Nhân một trường hợp đái huyết cầu tố nghi do thiếu men G6PD
Thiếu men Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) là một bệnh di truyền khá
phổ biến ở một số vùng nhất định ở châu Á, châu Phi và Địa Trung Hải. Tình trạng bệnh
thiếu G6PD gây ảnh hưởng đến sức bền hồng cầu, khiến cho những bệnh nhân này dễ
bị tan vỡ hồng cầu hay còn gọi là tan máu. Những triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân
thiếu men G6PD là tình trạng thiếu máu và đái huyết cầu tố xảy ra khi tế bào hồng cầu
bị phá vỡ nhanh hơn rất nhiều lần so với sinh lý bình thường. Nghiên cứu này mô tả một
bệnh nhân nam 22 tuổi thiếu men G6PD và có đái huyết cầu tố
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp đái huyết cầu tố nghi do thiếu men G6PD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp đái huyết cầu tố nghi do thiếu men G6PD
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 66 TÓM TẮT: Thiếu men Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) là một bệnh di truyền khá phổ biến ở một số vùng nhất định ở châu Á, châu Phi và Địa Trung Hải. Tình trạng bệnh thiếu G6PD gây ảnh hưởng đến sức bền hồng cầu, khiến cho những bệnh nhân này dễ bị tan vỡ hồng cầu hay còn gọi là tan máu. Những triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân thiếu men G6PD là tình trạng thiếu máu và đái huyết cầu tố xảy ra khi tế bào hồng cầu bị phá vỡ nhanh hơn rất nhiều lần so với sinh lý bình thường. Nghiên cứu này mô tả một bệnh nhân nam 22 tuổi thiếu men G6PD và có đái huyết cầu tố. *Từ khóa: Thiếu men G6PD, đái huyết cầu tố và thiếu máu tan máu. CASE REPORT: HEMOGLOBINURIA IN A PATIENT WITH G6PD DEFICIENCY ABSTRACT: Glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency is a genetic disorder that occurs most frequently in certain parts of Africa, Asia, and the Mediterranean. This condition mainly affects red blood cells. In affected individuals, a defect in an enzyme called glucose-6-phosphate dehydrogenase causes red blood cells to break down prematurely, which is called hemolysis. The common medical problem associated with glucose-6- phosphate dehydrogenase deficiency is hemolytic anemia and hemoglobinuria, which occur when red blood cells are destroyed faster than the body can replace them. The present study describes the 22 – year – old man with G6PD deficiency involving hemoglobinuria. *Key words: Glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency, hemoglobinuria, and hemolytic anemia. NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐÁI HUYẾT CẦU TỐ NGHI DO THIẾU MEN G6PD Nguyễn Chí Thắng*, Vũ Đức Trung** * Bệnh viện Quân y 175 ** Sư đoàn 9, QĐ4 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Chí Thắng (Email: [email protected]) Ngày gửi bài: 10/9/2015. Ngày phản biện đánh giá: 16/9/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 67 ĐẶT VẤN ĐỀ Thiếu men Glucose – 6 – photphat dehydrogenase là một bệnh di truyền làm rối loạn về enzym phổ biến nhất trên thế giới. Một số dân tộc ở miền Nam Việt Nam tỉ lệ này là 11,3% [3]. Đó là tình trạng người bệnh không đủ enzyme glucose-6- phosphate để giúp tế bào hồng cầu hoạt động bình thường. Người bệnh dễ bị dị ứng nặng khi ăn đậu tằm hoặc sử dụng một số dược phẩm, hóa chất có tính ôxy hóa. G6PD là một enzyme nội bào, cấu trúc gồm 515 acid amin, trọng lượng phân tử 59000 dalton, có vai trò xúc tác cho phản ứng hóa học: D-glucose 6-phosphate + NADP+ 6-phospho-D-glucono-1,5- lactone + NADPH + H+. Enzyme này là chất xúc tác cho con đường pentose phosphate, tạo nicotinamide adenine dinucleotide phosphate hydro (NADPH) từ nicotinamide adenine dinucleotide phosphate (NADP) . NADPH đóng vai trò duy trì nồng độ của glutathione trong các tế bào, giúp bảo vệ các tế bào này khỏi sự phá hủy của các tác nhân oxy hóa. Hồng cầu