Nhân một trường hợp hội chứng pres ở thai phụ tiền sản giật nặng hậu sản sớm
Hội chứng bệnh não chất trắng phía sau có phục hồi (gọi tắt là hội chứng
PRES) là một hội chứng ít gặp, chẩn đoán dựa vào lâm sàng và hình ảnh học,
biểu hiện lâm sàng cấp hoặc bán cấp với thay đổi ý thức, bệnh não, đau đầu, cơn
co giật mới khởi phát và rối loạn thị giác kiểu vỏ não đi kèm với hình ảnh học phù
kiểu mạch chất trắng não phía sau (đính chẩm hai bên). Đặc trưng quan trọng
nhất của hội chứng này là tính hồi phục sau khi đã kiểm soát các yếu tố thúc đẩy.
Do đặc điểm lâm sàng đa dạng và thông tin về hội chứng PRES chưa đầy đủ nên
các khuyến cáo về điều trị hội chứng PRES còn hạn chế. Chúng tôi báo cáo một
ca nữ 32 tuổi ở giai đoạn hậu sản sớm, xuất hiện tiền sản giật nặng kèm theo hội
chứng PRES. Bệnh nhân đã được điều trị bằng thuốc hạ áp và phục hồi ngoạn
mục. Hội chứng này cần phải được phát hiện sớm và điều trị kịp thời nhằm ngăn
ngừa bệnh tật và tử vong không chỉ trong thai kỳ và hậu sản mà còn trong nhiều
bệnh lý khác
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp hội chứng pres ở thai phụ tiền sản giật nặng hậu sản sớm
TRAO ĐỔI HỌC TẬP 93 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP HỘI CHỨNG PRES Ở THAI PHỤ TIỀN SẢN GIẬT NẶNG HẬU SẢN SỚM Trịnh Mỹ Hòa1, Bạch Thanh Thủy1 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Trịnh Mỹ Hòa ([email protected]) Ngày nhận bài: 26/6/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/6/2017. Ngày bài báo được đăng: 30/6/2017 Tóm Tắt Hội chứng bệnh não chất trắng phía sau có phục hồi (gọi tắt là hội chứng PRES) là một hội chứng ít gặp, chẩn đoán dựa vào lâm sàng và hình ảnh học, biểu hiện lâm sàng cấp hoặc bán cấp với thay đổi ý thức, bệnh não, đau đầu, cơn co giật mới khởi phát và rối loạn thị giác kiểu vỏ não đi kèm với hình ảnh học phù kiểu mạch chất trắng não phía sau (đính chẩm hai bên). Đặc trưng quan trọng nhất của hội chứng này là tính hồi phục sau khi đã kiểm soát các yếu tố thúc đẩy. Do đặc điểm lâm sàng đa dạng và thông tin về hội chứng PRES chưa đầy đủ nên các khuyến cáo về điều trị hội chứng PRES còn hạn chế. Chúng tôi báo cáo một ca nữ 32 tuổi ở giai đoạn hậu sản sớm, xuất hiện tiền sản giật nặng kèm theo hội chứng PRES. Bệnh nhân đã được điều trị bằng thuốc hạ áp và phục hồi ngoạn mục. Hội chứng này cần phải được phát hiện sớm và điều trị kịp thời nhằm ngăn ngừa bệnh tật và tử vong không chỉ trong thai kỳ và hậu sản mà còn trong nhiều bệnh lý khác. POSTERIOR REVERSIBLE ENCEPHALOPATHY SYNDROME IN AN EARLY POSTPARTUM SEVERE PRE-ECLAMPTIC WOMAN Summary Posterior reversible encephalopathy syndrome (PRES) is a rare clinic- radiological syndrome. Patients with PRES have an acute or subacute clinical presentation of altered mental status, encephalopathy, headache, new onset seizures, TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 94 and cortical visual disturbances in association with neuroimaging studies consistent with white matter cerebral edema in the parietal and occipital lobes bilaterally. The hallmark of this syndrome is the reversibility once precipitating factors have been controlled. Because of the heterogeneous clinical settings in which PRES occurs and because clinical reports are limited to case reports and small series, treatment