyết tương tươi đông lạnh, đặc biệt là huyết tương tươi giàu tiểu cầu. Sau 24h, tình trạng đông máu trở về bình thường (PT 13,9s, APTT 28,7s, %Prothrombin 87%). Vấn đề suy thận: Bệnh nhân bị suy thận cấp trước thận do shock mất máu TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 118 mức độ nặng, tụt huyết áp kéo dài (khoảng 4 giờ) là rất rõ ràng. Tuy nhiên chúng tôi cũng luôn đặt câu hỏi: Tại sao suy thận trước thận kéo dài như vậy? Liệu có chăng vai trò của suy thận sau thận do niệu quản trái bị viêm phù nề chít hẹp, niệu quản phải bị đứt và khâu vào tổ chức xung quanh làm quá trình suy thận cấp kéo dài. Đặc biệt, việc sử dụng HES 6% cấp cứu bệnh nhân này có làm mức độ suy thận thêm trầm trọng và kéo dài?[4] Vấn đề điều trị đa tuyến: Hiện nay, việc điều trị đa tuyến ngày càng trở nên cần thiết và phổ biến do sự phát triển của công nghệ thông tin, Bệnh viện quân y 87 cũng không phải là ngoại lệ. Bên cạnh việc hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho tuyên dưới, thì việc thường xuyên phối hợp, đồng thời nhận được sự hỗ trợ của tuyến trên (Bệnh viện quân y 175) và các chuyên gia là rất quan trọng, góp phần cứu sống nhiều bệnh nhân nặng (Bệnh nhân A. Turkin, Đỗ Thùy D....). 4. Điều trị: Đối với tổn thương niệu quản thì đa số các tác giả đều thống nhất càng phát hiện và điều trị càng sớm càng, bệnh nhân chúng tôi gặp phải sau 07 ngày điều trị mới được phát hiện và điều trị, do có rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán xác định mà chúng tôi đã phân tích ở trên. Đặc biệt, trong những ngày đầu bệnh nhân luôn nằm trong bệnh cảnh rối loạn chức năng đa cơ quan, nên việc bệnh nhân được tích cực lọc máu hỗ trợ thận sớm và thường xuyên góp phần rất quan trong trong bảo tồn chức năng thận, phục hồi chức năng các cơ quan. Cũng theo nhiều tác giả, các biện pháp điều trị bao gồm: đặt sonde JJ, nối niệu quản tận – tận, cắm niệu quả - bàng quang. Bệnh nhân của chúng tôi với tổn thương niệu quản trái chủ yếu là phù nề chít hẹp nên chỉ cần đặt sonde JJ, còn niệu quản phải bị đứt lìa nên phải nối tận – tận. Ngoài ra, việc bệnh nhân được lọc máu chu kỳ kịp thời và thường xuyên là rất quan trọng trong bảo vệ chức năng thận (ure và creatinin trong máu nhưng ngày đầu không tăng, chỉ tăng nhẹ trong những ngày cuối), đồng thời góp phần cải thiện chức năng các cơ quan khác, hạn chế các biến chứng có thể gặp phải như: phù phổi cấp, tăng kali máu, hội chứng tăng ure huyết... KẾT LUẬN Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp, tuy nhiên lại rất khó khăn trong chẩn đoán nên thường bị muộn và để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân. Đây là trường hợp đầu tiên mà chúng tôi gặp phải, mặc dù kinh nghiệm còn hạn chế, nhưng chúng tôi đã điều trị tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời, hạn chế được các biến chứng nặng nề cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tô Minh Hùng (2010): Nghiên cứu đặc điểm chẩn đoán và kết quả điều trị phẫu thuật các tai biến tiết niệu sau mổ sản khoa tại bệnh viện Việt Đức. Luận văn TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 119 thạc sĩ y học, trường Đại học y Hà Nội. 2. Hoàng Long, Vũ Nguyễn Khải Ca (2009): Chẩn đoán và xử trí các biến chứng tiết niệu sau phẫu thuật cắt toàn bộ tử cung nội soi qua phúc mạc. Tạp chí Y học Việt Nam, số 02, Tr. 22-26. 3. Đỗ Trung Phấn (2014): Truyền máu hiện đại - ứng dụng trong điều trị bệnh. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 4. Nguyễn Văn Thanh (2013-2014): Cập nhật thông tin dược lý đối với dịch truyền hydroxyethyl starch (HES). 5. Cao Văn Trí, Nguyễn Viết Lâm (2004): Nhân hai trường hợp tổn thương niệu quản do phẫu thuật. Chuyên đề Hội nghị khoa học Kỹ thuật Bệnh viện Bình Dân. Tr. 318-324. 6. Lê Ngọc Từ (2001): Một số nhận xét về phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng quang theo phương pháp Lich – Gregoir. Tạp chí ngoại khoa, số 01, Tr. 19-21. 7. Jeong Hyun Park và CS (2012): Ureteral injury in Gynecologic Surgery: A 5-Year Review in A Community Hospital. Korean J Urol. 2012 Feb; 53(2), Tr. 120- 125. 8. Liatsikos EN và CS (2006): Ureteral injury during gynecologic surgery: treatment with a minimally invasive approach. J Endourol. 2006;20, Tr. 1062- 1067.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_ton_thuong_nieu_quan_trong_phau_thuat_sa.pdf