không tạo được NADPH bằng bất cứ con đường nào khác, cho nên khi thiếu G6PD, chúng rất dễ bị phá hủy bởi các chất có tính oxy hóa [1]. Tế bào hồng cầu có thể bị phá hủy và gây ra tình trạng tan máu cấp nếu bệnh nhân thiếu men G6PD mắc phải một số bệnh nhiễm trùng, căng thẳng quá mức, một số loại thức ăn (như đậu fava ), và một số loại thuốc có tính oxy hóa bao gồm: thuốc chống sốt rét, Aspirin, Nitrofurantoin, thuốc chống viêm giảm đau non – steroid, nhóm quinin, Sulfamid và một số hóa chất khác chẳng hạn băng phiến cũng có thể gây bùng phát cơn bệnh [4], [5]. Bệnh thường xảy ra ở nam nhiều hơn nữ. Theo Denish Bwayo và cộng sự thì tỉ lệ này là 53,5% ở nam so với 46,5% ở nữ [2]. Chẩn đoán thiếu men G6PD được thực hiện bằng phân tích định lượng đo ánh sáng quang phổ, thường hơn là test nhanh huỳnh quang phát hiện sự tạo NADPH từ NADP. Chẩn đoán này dương tính nếu mẫu máu không phát quang dưới ánh sáng tia cực tím. Phương pháp PCR (polymerase chain reaction) được dùng để phát hiện những đột biến cụ thể và được sử dụng cho tầm soát cộng đồng, nghiên cứu gia đình, hay chẩn đoán tiền sản. Trong nghiên cứu này chúng tôi mô tả một bệnh nhân nam 22 tuổi bị bệnh thiếu men G6PD, có tình trạng đái huyết cầu tố. Đồng thời chúng tôi tổng hợp y văn về sinh lý bệnh học của tan vỡ hồng cầu do thiếu men G6PD, cũng như bàn luận về chẩn đoán và phương pháp điều trị. GIỚI THIỆU CA BỆNH Bệnh nhân nam 22 tuổi, chưa từng có tiền sử đái huyết cầu tố, sốt rét. Cách vào viện 04 ngày, bệnh nhân xuất hiện sốt đột ngột, sốt nóng kèm gai rét, không rét run, đau mỏi người và vùng thắt lưng. Theo quân y đơn vị, BN được uống paracetamol, vitamin 3B. Sau đó vài tiếng bệnh nhân xuất hiện đi tiểu vàng đậm, rồi dần chuyển sang đi tiểu màu đen như nước cà phê, đồng thời da niêm mạc vàng đậm. Chuyển đến A4 – BV175 trong tình trạng còn sốt khoảng 380C, nước tiểu còn đen đậm. XN lúc vào: số lượng bạch cầu: 13000/mm3, số lượng hồng cầu: 2,44 triệu/ mm3, Hemoglobin: 8,5g/dl; số lượng tiểu cầu: 164000/mm3; men gan AST/ALT: 140,5/89,9U/l; Bilirubin toàn phần/trực tiếp: 207,75 /21,36umol/l. Xét nghiệm kí TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 68 sinh trùng sốt rét (KSTSR) (-), nước tiểu hồng cầu +++, men G6PD: 1.2U/gHb. Chúng tôi đã chẩn đoán là Đái huyết cầu tố ở bệnh nhân thiếu men G6PD do thuốc paracetamol. Sau đó bệnh nhân được dùng thuốc giải độc tế bào gan, cắt hoàn toàn việc sử dụng paracetamol. Tình trạng bệnh nhân tốt dần lên, hết sốt, men gan về bình thường, sau 5 ngày Billirubin TP/TT: 15,98/1,61; hết vàng da niêm mạc, hồng cầu về bình thường. BÀN LUẬN Về chẩn đoán, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốt, nước tiểu đen đậm, thiếu máu, chúng ta có thể nghĩ tới nguyên nhân do sốt rét đái huyết cầu tố. Tuy nhiên, bệnh nhân không có rét run, nhiệt độ chỉ khoảng 380C, xét nghiệm KSTSR (-), yếu tố dịch tễ cũng không phù hợp nên loại bỏ nguyên nhân này. Một số nguyên nhân khác có thể gây đái huyết cầu tố như cường lách, đái huyết cầu tố kịch phát ban đêm thì cũng không hợp lý vì qua thăm khám, siêu âm và làm các xét nghiệm tình trạng gan lách của bệnh nhân hoàn toàn bình thường, các kết quả cận lâm sàng cũng không phù hợp. Sau khi loại trừ các nguyên nhân trên, chúng tôi nghĩ tới tình trạng đái huyết cầu tố là do hậu quả của việc dùng thuốc trên cơ địa bệnh nhân mắc một bệnh di truyền nào đó. Việc nghĩ tới nguyên nhân đái huyết cầu tố do thiếu men G6PD là khá phù hợp theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Huệ và cộng sự thì tỉ lệ này lên tới 58,5 % [3], đồng thời xét nghiệm men G6PD = 1.2U/ gHb đã khẳng định chẩn đoán đái huyết cầu tố do thiếu men G6PD là chính xác. