Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn

Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng với kỹ thuật mổ tương tự như cắt tử cung tận gốc giúp bệnh nhân ung thư

cổ tử cung giai đoạn sớm khỏi bệnh mà vẫn bảo tồn được chức năng sinh sản. Chúng tôi báo cáo trường hợp

cắt cổ tử cung tận gốc được thực hiện lần đầu tại bệnh viện ung bướu Tp.HCM trên bệnh nhân 26 tuổi chưa

sinh con lần nào và qua đó nhìn lại y văn về hiệu quả của phương pháp điều trị này

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn

Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
49 
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP CẮT CỔ TỬ CUNG 
TẬN GỐC NGẢ BỤNG: TỔNG HỢP Y VĔN 
HUỲNH BÁ TẤN1, NGUYỄN VĔN TIẾN2, TẠ THANH LIÊU3, PHẠM QUỐC CƯỜNG4, 
NGUYỄN HỮU CHỈNH5, ĐOÀN TRỌNG NGHĨA1, VÕ TIẾN TÂN NHI6, LƯƠNG CHẤN LẬP4, 
NGUYỄN DUY THƯ4, PHAN XUÂN MINH THỊNH4, NGUYỄN HOÀNG DUY THANH7 
TÓM TẮT 
Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng với kỹ thuật mổ tương tự như cắt tử cung tận gốc giúp bệnh nhân ung thư 
cổ tử cung giai đoạn sớm khỏi bệnh mà vẫn bảo tồn được chức nĕng sinh sản. Chúng tôi báo cáo trường hợp 
cắt cổ tử cung tận gốc được thực hiện lần đầu tại bệnh viện ung bướu Tp.HCM trên bệnh nhân 26 tuổi chưa 
sinh con lần nào và qua đó nhìn lại y vĕn về hiệu quả của phương pháp điều trị này. 
Từ khóa: Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng. 
ABSTRACT 
Abdominal radical trachelectomy: A case report and literature review 
Abdominal radical trachelectomy with surgical technique similar to radical hysterctomy can cure early- 
stage cervical cancer without sacrificing fertility. We report the first case at Oncology Hospital at Ho Chi Minh 
City and review literature of this surgical technique. 
Keyword: Abdominal radical trachelectomy 
1
 ThS.BSCKI. Giảng viên Bộ môn Ung thư học ĐHYDTP. HCM - BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
2
 BSCKII Trưởng Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
3
 BSCKII Phó Trưởng Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
4
 BSCKI. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
5
 ThS.BSCKI. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
6
 BSCKII. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
7
 BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 
MỞ ĐẦU 
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh lý 
ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới nói 
chung và Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam, ung thư 
cổ tử cung hay gặp đứng hàng hai, sau ung thư vú. 
Điều trị tiêu chuẩn đối với ung thư cổ tử cung bao 
gồm phẫu thuật, từ cắt tử cung đơn giản đến cắt tử 
cung tận gốc và nạo hạch chậu, hóa – xạ trị triệt để. 
Tất cả những phương pháp này đều dẫn đến hậu 
quả cuối cùng là bệnh nhân sau khi khỏi bệnh sẽ 
không còn khả nĕng sinh con được nữa. Gần đây, 
nhờ ý thức chĕm sóc sức khỏe của người dân tĕng 
lên nên thường xuyên đi khám phụ khoa, do đó có 
thể phát hiện được ung thư cổ tử cung ở giai đoạn 
sớm. Mặt khác, khuynh hướng lập gia đình và sinh 
con trễ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện 
đại. Do đó, những trường hợp phụ nữ phát hiện mắc 
ung thư cổ tử cung khi chưa sinh con hoặc chưa 
sinh đủ con không còn là hiếm nữa. Trong những 
tình huống này, phẫu thuật bảo tồn chức nĕng sinh 
sản sẽ giúp cho bệnh nhân có cơ hội mang thai và 
sinh con sau khi khỏi bệnh. 
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi báo cáo 
một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng 
trên một bệnh nhân 26 tuổi chưa sinh con lần nào, 
và qua đó nhìn lại y vĕn về hiệu quả phương pháp 
điều trị này. 
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP 
