Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87

Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp và

theo nhiều tác giả thì chiếm khoảng 0,3 – 2,5% [1,7,8], kết quả điều trị các tai biến này

phụ thuộc vào thời gian phát hiện, tốt nhất là được chẩn đoán và xử lý ngay trong mổ.

Tuy nhiên những tổn thương này lại thường được phát hiện muộn với biểu hiện dò nước

tiểu hoặc tắc nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân [2,6].

Đây là trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu thuật sản phụ khoa đầu tiên tại bệnh

viện quân y 87 với rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị - tổn thương niệu quản

cả hai bên và triệu chứng bị che lấp bởi tình trạng suy thận cấp kéo dài - nhưng chúng

tôi đã điều trị tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời,

hạn chế được các biến chứng nặng nề cho bệnh nhân

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87

Nhân một trường hợp tổn thương niệu quản trong phẫu thuật sản khoa tại Bệnh viện Quân Y 87
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
113
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP TỔN THƯƠNG NIỆU QUẢN TRONG 
PHẪU THUẬT SẢN KHOA TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 87
Trần Quốc Việt1, Nguyễn Bá Hành2, Phạm Văn Tiện2 
Vũ Đình Ân1, Nguyễn Văn Nghĩa2
(1) Bệnh viện Quân y 175
(2) Bệnh viện Quân y 87
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Nghĩa ([email protected])
Ngày nhận bài: 27/7/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/8/2015
TÓM TẮT
Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp và 
theo nhiều tác giả thì chiếm khoảng 0,3 – 2,5% [1,7,8], kết quả điều trị các tai biến này 
phụ thuộc vào thời gian phát hiện, tốt nhất là được chẩn đoán và xử lý ngay trong mổ. 
Tuy nhiên những tổn thương này lại thường được phát hiện muộn với biểu hiện dò nước 
tiểu hoặc tắc nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả nặng nề cho bệnh nhân [2,6]. 
Đây là trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu thuật sản phụ khoa đầu tiên tại bệnh 
viện quân y 87 với rất nhiều khó khăn trong chẩn đoán và điều trị - tổn thương niệu quản 
cả hai bên và triệu chứng bị che lấp bởi tình trạng suy thận cấp kéo dài - nhưng chúng 
tôi đã điều trị tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời, 
hạn chế được các biến chứng nặng nề cho bệnh nhân.
Từ khóa: Tổn thương tiết niệu, phẫu thuật sản khoa
REPORT A CASE WITH URETERAL INJURY IN GYNECOLOGICAL 
SURGERY TREATMENT AT 87 MILITARY HOSPITAL
SUMMARY
Urologic injuries in gynecological surgery is quite common and accounting for 
about 0.3 to 2.5%, the treatment result of which much relies on detection time; in-
surgical diagnose is the best application. However, such injury which is often detected 
late with leakage of urine or ureteral obstruction, leaving the serious consequences 
for the patient. This is the first patient suffering from ureteral injury after surgical 
gynecology at Military hospital 87 with several challenges in diagnosis and treament - 
ureteral injury both and symptoms blinded by state prolonged acute renal failure - but 
we really treated aggressively with properly diagnose after 07 days of treatment, timely 
