Nhân một trường hợp điều trị ngoại khoa ung thư vú xâm lấn rộng
Một số ý kiến bàn luận nhân một trường hợp ung thư vú xâm lấn rộng được phẫu
thuật cắt bỏ khối u và tái tạo khuyết hổng thành ngực với sự phối hợp đa chuyên khoa.
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp điều trị ngoại khoa ung thư vú xâm lấn rộng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp điều trị ngoại khoa ung thư vú xâm lấn rộng
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 99 TÓM TẮT BỆNH ÁN: Bệnh nhân: Lê Thị Thu Ng. Năm sinh: 1956; Giới tính: nữ. Số bệnh án: 14.31.701 Vào viện: 4/11/2014 Chuyển khoa: 30/12/2014 Lý do vào viện: Khối xùi loét vú trái. Bệnh sử: Bệnh khởi phát cách 2 năm: Tháng 01/2013 do có cảm giác đau bất thường vùng ngực trái, tự sờ nắn, phát hiện 1 khối cứng cỡ vài cm3 trong tổ chức vú trái. Sau đó được chẩn đoán qua siêu âm: “khối tổ chức trong tuyến vú trái, 2x3 cm”. Bệnh nhân tự điều trị bằng thuốc Nam. Khối u phát triển lớn dần, xâm lấn ra da, xùi loét, chảy mủ, mùi hôi, đau tăng lên nhiều, người suy nhược, yếu mệt, sút cân. Tháng 11/2014 đến khám và điều trị tại Trung tâm Chẩn đoán và điều trị ung thư, Bệnh viện quân y 175. Tiền sử: Mãn kinh cách 10 năm Khám thực thể: Hạch nách 2 bên: cứng chắc, dính Tay trái phù nề Tại chổ: Khối tổ chức sùi, loét, kích thước 18 x18 cm, chiếm gần hoàn toàn vú trái, đáy có nhiều tổ chức hoại tử, phủ giả mạc, dịch mủ nhiều, mùi rất thối (Hình 1). Cận lâm sàng: CT Scanner: u vú trái, kích thước lớn, xâm lấn khối cơ thành ngực, nách trái NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UNG THƯ VÚ XÂM LẤN RỘNG Huỳnh Văn Tuấn1, Đỗ Mạnh Hiếu1, Trần Hồng Quang1, Nông Hữu Thọ1 TÓM TẮT Một số ý kiến bàn luận nhân một trường hợp ung thư vú xâm lấn rộng được phẫu thuật cắt bỏ khối u và tái tạo khuyết hổng thành ngực với sự phối hợp đa chuyên khoa. SURGICAL TREATMENT OF EXTENSIVE INVASIVE BREAST CANCER – A DISCUSSION ON THE OCCASION OF A CASE SUMMARY A case report of extensive invasive breast cancer who was operated to remove the tumor and then reconstruct the wall chest defect with multidisciplinary collaboration approach. (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Huỳnh Văn Tuấn ([email protected]) Ngày nhận bài: 13/3/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 09/5/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 100 Siêu âm: hạch nách (+) cả 2 bên Xạ hình xương: chưa thấy bất thường Giải phẫu bệnh: Carcinoma ống tuyến vú, xâm lấn cơ ngực lớn bên trái, dạng NOS, grade 3, di căn hạch cấp 1 cả 2 bên. Chẩn đoán: Ung thư vú trái T4N2M0 Điều trị: (phần ngoại khoa) Phẫu thuật lần 1 (13/11/2014): Kíp mổ chuyên khoa ngoại lồng ngực Cắt bỏ toàn bộ tuyến vú trái theo phương pháp Patey, cắt bỏ phần cơ ngực đã bị xâm lấn. Kích thước khối tổ chức cắt bỏ: 15x20x25 cm (Hình 2). Nạo vét hạch nách cấp 1 và 2 bên trái, cắt hạch nách cấp 1 bên phải Để hở vết thương thành ngực Hậu phẫu: Sử dụng liệu pháp áp lực âm (áp suất -120 mmHg, chế độ hút liên tục trong 24 giờ đầu, sau đó chuyển sang chế độ xung) để chuẩn bị giường vết thương, Sau 10 ngày (23/11/2014) tổ chức hạt phát triển đỏ đẹp, kích thước khuyết hổng giảm từ 15x20 cm xuống còn 14x16 cm. Vùng nách trái chưa được lấp đầy hoàn toàn. Phẫu thuật lần 2 (24/11/2014): Kíp mổ chuyên khoa phẫu thật tạo hình Che phủ khuyết hồng thành ngực bằng