Bệnh nhân Nguyễn Thị Cẩm Ng., 1989. 
SHS: 24834/18. 
Lý do khám bệnh: Huyết trắng âm đạo. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
50 
Bệnh sử 
Bệnh nhân có huyết trắng âm đạo, đi khám phụ 
khoa, được xét nghiệm tế bào cổ tử cung dạng 
nhúng dịch, kết quả: ASC-US. Soi cổ tử cung, kết 
quả: Cổ tử cung tái tạo không điển hình. HPV16(+). 
Giải phẫu bệnh: tân sinh trong biểu mô cổ tử cung 
độ III (CIN III). 
Khoét chóp cổ tử cung, giải phẫu bệnh sau mổ: 
carcinôm tế bào gai, không sừng hóa, grad 2. 
Bệnh nhân được hội chẩn, tư vấn và quyết định 
cách điều trị: cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng. 
Thời gian mổ: 170 phút. 
Cắt lạnh diện cắt cổ tử cung: Bình thường. 
Không có tai biến và biến chứng sau mổ. 
Hiện tại, sau mổ 3 tháng, bệnh nhân có lại chu 
kỳ kinh nguyệt bình thường. 
Hình 1. Phẫu thuật cắt tử cung tận gốc hoàn tất. 
Âm đạo đã được khâu vào mỏm cụt cổ tử cung 
BÀN LUẬN 
Lịch sử 
Phẫu thuật cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng 
được một bác sĩ phụ khoa người Rumani tên là 
Eugen Aburel mô tả lần đầu tiên vào nĕm 1956 
nhưng gần như bị quên lãng cho đến bốn thập kỷ 
sau mới được nhắc đến trong những báo cáo của 
Smith và cs, Ungár và cs, trong những nĕm 90 của 
thế kỷ trước[26]. Cùng với kỹ thuật “cắt cổ tử cung tận 
gốc ngả âm đạo và nạo hạch chậu qua nội soi ổ 
bụng” được Dargent mô tả nĕm 1994, cắt cổ tử cung 
tận gốc ngả bụng tạo cho bệnh nhân bị ung thư cổ 
tử cung giai đoạn IA2 đến IB2 (và có thể áp dụng 
cho IIA) một cơ hội thật sự để giữ lại chức nĕng sinh 
sản của mình. Ca mang thai thành công và sinh 
thường đủ tháng đầu tiên được báo cáo nĕm 
2001[16]. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Để đạt được kết quả về mặt ung thư học tốt 
nhất trong khi vẫn bảo tồn được chức nĕng sinh sản, 
bệnh nhân phải thỏa mãn một số tiêu chuẩn nhất 
định. Các tiêu chuẩn này được Roy và Plante đề 
xuất đầu tiên vào nĕm 1998. Cho đến nay, hầu hết 
các tác giả đều đồng ý bệnh nhân phải thỏa mãn các 
tiêu chuẩn sau: 
Có nguyện vọng sinh con trong tương lai. 
Có chẩn đoán là ung thư cổ tử cung. 
Loại mô học: Carcinôm tế bào gai, cacrcinôm 
tuyến hoặc carcinôm gai tuyến. 
Kích thước bướu nhỏ hơn 2cm. 
Giai đoạn IA1 có xâm lấn khoang mạch máu – 
bạch huyết, IA2, hoặc IB1. 
Bướu khu trú ở cổ tử cung, được xác định bằng 
MRI hoặc PET-CT. 
Rìa an toàn sau khi cắt tối thiểu 5mm. 
Không có bằng chứng di cĕn hạch trên lâm 
sàng và hình ảnh. 
Không có tiền sử vô sinh. 
Ngoài ra, tất cả bệnh nhân phải hiểu rằng cơ 
hội để sinh con thành công sau mổ cắt cổ tử cung 
tận gốc thấp hơn một phụ nữ bình thường khác[22]. 
Kỹ thuật mổ 
Kỹ thuật cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng cũng 
tương tự như cắt tử cung tận gốc. Có thể sử dụng 
đường mổ dọc hoặc ngang trên xương mu. Nạo 
hạch chậu hai bên được thực hiện trước khi cắt cổ 
tử cung. Hạch nào nghi ngờ di cĕn sẽ được gửi cắt 
lạnh, nếu kết quả dương tính sẽ chuyển sang cắt tử 
cung tận gốc. Nếu không có hạch di cĕn sẽ tiếp tục 
tiến hành các bước tiếp theo, theo tuần tự[12]: 
1. Cắt dây chằng tròn hai bên. 
2. Bộc lộ khoang cạnh bàng quang và khoang 
cạnh trực tràng. Bộc lộ niệu quản. 
3. Kẹp, cắt và cột động mạch tử cung tại gốc. 
4. Cắt nếp phúc mạc bàng quang – âm đạo, tách 
bàng quang ra khỏi cổ tử cung. 
5. Cắt nếp phúc mạc trực tràng – âm đạo, tách 
trực tràng ra khỏi âm đạo. 
6. Cắt ngang cổ tử cung ở mức khoảng 1 cm dưới 
chỗ nối thân tử cung và cổ tử cung. Lấy mô 
diện cắt gửi cắt lạnh. 
7. Lật thân tử cung lên phía trên. 
8. Cắt dây chằng tử cung – cùng hai bên. 
9. Tiếp tục đẩy bàng quang ra khỏi âm đạo 
khoảng 3cm. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