emergency surgery, which help reduce severe complications for patients.
Keywords: Urologic injuries, gynecological surgery
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
114
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật 
sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp 
chiếm khoảng 0,3 – 2,5% do sự liên quan 
mật thiết giữa niệu quản đoạn chậu với 
các cơ quan sinh dục nữ [1,7,8], kết quả 
điều trị các tai biến này phụ thuộc vào thời 
gian phát hiện, tốt nhất là chẩn đoán được 
và xử lý ngay trong mổ. Tuy nhiên những 
tổn thương này lại thường được phát hiện 
muộn với biểu hiện dò nước tiểu hoặc tắc 
nghẽn niệu quản nên để lại những hậu quả 
nặng nề cho bệnh nhân [2,6]. Nhân một 
trường hợp tổn thương niệu quản sau phẫu 
thuật sản phụ khoa được phát hiện sau 07 
ngày và điều trị thành công tại Bệnh viện 
quân y 87, chúng tôi xin trình bày để đồng 
nghiệp cùng tham khảo.
GIỚI THIỆU CA BỆNH
Bệnh nhân (BN) Đỗ Thùy D., sinh năm 
1980, nữ, số bệnh án 2912, địa chỉ: Nha 
Trang – Khánh Hòa, vào Bệnh viện quân y 
87 cấp cứu lúc 0h05 ngày 17/03/2015.
Chẩn đoán khi vào viện: Thai con lần 
II – 39 tuần chuyển dạ/ Vết mổ cũ.
Diễn biến bệnh: Khoảng 22h ngày 16 
tháng 03 bệnh nhân thấy đau bụng, ra dịch 
hồng âm đạo, chuyển đến Bệnh viên quan 
y 87 cấp cứu trong tình trạng: tỉnh táo, 
tiếp xúc được, không sốt; nhịp tim đều 80 
chu kỳ/phút, huyết áp 110/60mmHg; Tự 
thở tần số 18 lần/phút, nghe phổi không 
có rales, SpO2 100%; Khám sản khoa: 
BCTC/VB 35/100cm, ngôi đầu thế (T), 
tim thai 142l/p, TV: AH, AĐ bình thường, 
cổ tử cung mở > 1cm, có dịch hồng theo 
găng. Bệnh nhân được hoàn thành các xét 
nghiệm tiền phẫu: Công thức máu, MĐ-
MC, đông máu toàn bộ, sinh hóa, điện tim, 
Xquang tim phổi, siêu âm, kết quả trong 
giới hạn bình thường.
Đến 04h ngày 17 tháng 03, toàn trạng 
bênh nhân như cũ; Về sản khoa: tim thai 
148l/p, cơn co tử cung thưa, TV: CTC mở 
3cm, ối vỡ hoàn toàn . Bệnh nhân có chỉ 
định mổ lấy thai.
Bệnh nhân được mổ lấy thai từ lúc 
4h30 đến 5h30, trong mổ bệnh nhân có 
biểu hiện tụt huyết áp (80/55mmHg), 
nhưng được xử trí bằng Ephedrin thì bệnh 
nhân ổn định trở lại. Đến 6h cùng ngày 
bệnh nhân dược chuyển về khoa sản theo 
dõi tiếp.
Đến 7h cùng ngày bệnh nhân có biểu 
hiện sốc: hốt hoảng, kích thích vật vã, da 
vã mồ hôi lạnh, niêm mạc nhợt, thở nhanh 
30l/p, mạch nhanh 150l/p, huyết áp tụt 
không đo được, vô niệu (Bệnh nhân được 
đặt sonde tiểu trong quá trình cấp cứu), tử 
cung ngang rốn, kiểm tra âm đạo thấy có 
ít máu sẫm màu. Bệnh nhân nhanh chóng 
được chuyển sang khoa Hồi sức và được 
cấp cứu tích cực với chẩn đoán: Sốc mất 
máu mức độ nặng/ Theo dõi băng huyết 
sau sinh/ Hậu phẫu mổ lấy thai G2-3 với 
kết quả xét nghiệm: HC 1,2T/l, HST 37g/l, 
HCT 12,1%.
Bệnh nhân được truyền dịch tinh thể, 
dịch keo (HES 6%), 04 UI máu toàn phần 
cùng nhóm, thuốc vận mạch, nhanh chóng 
chuyển mổ cắt tử cung và cầm máu cấp 
cứu từ 9h đến 10h20 cùng ngày. Trong mổ, 
bệnh nhân tiếp tục được truyền thêm 04UI 
máu toàn phần cùng nhóm, đến 9h30, sau 
khi cầm được máu thì huyết động ổn định 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
115
dao động xung quanh 100/60mmHg.
Bệnh nhân về lại khoa Hồi sức lúc 