recommendations are somewhat limited. We report a case of 32 year-old woman with early postpartum severe pre-eclampsia, presenting with PRES. She was treated successfully with anti-hypertensives and showed dramatic improvement. This condition is important to recognize early and needs to be treated promptly to prevent morbidity and mortality in not only pregnancy and postpartum but also a number of other medical conditions. ĐẶT VẤN ĐỀ Hội chứng bệnh não chất trắng phía sau có phục hồi (Posterior reversible leukoencephalopathy syndrome), gọi tắt là hội chứng PRES, thường xuất hiện kèm theo rất nhiều tình trạng (bảng 1), trong đó tiền sản giật và sản giật là thường gặp nhất. Tiền sản giật, đặc trưng bởi tăng huyết áp và tiểu đạm tính từ tuần thứ 20 thai kỳ đến 6 tuần sau sinh, xảy ra ở 3-10% phụ nữ mang thai. Triệu chứng thần kinh có thể gặp trong tiền sản giật như đau đầu, giảm thị lực, lú lẫn hay giảm thức tỉnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy đa phần tiền sản giật nặng hoặc sản giật có thay đổi về hình ảnh học thần kinh gắn liền với hội chứng PRES. Chẩn đoán hội chứng PRES dựa vào lâm sàng và hình ảnh học, biểu hiện lâm sàng cấp hoặc bán cấp với thay đổi ý thức, bệnh não, đau đầu, cơn co giật mới khởi phát và rối loạn thị giác kiểu vỏ não đi kèm với hình ảnh học phù kiểu mạch chất trắng não phía sau (đính chẩm hai bên). Sinh lý bệnh chính xác của hội chứng PRES vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, có 3 giả thuyết có thể giải thích được những bất thường trên hình ảnh học của hội chứng PRES đó là: (1) Rối loạn cơ chế tự điều hòa mạch máu não, (2) Rối loạn chức năng nội mô, (3) co thắt mạch do tăng áp lực máu cấp. Hội chứng PRES phục hồi về mặt lâm sàng và hình ảnh học từ 5 ngày đến 17 tháng, có số ít trường hợp không điển hình phục hồi không hoàn toàn về mặt chức năng. Mặc dù hội chứng PRES ngày càng được nhận biết và được báo cáo trong y văn, tỉ lệ mới mắc của nó vẫn chưa được biết rõ. Chúng tôi báo cáo một ca lâm sàng về một sản phụ tiền sản giật biến chứng hội chứng PRES sau hậu sản sớm mỗ bắt con. TRAO ĐỔI HỌC TẬP 95 CA LÂM SÀNG Bệnh nhân nữ, 32 tuổi, con lần hai, thai 39 tuần, nhập viện vì đau bụng và ra huyết âm đạo. Mạch: 82 lần/ phút, huyết áp 146/96 mmHg. Bệnh nhân không đau đầu, không mờ mắt. Xét nghiệm: protein niệu (++), tiểu cầu 149.000/mm3. Bệnh nhận được chỉ định mổ bắt con do con to. 24 giờ sau mổ bắt con, bệnh nhân xuất hiện đau đầu nhẹ, hai mắt đột ngột nhìn mờ nặng. Mạch 85 lần/ phút, nhiệt độ 37oC, huyết áp 160/90 mmHg. Khám mắt: thị lực sáng tối (+) hai mắt, soi đáy mắt không phù gai thị. Khám thần kinh: Phản xạ ánh sáng (+) hai mắt. Không dấu thần kinh khu trú khác. Xét nghiệm tiểu cầu: 83.000/mm3, protein niệu/24 giờ: 0,57 g/l. D-Dimer: 588 ng/ml (BT<255). MRI sọ não có thuốc cản từ: Vùng nhân nền hai bên và phần vỏ thùy chẩm hai bên: tăng tín hiệu trên T2W, giảm trên T1W, bắt GADO, không bất thường trên Diffusion. CTA, CTV, MRV: bình thường. Lâm sàng và hình ảnh học phù hợp với PRES. Xử trí: Magne Sulphat 1,5gram 1 lọ TTM x 1 ngày, methyl prednison 40mg 1 ống/ ngày TM x 2 ngày, Deparkin chrono 500mg 2 viên/ ngày, Amlor 5mg 1 viên/ ngày, Aprovel 150mg 1 viên/ ngày. 24 giờ sau khởi phát triệu chứng mù mắt, hai mắt bệnh nhân bắt đầu cải thiện