xoay trượt vạt thuần da ngực - bụng cuống nuôi phía ngoài, với phần mở rộng V-Y vùng bụng dưới. Kích thước vạt 11x16 cm, không tính phần mở rộng V-Y (Hình 3 và 4). Diễn biến sau mổ: Sung huyết tĩnh mạch góc trên vạt xuất hiện ngay trong mổ (Hình 4). Xử trí: từ lần thay băng đầu tiên vào ngày thứ 2 sau mổ, tiêm dưới da tại chỗ heparin trọng lượng phân tử thấp (lovenox), liều 40 mg chia 2 lần/ngày. Tình trạng xung huyết giảm dần, đến phục hồi hoàn toàn. Tác dụng ngoại ý do dùng heparin: máu tụ khu trú dưới vạt, xuất hiện muộn (ngày thứ 7 sau mổ). Xử trí: nặn ép máu tụ qua mép vết mổ (2 lần). Khối máu tụ thu xếp hoàn toàn. Vài ổ sung huyết tĩnh mạch nhỏ (0,5- 1,5 cm2/ổ) dọc mép và góc dưới vạt (phần mở rộng) xuất hiện muộn, từ ngày thứ 9 sau mổ, tiến triển thành hoại tử trung bì nông. Đã xử trí: săn sóc vết thương, lành kỳ 2 Khoang trống nhỏ (vài cm3) bên dưới góc trên vạt (vùng nách) gây xuất tiết dịch; xử trí bằng liệu pháp áp lực âm cho đến khi được lấp đầy hoàn toàn. Kết quả chung sau cùng: Toàn bộ khuyết hổng thành ngực đã được che phủ hoàn toàn bằng vạt da (Hình 5). Bệnh nhân được chuyển trở lại Trung tâm Chẩn đoán và điều trị ung thư để tiếp tục điều trị bằng hóa chất. BÀN LUẬN 1. Thời điểm tiến hành phẫu thuật tái tạo Có thể đóng khuyết hổng thành ngực trong cùng một thì với phẫu thuật cắt tổ chức ung thư. Trong xu thế phát triển của chuyên ngành ngoại khoa ung bướu, với việc ứng dụng ngày càng phổ biến các kỹ thuật oncoplasty – kết hợp các nguyên tắc của phẫu thuật ung thư và phẫu thuật tạo hình, ở những bệnh nhân chọn lọc (tỷ lệ kích thước khối u/tuyến vú không quá lớn, giai đoạn u không quá muộn, bệnh nhân có nhu cầu và khả năng, v.v.), có thể kết hợp cắt tổn thương và tái tạo vú ngay tập tức bằng các kỹ thuật thích hợp, mang lại kết quả điều trị có chất lượng cao về thẩm mỹ, kinh tế trong khi vẫn đảm bảo hiệu quả loại TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 101 trừ tổ chức ung thư, cứu sống tính mạng. Tuy nhiên, ở bệnh nhân này, cân nhắc một số chi tiết, chúng tôi lựa chọn chiến thuật 2 thì, trì hoãn đóng khuyết hổng thành ngực một thời gian để chuẩn bị tốt giường vết thương. Thứ nhất, khối u của bệnh nhân đã ở giai đoạn muộn, khối u đã xâm lấn vào khối cơ thành ngực, lan tràn ra da thành ngực xung quanh tuyến vú, di căn hạch nách ở cả 2 bên. (Với ung thư giai đoạn IV, các kỹ thuật oncoplasty là chống chỉ định). Thứ hai, kích thước khối u quá lớn, toàn bộ tuyến vú trái hầu như đã bị tổ chức ung thư xâm lấn. Thứ ba, khối ung thư loét xùi, phá hủy tổ chức, xuất tiết nhiều dịch, mủ, bốc mùi rất thối, gợi ý một tình trạng nhiễm trùng thứ phát. Với những đặc điểm này, chúng tôi cho rằng giải pháp trì hoãn, đóng khuyết hổng sau một giai đoạn chuẩn bị, sẽ bảo đảm kết quả tốt hơn. Qua săn sóc, theo dõi vết thương sau cắt ung thư, chúng tôi sẽ có thể khẳng định chắc chắn tổ chức ung thư đã được loại bỏ triệt để, về đại thể, hay chưa. Tình trạng nhiễm trùng cũng sẽ được kiểm soát trước khi tiến hành tạo hình che phủ, giảm thiểu nguy cơ xảy ra các biến chứng như nhiễm trùng, toác hở vết mổ, mất vạt Lựa chọn chiến thuật 1 thì hay 2 thì tùy thuộc vào tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân và kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên. 2. Liệu pháp áp lực âm và vai trò của nó trong chuẩn bị giường vết thương