10h30 trong tình trạng: nằm yên dưới tác 
dụng thuốc an thần, niêm mạc hồng nhạt; 
tự thở đảm bảo 24l/p qua ống NKQ, Sp02 
99%; mạch 100l/p, HA 110/65mmHg, dẫn 
lưu Douglas và dưới gan có ít dịch máu; vô 
niệu. Kết quả xét nghiệm máu: HC3,2T/l, 
HST 98g/l, HCT 29,1%.
Tuy nhiên đến 15h30, bệnh nhân 
có biểu hiện nặng trở lại: kích thích vật 
vã, da xanh, niêm mạc nhợt; thở nhanh 
30l/p, Sp02 96%; mạch nhanh 130l/p, HA 
125/75mmHg; bụng chướng hơn, dẫn lưu 
ra nhiều dịch máu không đông (600ml); vô 
niệu. Kết quả xét nghiệm máu: HC 1,82T/l, 
HST 56g/l, HCT 16,4%, TC 33G/l, PT 
20,3s; APTT 64,3; %Prothrombin 46%, 
ure 4,7mmol/l, creatinin 101µmol/l. Bệnh 
nhân tiếp tục được điều trị truyền máu tươi 
(04UI), huyết tương tươi giàu tiểu cầu 
(02UI) với chẩn đoán chảy máu sau mổ do 
rối loạn đông máu.
Sau truyền máu bệnh nhân ổn định 
dần, biểu hiện: tỉnh táo, niêm mạc hồng 
nhạt; tự thở đảm bảo 24l/p qua ống NKQ, 
Sp02 99%; huyết động ổn định, mạch 
100l/p, HA 120/70mmHg, dẫn lưu Douglas 
và dưới gan giảm dần; vô niệu. Kết quả 
xét nghiệm máu: HC3,03T/l, HST 94g/l, 
HCT 27,7%, TC 57G/l, PT 13,9s, APTT 
28,7s, Prothrombin 87%. Bệnh nhân tiếp 
tục được điều trị: bù máu tươi, huyết tương 
tươi giàu tiểu cầu, dịch theo kết quả xét 
nghiệm máu và CVP, kháng sinh mạnh 
phối hợp, test lasix. Cho đến 22h cùng 
ngày bệnh nhân vẫn vô niệu hoàn toàn mặc 
dù huyết động ổn định HA 120/70mmHg, 
đủ khối lượng tuần hoàn CVP 15cm H20, 
Lasix 20mg x38 ống. Bệnh viện hội chẩn 
viện và quyết định lọc máu cho bệnh nhân 
lúc 22h30.
Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 bệnh 
nhân tiến triển tốt dần lên: hô hấp đảm 
bảo (đã rút ống NKQ), huyết động ổn định 
mạch 80-90l/p, HA 115/70mmHg, dịch 
máu dẫn lưu trong hơn và giảm dần. Tuy 
nhiên bệnh nhân vẫn mất máu rỉ rả và vô 
niệu nên phải truyền hồng cầu khối, huyết 
tương và lọc máu hàng ngày. 
Trong quá trình điều trị bệnh nhân 
được làm các xét nghiệm cận lâm sàng sau:
Xét nghiệm nhiều lần ure, creatinin 
máu và dịch dẫn lưu: kết quả ure và 
creatinin trong máu những ngày đầu không 
tăng, những ngày cuối tăng nhẹ; trong dịch 
dẫn lưu tương đương hoặc thấp hơn trong 
máu.
Siêu âm ổ bụng nhiều lần: hai thận 
bình thường, tưới máu thận tốt, đài bể 
thận và niệu quản không giãn, dịch ổ bụng 
lượng ít, cấu trúc tăng âm trong lòng bàng 
quang nghi cục máu tụ.
CT scan ổ bụng: hai thận bình thường, 
niệu quản không giãn, không thấy hình 
ảnh tổn thương niệu quản, bàng quang.
Bơm xanhmetylen vào bàng quang 
sau đó kẹp sonde: không thấy dịch dẫn lưu 
ổ bụng có màu xanh.
Chụp bàng quang cản quang: không 
thấy thuốc cản quang tràn vào ổ bụng, có 
hình ảnh choán chỗ trong lòng bàng quang 
phía trên bên phải.
Chụp UIV: hai thận hầu như không 
ngấm thuốc, chức năng kém. 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
116
Đến ngày thứ 06 sau mổ bệnh nhân 
được chụp niệu quản ngược dòng (UPR) 
với phương pháp vô cảm tiền mê, tê tại 
chỗ. Niệu quản phải chỉ luồn được sonde 
khoảng 5cm, niệu quản trái luồn đến 1/3 
trên. Trên hình ảnh Xquang niệu quản trái 
cong võng. Đặc biệt là sau khi chụp bệnh 
nhân bắt đầu có những giọt nước tiểu đầu 
tiên (100ml/12h).
Đến ngày thứ 7 sau mổ, bệnh nhân 