rõ, huyết áp ổn định mức 120/80mmHg. MRI sọ kiểm tra hậu sản ngày thứ 10: tổn thương nhân nền biến mất. Tổn thương chất trắng dưới vỏ ở thùy chẩm 2 bên giảm rõ rệt so với phim trước. Hậu sản ngày thứ 10, thị lực bệnh nhân cải thiện được 90% và bệnh nhân được ra viện. Đến hậu sản ngày 25, Bệnh nhân tái khám với thị Hình 1 Hình 2 Hình 3 Hình 1: Xung FLAIR trên MRI não có tăng tín hiệu thùy chẩm và nhân nền hai bên. Hình 2,3: MRI theo dõi sau đó 10 ngày và 25 ngày thấy tổn thương giảm và biến mất. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 96 lực mắt phải phục hồi hoàn toàn, mắt trái phục hồi 95% với triệu chứng có mây mờ nhẹ trước mắt. MRI sọ kiểm tra: bình thường. Các tình trạng đi kèm với PRES Bệnh não THA Tiền sản giật/ Sản giật Ghép tạng (tủy xương dị hợp, tạng đặc) Nhiễm trùng/Shock Hc suy đa cơ quan Hc đáp ứng viêm toàn thân Bệnh tự miễn : Lupus Ban Henoch-Schonlein Hc Guillain-Barre Đa nốt động mạch Viêm đa vi mạch Vẫy nến Xơ cứng hệ thống Bệnh cryoglobulin máu Bệnh vi mạch máu huyết khối Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối Hc ure máu ly giải hồng cầu Thiếu máu HC liềm Bệnh chuyển hóa Hạ Magie máu - Tăng Calci máu Hạ Natri máu - Hc ly giải khối u Bệnh thận Viêm cầu thận Viêm thận lupus Hc thận hư Ngộ độc : Nghiện rượu - Cocain Quá liều ephedra Các thuốc hóa trị, điều hòa miễn dịch, ức chế miễn dịch (Bevacizumab, cis- platin, combination chemotherapy, cyclosporine A, cytarabine, gemcitabine, interferon alpha, IvIg, ipilimumab, metho- trexate, rituximab, sirolimus, tacrolimus, zopanib, sorafenib, sunitinib,vincristine) Truyền máu Lọc máu/ erythropoietin Chất cản quang (chụp mạch vành, mạch não) Liệu pháp Triple-H (hypervolemia, hypertension,hemodilution) Midodrine Hydrogen peroxide BÀN LUẬN Bệnh nhân này xuất hiện triệu chứng tiền sản giật nặng (tức trong vòng 48 giờ sau sinh) do có các dấu chứng: Huyết áp 160/90 mmHg, protein niệu/24 giờ: 0,57 g/l, mù hai mắt, tiểu cầu: 83.000/ TRAO ĐỔI HỌC TẬP 97 mm3; mới có trong 48 giờ đầu sau sinh được gọi là tiền sản giật hậu sản sớm. Các bất thường ở mắt trong hội chứng PRES bao gồm bán manh, mất nhận thức thị lực, hoang tưởng ảo giác và mù mắt vỏ não. Mất thị lực thường phục hồi trong vòng 4 giờ đến 8 ngày sau điều trị. Hội chứng PRES có vùng tổn thương điển hình, thường gặp nhất là đính và chẩm (98%). Các vị trí không điển hình như thùy trán (68%), thái dương dưới (40%), bán cầu tiểu não (30%) và hạch nền (14%), thân não (13%), chất trắng sâu (18%), thể gối (10%) cũng có thể bị ảnh thưởng. Về hình ảnh học, điển hình trên MRI, PRES đặc trưng bởi phù do mạch, tăng tín hiệu T2 và FLAIR chủ yếu chất trắng não sau. Ngoài ra còn có các thể không điển hình như trên MRI như bắt thuốc cản từ, xuất huyết , tăng tín hiệu trên xung khuyết tán (phù độc tế bào) và giảm trên ADC, tổn thương một bên, vị trí ngoài vùng đình chẩm. Việc tăng tín hiệu trên cả T2 và DW1 có liên qua đến tiên lượng bệnh. DW1 tăng tín hiệu và ADC giả bình thường kèm theo nhồi máu não và có thể là dấu hiệu sớm của tính không phục hồi của quá trình phù mạch nặng dẫn đến phù độc tế bào. Ở bệnh nhân này vị trí tổn thương ngoài chẩm, còn có thêm vùng nhân nền và có bắt Gado nên được gọi là hội chứng PRES không điển hình. Khoảng 50-70% bệnh nhân PRES có THA trung bình- nặng và