Phương pháp truyền thống để chuẩn bị cho phẫu thuật đóng vết thương kỳ 2 là săn sóc, thay băng hằng ngày với một số lựa chọn về thuốc tại chỗ và chất liệu băng. “Liệu pháp áp lực âm” là một phuơng pháp điều trị không dùng thuốc để hỗ trợ, thúc đẩy lành vết thương. Nhiều tài liệu tham khảo cho rằng đây là một khái niệm “tương đối mới” trong lĩnh vực săn sóc và điều trị vết thương [4, 9, 10] và mốc thời gian ra đời của nó là vào đầu những năm 1990 do công của Argenta và Morykwas với công bố đầu tiên được đăng trong tạp chí Annals of Plastic Surgery năm 1997. [7, 9] Một vài tài liệu xác định mốc ra đời của liệu pháp sớm hơn, vào năm 1987; và người đầu tiên sử dụng phương pháp này là Fleischmann.[4, 10] Tuy nhiên, theo Dani- no và cộng sự (CS),[3], điều trị vết thương với áp lực âm có nguồn gốc lịch sử xa hơn rất nhiều. Trước Argenta và Moryk- vas, cũng như Fleischmann rất lâu, đã có nhiều người sử dụng áp lực âm trong săn sóc điều trị vết thương. Cùng quan điểm với Danino và CS, Kubek và CS [5] cho rằng liệu pháp áp lực âm đã được ghi chép trong lịch sử Hy lạp sớm nhất là năm 400 trước công nguyên. Với nhiều ưu điểm nỗi bật, liệu pháp áp lực âm đã và đang được quan tâm sử dụng ngày càng nhiều, trở thành một công cụ phổ biến để điều trị nhiều dạng vết thương ở tất cả các chuyên ngành ngoại khoa [7, 9]. Liệu pháp đã làm thay đổi chiến thuật điều trị các vết thương, cả cấp tính lẫn mạn tính. Ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh đây là một phương thức hiệu quả để điều trị những vết thương mãn tính và khó (khuyết tổ chức rộng, vết thương hỏa khí, máu tụ, ô nhiễm, nhiễm trùng, khi có các tổn kết hợp nặng hoặc có bệnh kèm theo,). [4] Có thể dùng kỹ thuật như một liệu pháp bổ sung trước hoặc sau phẫu thuật hoặc như một cách thay thế cho phẫu thuật ở những bệnh nhân quá suy nhược. Trong che phủ vết thương, ở những TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 102 trường hợp chưa bảo đảm đóng ngay, như vết thương dập nát, ô nhiễm, nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc vết thương mạn tính, liệu pháp áp lực âm có thể đóng vai trò như một giai đoạn trung gian. [10] Những ích lợi đã được chứng minh của liệu pháp là: [4, 10] - Tăng tuần hoàn đến giường vết thương - Thúc đẩy nhanh phát triển tổ chức hạt - Giảm thiểu nhiễm trùng - Giảm kích thước khuyết hổng - Giảm đau đớn do thay băng, săn sóc vết thương, tăng tiện ích cho bệnh nhân - Giảm thời gian, công sức cho nhân viên y tế. Cơ chế chính xác giúp liệu pháp áp lực âm thúc đẩy quá trình liền vết thương hiện vẫn còn chưa được hiểu rõ [9]. Một số cơ chế đã được đề cập: [3, 7, 9, 10] 2.1 Loại bỏ dịch dư thừa ở khoang kẽ Với các vết thương mạn tính và một số vết thương bán cấp và cấp tính, có tụ dịch ở khoang kẽ tổ chức xung quanh vết thương, gây chèn ép cơ học vi mạch và hệ thống bạch mạch; tăng hậu tải mao mạch và tĩnh mạch, qua đó gây cản trở việc cung cấp oxy, các chất dinh dưỡng, cũng như việc thải loại các yếu tố ức chế và độc tố. Trong thành phần của dịch tiết vết thương cũng chứa nhiều yếu tố ức chế, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình liền vết thương như các phụ phẩm độc hại của đáp ứng miễn dịch, các enzym matrix metalloproteinases (collagenases, elastases,). Liệu pháp áp lực âm giúp loại bỏ lượng dịch dư thừa ở khoang kẽ, khu vực tiếp giáp với vết thương, giảm phù nề, căng cứng tổ chức, giảm hậu tải mao mạch, thúc đẩy tuần hoàn mao mạch tốt hơn, đồng thời thải loại tích cực các yếu tố độc hại đối với quá trình liền vết thương. 