tiếp tục được siêu âm ổ bụng, trên hình ảnh 
siêu âm có biểu hiện 2 thận ứ dịch nhẹ. 
Bệnh nhân tiếp tục được hội chẩn liên viện 
(với Bệnh viện quân y 175), trong hội chẩn 
đa số các ý kiến đều nghĩ bệnh nhân có tổn 
thương niệu quản và thống nhất tiếp tục 
thám sát niệu quản ngược dòng dưới gây 
tê tủy sống.
Dưới gây tê tủy sống, đưa ống soi vào 
niệu quản (T) thấy viêm phù nề nhiều, 
quyết định đặt sonde JJ, sau đặt thấy nước 
tiểu chảy ra nhiều. Đưa ống soi vào niệu 
quản (P) thấy tắc hoàn toàn ở đoạn 1/3 
dưới, quyết định mổ mở kiểm tra niệu 
quản (P). Niệu quản (P) bị đứt ở 1/3 dưới, 
đầu trung tâm giãn to 12mm, bị khâu túm 
cùng động mạch tử cung, dây chằng rộng 
và tổ chức sau phúc mạc, gỡ chỉ thấy nước 
tiểu chảy ra. Bóc tách xuống dưới tìm 
được đầu ngoại vi, tiến hành đặt sonde JJ, 
nối niệu quản tận tận. 
Sau mổ xử trí tổn thương niệu quản, 
bệnh nhân tiểu tốt, toàn trạng ổn định dần, 
ra viện sau 16 ngày điều trị.
BÀN LUẬN
1. Tỷ lệ tai biến tiết niệu: 
Theo các tác giả Hoàng Long [2], Tô 
Minh Hùng [1], tai biến tiết niệu xảy ra 
sau các phẫu thuật sản khoa có tỷ lệ khác 
nhau, trong đó phẫu thuật cắt tử cung toàn 
phần gặp nhiều nhất, sau đó đến mổ lấy 
thai. Bệnh nhân mà chúng tôi gặp phải trải 
qua cả hai phẫu thuật này, đặc biệt phải cắt 
tử cung toàn phần để cầm máu trong điều 
kiện cấp cứu tối khẩn cấp. Vì hai phẫu 
thuật này rất gần nhau nên rất khó xác 
định được một cách rõ ràng tai biến xảy ra 
trong phẫu thuật nào. Tuy nhiên nhiều khả 
năng tai biến xảy ra trong phẫu thuật cắt tử 
cung, vì phẫu thuật mổ lấy thai thường gây 
tổn thương bàng quang mà rất ít khi gây 
tổn thương niệu quản.
2. Chẩn đoán: 
Theo hầu hết các tác giả, tổn thương 
tiết niệu thường được phát hiện muộn do 
triệu chứng rất kín đáo, chỉ có một số ít 
trường hợp được phát hiện sớm do biểu 
hiện lâm sàng rõ ràng. Đối với tổn thương 
niệu quản chỉ được phát hiện sớm ở thể 
vô niệu, thiểu niệu hoặc dò nước tiểu; các 
thể khác thường được phát hiện rất muộn, 
thậm chí đến 9-10 năm sau [2]. 
Về lâm sàng, tùy vào tổn thương tiết 
niệu mà có các triệu chứng hay gặp là: rò 
nước tiểu âm đạo, rối loạn tiểu tiện, đau 
thắt lưng, thận to, thiểu niệu, vô niệu, lỗ 
rò âm đạo [1,2,8]. Nhưng ở trường hợp 
bệnh nhân này chỉ có triệu chứng vô niệu, 
tuy nhiên khó khăn mà chúng tôi gặp phải 
là bệnh nhân bị suy thận cấp sau sốc mất 
máu, vì vậy triệu chứng vô niệu không có 
nhiều giá trị trong chẩn đoán. Một vấn đề 
khác mà chúng tôi cũng đặt ra là liệu nước 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
117
tiểu có chảy vào ổ bụng không, vì trong 
những ngày đầu dẫn lưu Douglas ra rất 
nhiều dịch máu không đông. Tuy nhiên kết 
quả xét nghiệm urê, creatinin trong dịch 
dẫn lưu luôn tương đương hoặc thấp hơn 
so với máu, chứng tỏ không có nước tiểu 
trong dịch dẫn lưu.
Mặc dù nước tiểu không có trong dịch 
dẫn lưu, nhưng chúng tôi cũng chưa loại 
trừ hoàn toàn bệnh nhân có tổn thương tiết 
niệu hay không, vì nếu bệnh nhân bị vô 
niệu thì dù có tổn thương tiết niệu thì cũng 
không thể có nước tiểu trong dịch dẫn lưu 
được. Giả thiết này càng được khẳng định 
khi xem trên hình ảnh chụp CT scan có 
bơm thuốc cản quang và chụp UIV không 
thấy tổn thương niệu quản, hai thận ngấm 