cải thiện nhanh triệu chứng với điều trị THA. THA ác tính khi có tổn thương các cơ quan đích . Bệnh nhân này có tổn thương não và triệu chứng thần kinh khu trú tương ứng nên được chẩn đoán THA ác tính. Tuy nhiên, 20-30% bệnh nhân hội chứng PRES có huyết áp bình thường lúc khởi bệnh. Bệnh nhân thai phụ và hậu sản có đau đầu và dấu thần kinh khu trú thường được chẩn đoán là tiền sản giật, tuy nhiên còn có các nguyên nhân khác cần cân nhắc như huyết khối xoang tĩnh mạch não và hội chứng co thắt mạch não có hồi phục vì chúng có triệu chứng lâm sàng giống nhau cần phải phân biệt bằng hình ảnh học. Trong huyết khối xoang tĩnh mạch não, MRV có khoảng trống dòng chảy do cục máu đông trong lòng mạch; CT tĩnh mạch vẫn nhạy dù không bằng MRV. Hội chứng co thắt mạch não có hồi phục với CTA và MRA điển hình dạng chuỗi hạt cườm của co thắt ĐM não; DSA thì nhạy hơn. Điều trị: Do đặc điểm lâm sàng đa dạng và thông tin về hội chứng PRES chưa đầy đủ nên các khuyến cáo về điều trị hội chứng PRES còn hạn chế. Triệu chứng lâm sàng luôn cải thiện sau khi điều trị THA. Kiểm soát HA là yếu tố quan trọng để ngừa các biến chứng thần kinh không hồi phục. Đối với THA ác tính thì mục tiêu ban đầu là hạ HA tâm trương về mức 100-105 mmHg trong vòng 2-6 giờ, với nguyên tắc hạ không quá 25% giá trị HA hiện TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 10 - 6/2017 98 tại. Hạ HA quá nhanh có thể dẫn đến thiếu máu ( não hay mạch vành). Đối với trường hợp THA khác, việc hạ áp cũng được khuyến cáo nhưng không cụ thể như trong THA ác tính. Dựa vào triệu chứng lâm sàng và huyết áp trước đây của bệnh nhân mà thận trọng giảm dần khoảng 10-25% phần tăng lên của HA trung bình. Xử trí THA trong 24 giờ đầu nhồi máu não cấp có khác biệt so với hội chứng PRES: Phải hạ HA < 185/110 mmHg trước điều trị tTPA tĩnh mạch; trường hợp không dùng rTPA tĩnh mạch, chỉ hạ HA khi HA ≥ 220/120 mmHg hoặc có nhồi máu cơ tim kèm theo. Nên sử dụng thuốc hạ áp đường tĩnh mạch dễ chỉnh liều như labetalol và nicardipine. Nitroprusside (nitroglycerin) còn gây tranh cãi do có thể làm nặng thêm hội chứng PRES do cơ chế TALNS đảo nghịch bởi dãn mạch. Do đó chỉ dùng nitropruside khi không có nicardipine và labetalol hoặc có chống chỉ định hoặc tác dụng phụ. Thuốc hạ áp đường uống thường có thời gian bắt đầu tác dụng chậm và không cho hiệu quả ổn định trong việc đưa HA về mức thích hợp nhằm ngăn ngừa và điều trị hội chứng PRES. Về điều trị co giật, bệnh nhân nên dùng thuốc phenytoin. trừ trường hợp sản giật thì ưu tiên dùng Magne sulfat do thuốc chống động kinh có thể ảnh hưởng đến chức năng nhau thai và sức khỏe thai. Giảm liều thuốc chống co giật kiểu bậc thang khi triệu chứng và hình ảnh học thần kinh biến mất, thường sau 1-2 tuần. Loại bỏ các tác nhân gây ra hội chứng PRES. Bệnh nhân này mặc dù chỉ được dùng thuốc hạ áp đường uống nhưng huyết áp đã về mức bình thường phù hợp với hướng dẫn. Bệnh nhân không cần thiết phải dùng Magne sulfat do thai và nhau đã được lấy ra khỏi cơ thể mẹ mà chỉ cần dùng thuốc chống động kinh uống là được. Methyl prednisone không được khuyến cáo do nguy cơ gây THA, giữ nước và rối loạn điện giải cũng như y văn ghi nhận trường hợp điều trị corticoid liều cao trong Xơ cứng rải rác làm xuất hiện hội chứng PRES. Hội chứng PRES thường có tiên