2.2 Tăng cấp máu kết hợp với giảm tập trú vi khuẩn Đi kèm với tăng tưới máu và tốc độ hình thành tổ chức hạt, có sự giảm đáng kể tập trú vi khuẩn. Gia tăng tuần hoàn tại chổ và nồng độ oxy giúp tăng sức đề kháng của tổ chức đối với nhiễm trùng và giảm nguy cơ tập trú vi khuẩn kỵ khí, một yếu tố làm chậm lành vết thương đã được biết rõ. 2.3 Đáp ứng của tổ chức xung quanh vết thương đối với các lực cơ học Áp lực âm làm cho miếng bọt xốp móp lại. Lực tạo ra được truyền đến toàn bộ bề mặt vết thương tiếp xúc với tấm bọt xốp. Đáp ứng lại với lực cơ học tác động, tốc độ phân bào sẽ tăng lên, các mạch máu mới được tân tạo và các tổ chức lân cận được huy động. Liệu pháp áp lực âm tác động lực đồng đều đến mọi điểm trên bề mặt vết thương một cách có kiểm soát. Về lý thuyết, liệu pháp áp lực âm có thể xem như là một phương pháp kết hợp được những lợi ích của cả hai phương pháp kín (tạo môi trường ẩm) và mở (loại bỏ tích cực các mảnh vụn hoại tử và dịch vết thương dư thừa) trong điều trị vết thương. [4] Những nhược điểm cơ bản của liệu pháp là giá thành điều trị còn tương đối cao, có thể gây bất tiện và thậm chí đau đớn cho bệnh nhân, đặc biệt trong và ngay sau mỗi lần thay băng. Liệu pháp áp lực âm chỉ mang lại hiệu quả tại chỗ, các tổn thương nhiễm trùng nằm xa bề mặt vết thương là ngoài tầm với của liệu pháp. [4] 3. Lựa chọn kỹ thuật tái tạo Tái tạo khuyết hổng thành ngực sau phẫu thuật cắt bỏ các khối ung thư vú xâm TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 103 lấn rộng hoặc tái phát đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các phẫu thuật viên chuyên khoa lồng ngực, phẫu thuật tạo hình và ung bướu. [2, 8] Những mục tiêu cơ bản nhất của tái tạo là che phủ các cấu trúc quan trọng bị lộ hở, tránh rối loạn chức năng hô hấp và đảm bảo cho vết thương lành kịp thời, để tránh chậm trễ việc triển khai sử dụng các liệu pháp điều trị ung thư bổ sung. Mục tiêu của tái tạo cũng có thể là nhằm tăng chất lượng sống cho bệnh nhân thông qua việc giúp giảm nhẹ các vấn đề vệ sinh do các khối u lớn và (hoặc) hoại tử gây ra. Những mục tiêu cao hơn như duy trì hoặc khôi phục hình thể, cải thiện về thẩm mỹ, cũng cần được cố gắng khi có điều kiện. [6, 8] Để chọn lựa được kỹ thuật phù hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể cần cân nhắc đến nhiều yếu tố như kích thước và thành phần bị tổn khuyết; khả năng huy động tổ chức cho; tình trạng tổ chức nhận; tiên lượng khả năng sống sót, nguyện vọng, khả năng chấp nhận những yêu cầu khắt khe của các phẫu thuật tái tạo vú phức tạp và thường phải trải dài qua nhiều thì mổ; điều kiện kinh tế của bệnh nhân,... [1] Nếu khuyết hổng thành ngực chỉ giới hạn trong phạm vi da và tổ chức dưới da, ghép da có thể là một lựa chọn để cân nhắc. Tuy nhiên, đây là một giải pháp tái tạo có chất lượng thấp: ở một chừng mực nhất định, các mảnh da ghép sẽ gây co kéo thành ngực; lớp che phủ mỏng, ít bền vững; kết quả thẩm mỹ kém so với các vạt có mạch nuôi. Nếu giường ghép đã bị chiếu xạ, khả năng bám sống của mảnh ghép có thể bị suy giảm. Với những khuyết hổng quá rộng, có thể sử dụng ghép da như một biện pháp bổ trợ - các mảnh da ghép hoặc được đặt trực tiếp lên bề mặt cơ của các vạt cơ (ngực to, lưng to,), hoặc sử dụng với vạt mạc nối để che phủ lại thành ngực. [1, 2] Chất lượng tái tạo không cao của ghép da đã thúc đẩy sự phát triển của một loạt các vạt trong gần 40 năm qua.