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân đái huyết cầu tố ở bệnh nhân này có thể là do sau dùng Paracetamol bởi lẽ đây là một thuốc có tính oxi hóa khá mạnh, ở những người thiếu men G6PD rất dễ xảy ra tình trạng đái huyết cầu tố khi sử dụng những thuốc thuộc nhóm này [5]. Hơn nữa, kể từ khi ngừng thuốc paracetamol, tình trạng bệnh đã được cải thiện rõ rệt. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của T K Chan và cộng sự khi họ đã đưa ra được một danh sách các tác nhân gây ra tình trạng đái huyết cầu tố ở bệnh nhân thiếu G6PD dựa trên theo dõi lâm sàng [4]. Về điều trị không có gì đặc biệt, vì chúng ta đã biết đây là một bệnh liên quan đến di truyền, điều quan trọng là phải phát hiện ra nguyên nhân, tìm cách phòng tránh cho bệnh nhân trước khi xảy ra, và chấm dứt càng sớm càng tốt nếu bệnh đang tiến triển. Bệnh nhân sau đó hồi phục hoàn toàn và được xuất viện [5]. KẾT LUẬN Thiếu men G6PD là bệnh tương đối nguy hiểm nếu không được phát hiện kịp thời. Ở Việt Nam sự phát hiện và chẩn đoán bệnh còn chưa được coi trọng. Do đó, chúng ta cần có thái độ nghiêm túc không được chủ quan đối với những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh này. Việc phát hiện bệnh và tư vấn cho bệnh nhân về tình trạng bệnh cũng như cách phòng tránh là hết sức cần thiết để không có những lần tái phát sau này cũng như hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra vì thiếu hiểu biết về bệnh. Trong y khoa, việc sử dụng thuốc nói riêng cũng như quá trình điều trị bệnh nói chung phải xem xét hết sức toàn diện, đặc biệt là phải lưu tâm đến tác dụng phụ của một số thuốc có thể xảy ra đối với một số nhóm bệnh nhân nhất định. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 4 - 12/2015 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. WHO Working Group. Glucose-6- phosphate dehydrogenase deficiency. Bull World Health Organ.1989;67:601–611. [PubMed] 2. Denis Bwayo, Mark Kaddumukasa, Henry Ddungu, Fred Kironde. Prevalence of glucose-6- phosphate dehydrogenase deficiency and its association with Plasmodium falciparum infection among children in Iganga distric in Uganda. BMC Res Notes. 2014; 7: 372. Published online 2014 June 18. doi: 10.1186/1756-0500-7- 372. [PubMed] 3. Nguyen Thi Hue, Jean Paul Charlieu, Tran Thi Hong Chau, Nick Day, Jeremy J Farrar, Tran Tinh Hien, and Sarah J Dunstan. Glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) mutations and haemoglobinuria syndrome in the Vietnamese population. Malar J. 2009; 8: 152, doi: 10.1186/1475-2875-8-152. 4. T K Chan, D Todd, S C Tso. Drug-induced haemolysis in glucose- 6-phosphate dehydrogenase deficiency. Br Med J. 1976 November 20; 2(6046): 1227–1229. 5. Cpt Ali R Elyassi, Maj Henry H Rowshan. Perioperative Management of the Glucose-6- Phosphate Dehydrogenase Deficient Patient: A Review of Literature. Anesth Prog. 2009 Fall; 56(3): 86– 91. doi: 10.2344/0003-3006-56.3.86. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bệnh thận nội khoa (2004), Nhà xuất bản Y học 2. Brenner BM, Lazarus JM (2000), “Suy thận mạn tính”, Các nguyên lý Y học Nội khoa – Harrison (Bản dịch tiếng Việt), Tập 3. Nhà xuất bản Y học, tr. 579 – 591. 3. Võ Thành Hoài Nam (2001), Lâm sàng, hình thái và chức năng tim ở bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối được lọc máu chu kỳ trước và sau tạo lỗ thông động-tĩnh mạch, Luận văn Thạc sỹ y học, Hà Nội- 2001. 4. Đỗ Doãn Lợi (2002), Nghiên cứu những biến đổi về hình thái, chức năng tim và huyết động học bằng phương pháp siêu âm doppler ở bệnh nhân suy thận mãn giai đoạn IV, Luận án Tiến sĩ y học, Hà Nội- 2002. 5. Nguyễn Lân Việt và cs (2000), Siêu âm tim người Việt Nam bình thường, Báo cáo toàn văn điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường, Hà Nội-2000. (Tiếp theo trang 41)
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_dai_huyet_cau_to_nghi_do_thieu_men_g6pd.pdf