lượng lành tính. Hội chứng PRES phục hồi hoàn toàn trong khoảng thời gian vài ngày đến vài tuần sau khi cắt yếu tố khởi phát và điều trị THA kịp thời. Phục hồi về mặt hình ảnh học chậm hơn lâm sàng. Các yếu tố tiên lượng nặng như: Tăng creatinin máu, tổn thương lan rộng, đặc biệt là thân não, tăng tín hiệu Difusion và giảm ADC. Bệnh nhân này cải thiện hình ảnh học hoàn toàn và hồi phục triệu chứng mờ mắt gần hoàn toàn. KẾT LUẬN Đây có thể gọi đây là trường hợp PRES đầu tiên được chẩn đoán tại bệnh viện 175. Hội chứng PRES không chỉ liên quan đến khoa thần kinh mà còn liên quan đến rất nhiều các chuyên khoa khác. Việc chẩn đoán nhanh có TRAO ĐỔI HỌC TẬP 99 thể ngăn ngừa biến chứng tổn thương không hồi phục như xuất huyết não, nhồi máu não. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng và hình ảnh học với đặc trưng là phù mạch ở đính chẩm hai bên (tăng tín hiệu trên T2 và T2 FLAIR, không thay đổi trên DWI) và phục hồi hoàn toàn sau vài ngày đến vài tuần nếu chẩn đoán sớm và điều trị hạ áp thích hợp. Dù bệnh nhân này phục hồi hoàn toàn về hình ảnh học và gần hoàn toàn về triệu chứng nhưng cũng cần rút kinh nghiệm trong vấn đề xử trí như nên dùng thuốc hạ HA tĩnh mạch và không có khuyến cáo dùng corticoid trong hội chứng PRES. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hinchey J, Chaves C, Appignani B, Breen J,Pao L, Wang A, et al. (1996) A reversible posterior leukoencephalopathy syndrome. N Engl J Med 1996;334:494-500 2. Matthys LA, Coppage KH, Lambers DS, BartonJR, Sibai BM. (2004) Delayed postpartum preeclampsia:An experience of 151 cases. Am J Obstet Gynecol 2004;190:1464-6. 3. Lee VH, Wijdicks EF, Manno EM, Rabinstein AA. (2008) Clinical spectrum of reversible posterior leukoencephalopathy syndrome. Arch Neurol;65:205-10. 4. Bartynski WS.(2008) Posterior reversible encephalopathysyndrome, part 2: Controversies surrounding pathophysiology of vasogenic edema. AJNR AmJ Neuroradiol 2008;29:1043-9. 5. Bartynski WS, Boardman JF.(2007) Distinct imagingpatterns and lesion distribution in posterior reversible encephalopathy syndrome. AJNR Am JNeuroradiol 2007;28:1320-7. 6. Rohana Naqi, Humera Ahsan, Muhammad Azeemuddin (2010). Case Report: Posterior reversible encephalopathy syndrome: A case series in patients with Eclampsia. J Pak Med Assoc. Vol. 60, No. 5, May 2010. 7. Ülkü Mete Ural, Gülsah Balik, Fenol Fentürk, IGJk Üstüner, ULur ÇobanoLlu, and Figen KJr Fahin.(2014) Case report: Posterior reversible encephalopathy syndrome in a postpartum preeclamptic woman without seizure. Case Reports in Obstetrics and Gynecology, Vol 2014. 8. Ritesh Kauntia, Rohith Valsalan, Shubha Seshadri, Vinay R Pandit, M. M. Prabhu (2009). Case reports:Late postpartum preeclampsia with posterior reversible encephalopathy syndrome. Indian J Med Sci, Vol. 63, No. 11, November 2009. 9.Phyllis August (2017). on in pregnant and postpartum women. Uptodate.com. Mar 16, 2017. 10. Terry A Neill. (2015) Reversible posterior leukoencephalopathy syndrome. Uptodate.com. Apr 29. 10.J. Finsterer, T. Schlager, W. Kopsa, E. (2003) Wild.Nitroglycerin-aggravated pre-eclampticposterior reversible encephalopathy syndrome.Neurology; 61:715-2.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_hoi_chung_pres_o_thai_phu_tien_san_giat.pdf