[8] Theo truyền thống, một số vạt tại chỗ và lân cận có thể được dùng để che phủ các khuyết hổng thành ngực như vạt lưng to, vạt ngực lớn, vạt thẳng bụng, vạt chéo ngoài, vạt mạc nối (kết hợp với ghép da xẻ đôi), [2] Ưu tiên chọn vạt nào để sử dụng sẽ tùy thuộc vào những cân nhắc giải phẫu, độ tin cậy, mức độ đơn giản trong kỹ thuật lấy và chuyển vạt, v.v. Suốt một thời gian dài các vạt cơ và da-cơ được xem là chuẩn vàng, nhưng các vạt da đơn thuần cũng đã được chứng minh là hữu ích trong tái tạo thành ngực. Do có rất ít những nghiên cứu so sánh, không thể rút ra bất kỳ kết luận nào về tính ưu việt của các vạt da cơ so với vạt da cân trong tái tạo thành ngực.[8] Nhất trí với gợi ý “vạt da cân ngực - bụng nên được sử dụng như một lựa chọn đầu tiên” của Deo và CS (2003), năm 2006, Persichetti và CS [8] đã giới thiệu kỹ thuật che phủ những khuyết hổng thành ngực rộng bằng vạt thuần da ngực - bụng. Theo các tác giả, mặc dù có vài nhược điểm như có sẹo sau mổ dài, không cho phép tái tạo vú ngay, cản trở sử dụng vạt da cơ thẳng bụng kiểu ngang sau này, kỹ thuật là một lựa chọn hợp lý trong một số trường hợp chọn lọc, với nhiều ưu điểm rất đáng quan tâm: tương đối đơn giản, một thì, thời gian mổ nhanh. Kinh nghiệm của họ đã khẳng định khả năng sống của vạt ngực - bụng vẫn được bảo đảm tốt với phẫu tích hoàn toàn theo nền dưới da, không cần phải hy TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 104 sinh cơ hoặc cân, nhờ đó giảm thiểu tổn thương chỗ cho, không gây suy giảm cơ năng thành bụng; có thể lấy vạt với kích thước lớn, cung xoay của vạt rộng, tầm với có thể đến tận khoảng liên sườn 2, cho phép che phủ những khuyết hổng rộng đến 600 cm2. Ngoài ra, màu sắc, cấu trúc của da thành ngực sau khi được che phủ tương hợp hoàn hảo, không cần thay đổi tư thế bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật, có thể khâu đóng trực tiếp khuyết hổng chổ cho vạt mà không làm di lệch nhiều vị trí của rốn. Kết quả qua 18 bệnh nhân của các tác giả cho thấy kỹ thuật tái tạo thành ngực bằng vạt thuần da ngực - bụng có tỷ lệ biến chứng thấp, hồi phục sau mổ nhanh, thuận lợi cho việc triển khai các liệu pháp điều trị ung thư bổ trợ. Họ cho rằng kỹ thuật này thích hợp cho những bệnh nhân ung thư vú tiến triển có tiên lượng xấu, khuyết hổng thành ngực rộng, hoại tử do xạ hoặc không có nguyện vọng tái tạo ngay vú đã mất Chúng tôi chọn kỹ thuật tái tạo bằng vạt thuần da ngực - bụng cho trường hợp này sau khi cân nhắc các yếu tố tiên lượng: bệnh lý ung thư đã ở giai đoạn tương đối muộn, khối u có kích thước lớn, đã xâm lấn rộng ra da và vào một phần cơ ngực lớn, đã có di căn hạch nách ở cả hai bên, bệnh nhân không có đủ điều kiện kinh tế để tái tạo ngay vú đã cắt. Về chi tiết, chúng tôi không hoàn toàn thực hiện theo kỹ thuật mà Persichetti đã mô tả. Theo khuyến cáo cho kỹ thuật tái tạo thành ngực bằng vạt da cơ chéo ngoài của Moschella [6], để việc khâu đóng khuyết hổng thành bụng sau khi xoay trượt vạt được thuận lợi hơn, chúng tôi đã tích hợp thêm một phần mở rộng hình chữ V da thành bụng dưới rốn vào vạt. KẾT LUẬN Phối