thuốc rất kém. Tuy nhiên tại sao thận bị 
suy lâu như vậy thì chúng tôi chưa có lý 
giải thõa đáng. Theo Tô Minh Hùng thì 
chụp CT scan 64 dãy trở lên rất có giá trị 
trong chẩn đoán, và trong nghiên cứu của 
tác giả thì tất cả bệnh nhân được chụp CT 
scan 64 dãy đều cho chẩn đoán xác định 
các tai biến tiết niệu sau phẫu thuật. Rất 
tiếc bệnh viện chúng tôi chưa có máy CT 
scan 64 dãy.
Siêu âm là phương pháp chẩn đoán 
hình ảnh được áp dụng rộng rãi. Bệnh 
nhân được kiểm tra siêu âm liên tục trong 
06 ngày đầu sau mổ, kết quả: hai thận bình 
thường, tưới máu thận tốt, đài bể thận và 
niệu quản không giãn, cấu trúc tăng âm 
trong lòng bàng quang nghi cục máu tụ. 
Do có cấu trúc tăng âm trong lòng bàng 
quang nên chúng tôi cũng đặt vấn đề liệu 
có tổn thương bàng quang không? Để trả 
lời cho câu hỏi đó chúng tôi đã cho bơm 
căng bàng quang bằng nước muối cũng 
như Xanh methylen, chụp bàng quang cản 
quang và xác định là không có tổn thương 
bàng quang. Một nghi vấn nữa mà chúng 
tôi cũng đặt ra là bàng quang được bơm rất 
căng, nhưng không thấy thuốc cản quang 
phụt ngược lên niệu quản, phải chăng đây 
là dấu hiệu tổn thương tắc nghẽn niệu 
quản. Đến ngày thứ 07 thì thấy hai thận ứ 
nước nhẹ, đây là dấu hiệu rất quan trọng 
ghi nhận thận bắt đầu hồi phục chức năng 
trở lại và có sự cản trở lưu thông của đường 
tiết niệu.
3. Một số vấn đề khác:
Vấn đề rối loạn đông máu: sau khi 
bệnh nhân được phẫu thuật lần thứ hai 
xuất hiện tình trạng chảy máu thứ phát do 
rối loạn đông máu khá nặng nề (TC 33G/l, 
PT 20,3s, APTT 64,3, %Prothrombin 
46%). Ngoài nguyên nhân do shock mất 
máu nặng, rối loạn chức năng đa cơ quan 
thì việc truyền máu chưa phù hợp làm trầm 
trọng thêm tình trạng rối loạn đông máu 
cũng được đặt ra. Ở bệnh nhân này, do mất 
máu quá nhiều nên chúng tôi đã truyền 
liên tục 8UI máu toàn phần cùng nhóm 
trong quá trình hồi sức tích cực cũng như 
trong phẫu thuật. Tuy nhiên, chúng tôi đã 
kịp thời điều chỉnh bằng cách truyền máu 
theo khuyến cáo mới (01UI hồng cầu khối, 
01UI huyết tương)[3], truyền huyết tương 
tươi đông lạnh, đặc biệt là huyết tương 
tươi giàu tiểu cầu. Sau 24h, tình trạng đông 
máu trở về bình thường (PT 13,9s, APTT 
28,7s, %Prothrombin 87%).
Vấn đề suy thận: Bệnh nhân bị suy 
thận cấp trước thận do shock mất máu 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
118
mức độ nặng, tụt huyết áp kéo dài (khoảng 
4 giờ) là rất rõ ràng. Tuy nhiên chúng tôi 
cũng luôn đặt câu hỏi: Tại sao suy thận 
trước thận kéo dài như vậy? Liệu có chăng 
vai trò của suy thận sau thận do niệu quản 
trái bị viêm phù nề chít hẹp, niệu quản phải 
bị đứt và khâu vào tổ chức xung quanh làm 
quá trình suy thận cấp kéo dài. Đặc biệt, 
việc sử dụng HES 6% cấp cứu bệnh nhân 
này có làm mức độ suy thận thêm trầm 
trọng và kéo dài?[4]
Vấn đề điều trị đa tuyến: Hiện nay, 
việc điều trị đa tuyến ngày càng trở nên cần 
thiết và phổ biến do sự phát triển của công 
nghệ thông tin, Bệnh viện quân y 87 cũng 
không phải là ngoại lệ. Bên cạnh việc hỗ 
trợ chuyên môn kỹ thuật cho tuyên dưới, 
thì việc thường xuyên phối hợp, đồng thời 
nhận được sự hỗ trợ của tuyến trên (Bệnh 
viện quân y 175) và các chuyên gia là rất 
quan trọng, góp phần cứu sống nhiều bệnh 