hợp đa chuyên khoa: Ung bướu, phẫu thuật lồng ngực và phẫu thuật tạo hình cho phép điều trị tích cực những trường hợp ung thư vú tiến triển xâm lấn tại chỗ rộng - vừa đảm bảo cắt đủ rộng tổ chức bệnh lý theo yêu cầu của ung thư học, vừa bảo đảm che phủ thỏa đáng các khuyết hổng thành ngực, có thể là rất rộng, sau cắt. Thời điểm tiến hành che phủ khuyết hổng thành ngực tùy thuộc vào tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân và kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên. Liệu pháp áp lực âm có thể hổ trợ tích cực cho giai đoạn chuẩn bị giường vết thương trước tái tạo. Cần cân nhắc nhiều yếu tố để chọn lựa phương pháp tái tạo tối ưu cho từng trường hợp cụ thể. Với những bệnh nhân có tiên lượng xấu hoặc không có kế hoạch tái tạo vú ngay, xoay trượt vạt thuần da ngực - bụng là một kỹ thuật đơn giản, nhanh và chắc chắn để che phủ những khuyết hổng rộng thành ngực sau cắt lọc. / . Hình 1: Tổ chức ung thư xâm lấn rộng thành ngực, ngay trước phẫu cắt u TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 105 Hình 2: Khuyết hổng thành ngực ngay sau khi cắt khối u Hình 3: Ngay trước phẫu thuật tạo hình che phủ khuyết hổng Hình 4: Ngay sau phẫu thuật xoay trượt vạt thuần da ngực - bụng che phủ khuyết hổng Hình 5: Trước khi được chuyển khoa TÀI LIỆN THAM KHẢO 1. Beahm EK, Chang DW (2004) “Chest Wall Reconstruction and Ad- vanced Disease”; Semin Plast Surg. May;18(2):117-29. 2. Bogossian N, Chaglassian T, Rosenberg PH, Moore MP (1996). “Ex- ternal oblique myocutaneous flap cover- age of large chest-wall defects following resection of breast tumors”; Plast Reconstr Surg. Jan; 97(1):97-103. 3. Danino A. M. and Coeugniet E. (2008)“Negative Pressure Dressing: Some Background to a Monopole Business” (Letters to the Editor); Eplasty; 8: e6. 4. Fleischmann W, Becker U, Bischoff M, Hoekstra H. (1995) “Vacuum sealing: indication, technique, and results”; Eur J Orthop Surg Traumatol. Dec;5(1):37-40. 5. Kubek E; Badeau A, Materazzi S, Berlin N, Wormer B.A, Arton J.B, and Gu- runluoglu R. “Negative-pressure wound therapy and the emerging role of inci- sional negative pressure wound therapy as prophylaxis against surgical site infec- tions”, Chapter: Clinical Microbiology - Strengthening the Immune System - Pub- TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 106 lic Health, Page 1833 – 1846. 6. Moschella F, Cordova A. “A new extended external oblique musculocutane- ous flap for reconstruction of large chest- wall defects”; Plast Reconstr Surg. 1999 Apr;103(5):1378-85. 7. O’Connor J, Kells A, Henry S, Sca- lea T. “Vacuum-Assisted Closure for the Treatment of Complex Chest Wounds”; Ann Thorac Surg 2005 Apr;79(4):1196- 200. 8. Persichetti P, Tenna S, Cagli B, Scuderi N. “Extended cutaneous ‘tho- racoabdominal’ flap for large chest wall reconstruction”; Ann Plast Surg. 2006 Aug;57(2):177-83. 9. Scherer SS, Pietramaggiori G, Mathews JC, Prsa MJ, Huang S, Orgill DP. “The mechanism of action of the vac- uum-assisted closure device”, Plast Re- constr Surg. 2008 Sep;122(3):786-97. 10. Wu S.H., Zecha P.J., Feitz R., Hov- ius S.E.R. “Vacuum therapy as an inter- mediate phase in wound closure: a clini- cal experience”, Eur J Plast Surg (2000) 23:174–177.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_dieu_tri_ngoai_khoa_ung_thu_vu_xam_lan_r.pdf