nhân nặng (Bệnh nhân A. Turkin, Đỗ Thùy 
D....).
4. Điều trị:
Đối với tổn thương niệu quản thì đa 
số các tác giả đều thống nhất càng phát 
hiện và điều trị càng sớm càng, bệnh nhân 
chúng tôi gặp phải sau 07 ngày điều trị 
mới được phát hiện và điều trị, do có rất 
nhiều khó khăn trong chẩn đoán xác định 
mà chúng tôi đã phân tích ở trên. Đặc biệt, 
trong những ngày đầu bệnh nhân luôn 
nằm trong bệnh cảnh rối loạn chức năng 
đa cơ quan, nên việc bệnh nhân được tích 
cực lọc máu hỗ trợ thận sớm và thường 
xuyên góp phần rất quan trong trong bảo 
tồn chức năng thận, phục hồi chức năng 
các cơ quan. 
Cũng theo nhiều tác giả, các biện pháp 
điều trị bao gồm: đặt sonde JJ, nối niệu 
quản tận – tận, cắm niệu quả - bàng quang. 
Bệnh nhân của chúng tôi với tổn thương 
niệu quản trái chủ yếu là phù nề chít hẹp 
nên chỉ cần đặt sonde JJ, còn niệu quản 
phải bị đứt lìa nên phải nối tận – tận.
Ngoài ra, việc bệnh nhân được lọc 
máu chu kỳ kịp thời và thường xuyên là 
rất quan trọng trong bảo vệ chức năng thận 
(ure và creatinin trong máu nhưng ngày 
đầu không tăng, chỉ tăng nhẹ trong những 
ngày cuối), đồng thời góp phần cải thiện 
chức năng các cơ quan khác, hạn chế các 
biến chứng có thể gặp phải như: phù phổi 
cấp, tăng kali máu, hội chứng tăng ure 
huyết... 
KẾT LUẬN
Tổn thương tiết niệu trong phẫu thuật 
sản phụ khoa là tai biến khá thường gặp, 
tuy nhiên lại rất khó khăn trong chẩn đoán 
nên thường bị muộn và để lại những hậu 
quả nặng nề cho bệnh nhân.
 Đây là trường hợp đầu tiên mà 
chúng tôi gặp phải, mặc dù kinh nghiệm 
còn hạn chế, nhưng chúng tôi đã điều trị 
tích cực, chẩn đoán đúng sau 07 ngày điều 
trị, phẫu thuật cấp cứu kịp thời, hạn chế 
được các biến chứng nặng nề cho bệnh 
nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tô Minh Hùng (2010): Nghiên 
cứu đặc điểm chẩn đoán và kết quả điều 
trị phẫu thuật các tai biến tiết niệu sau mổ 
sản khoa tại bệnh viện Việt Đức. Luận văn 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
119
thạc sĩ y học, trường Đại học y Hà Nội.
2. Hoàng Long, Vũ Nguyễn Khải Ca 
(2009): Chẩn đoán và xử trí các biến chứng 
tiết niệu sau phẫu thuật cắt toàn bộ tử cung 
nội soi qua phúc mạc. Tạp chí Y học Việt 
Nam, số 02, Tr. 22-26.
3. Đỗ Trung Phấn (2014): Truyền máu 
hiện đại - ứng dụng trong điều trị bệnh. 
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Văn Thanh (2013-2014): 
Cập nhật thông tin dược lý đối với dịch 
truyền hydroxyethyl starch (HES).
5. Cao Văn Trí, Nguyễn Viết Lâm 
(2004): Nhân hai trường hợp tổn thương 
niệu quản do phẫu thuật. Chuyên đề Hội 
nghị khoa học Kỹ thuật Bệnh viện Bình 
Dân. Tr. 318-324.
6. Lê Ngọc Từ (2001): Một số nhận xét 
về phẫu thuật cắm lại niệu quản vào bàng 
quang theo phương pháp Lich – Gregoir. 
Tạp chí ngoại khoa, số 01, Tr. 19-21.
7. Jeong Hyun Park và CS (2012): 
Ureteral injury in Gynecologic Surgery: A 
5-Year Review in A Community Hospital. 
Korean J Urol. 2012 Feb; 53(2), Tr. 120-
125.
8. Liatsikos EN và CS (2006): Ureteral 
injury during gynecologic surgery: 
treatment with a minimally invasive 
approach. J Endourol. 2006;20, Tr. 1062-
1067.

File đính kèm:

  • pdfnhan_mot_truong_hop_ton_thuong_nieu_quan_trong_phau_thuat_sa.pdf