51 
10. Đẩy niệu quản ra ngoài, cắt rộng chu cung hai 
bên. 
11. Cắt dài xuống âm đạo 2cm, lấy bệnh phẩm ra 
ngoài. 
12. Khâu thắt mỏm cụt cổ tử cung bằng chỉ Prolene 
số 1. 
13. Nối âm đạo vào phần còn lại của cổ tử cung 
bằng mũi rời hay liên tục. 
Biến chứng 
Tỷ lệ biến chứng chung tương đương với tỷ lệ 
biến chứng của cắt tử cung tận gốc ngả bụng. 
Những biến chứng chuyên biệt cho cắt cổ tử 
cung tận gốc là khoảng 9,5%, bao gồm chít hẹp lỗ 
cổ tử cung, vô kinh, bung chỉ khâu thắt cổ tử cung, 
tĕng tỷ lệ sẩy thai tự nhiên và sinh non[23], viêm 
màng ối do mất các tuyến ở cổ trong và giảm tiết 
chất nhầy. 
Để phòng ngừa biến chứng chít hẹp lỗ cổ tử 
cung, một số tác giả khuyên đặt một ống thông tạm 
thời qua lỗ cổ tử cung trước khi khâu thắt cổ tử 
cung. Ống thông này sẽ được rút trong thời gian hậu 
phẫu[5]. Lúc mang thai, bệnh nhân phải chịu cuộc mổ 
bắt con chứ không thể sinh ngả âm đạo được vì 
nguy cơ vỡ tử cung khi có cơn gò tử cung. 
Bệnh nhân cũng có tĕng nguy cơ vô sinh thứ 
phát do giảm tiết chất nhầy, là điều kiện không thể 
thiếu cho tinh trùng di chuyển lên trên tử cung và 
trưởng thành. 
Ngoài ra, cũng không loại trừ được sự tạo dây 
dính trong ổ bụng sau phẫu thuật. 
Tiên lượng về mặt ung thư học 
Trong một nghiên cứu, Diaz và cộng sự so 
sánh tiên lượng của 40 bệnh nhân ung thư cổ tử 
cung giai đoạn IB1 được cắt cổ tử cung tận gốc (28 
trường hợp cắt ngả âm đạo và 12 trường hợp cắt 
ngả bụng) với 110 bệnh nhân cùng giai đoạn được 
cắt tử cung tận gốc. Thời gian theo dõi trung bình 44 
tháng. Tỷ lệ sống còn không tái phát 5 nĕm đối với 
nhóm cắt cổ tử cung tận gốc là 96% so với 86% của 
nhóm cắt tử cung tận gốc. Các tác giả kết luận đối 
với bệnh nhân giai đoạn IB1 được chọn lọc kỹ thì cắt 
cổ tử cung tận gốc bảo tồn sinh sản cho tiên lượng 
tương đương với nhóm bệnh nhân cắt tử cung tận 
gốc[6]. 
Một nghiên cứu hậu kiểm do Pareja thực hiện 
nĕm 2013 cho kết quả chỉ có 3,8% trong tổng số 485 
trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng bị tái 
phát[17]. 
Một nghiên cứu hậu kiểm khác do Quing Zhang 
thực hiện nĕm 2017 ghi nhận tỷ lệ tái phát sau cắt cổ 
tử cung tận gốc là 2,3%, tỷ lệ tử vong là 0,7%[21]. 
Tiên lượng về mặt sản khoa 
Dự hậu sản khoa sau mổ cắt cổ tử cung tận 
gốc có nhiều hạn chế. Đa số tác giả cho rằng bệnh 
nhân phải đợi ít nhất 6 – 12 tháng sau khi mổ mới 
được mang thai[4] . Do có sự tạo thành mô sẹo sau 
mổ cắt cổ tử cung và có thể có biến chứng hẹp lỗ cổ 
tử cung nên bệnh nhân sẽ khó đậu thai tự nhiên hơn 
người bình thường, nhiều trường hợp cần phải có 
can thiệp của các chuyên gia sinh sản hỗ trợ. Do 
nguy cơ cao bị sẩy thai ở tam cá nguyệt thứ hai và 
bị sinh non nên nếu bệnh nhân mang thai sau cắt cổ 
tử cung tận gốc phải được xếp vào thai kỳ nguy cơ 
cao và phải được siêu âm thường xuyên để theo dõi 
chiều dài của mỏm cụt cổ tử cung. Nên tránh để sinh 
ngả âm đạo vì nguy cơ rách mỏm cụt cổ tử cung lan 
rộng đến mạch máu tử cung và gây xuất huyết ồ ạt 
rất nguy hiểm[28]. 
Trong một tổng kết được thực hiện tại hai bệnh 
viện ở Rumani nĕm 2014, các tác giả báo cáo trong 
23 trường hợp được cắt cổ tử cung tận gốc ngả 
bụng có 7 bệnh nhân cố gắng mang thai, nhưng chỉ 
có 3 người đậu thai. Cuối cùng, chỉ có 1 trường hợp 
sinh thành công sau mổ lấy thai còn 2 trường hợp 
còn lại bị sẩy thai[15] 
Trong một tổng kết toàn bộ y vĕn của Pajera 
thực hiện nĕm 2013, có 485 bệnh nhân được cắt cổ 
tử cung tận gốc ngả bụng trên toàn thế giới, 413 
bệnh nhân (85%) còn giữ được chức nĕng sinh sản, 
113 bệnh nhân (38%) còn giữ ý định muốn sinh con, 
nhưng chỉ có 67 trường hợp (59,3%) đậu thai[17]. 
Okugawa (2017) hồi cứu 151 trường hợp cắt cổ 
tử cung ngả bụng (89 ca cắt cổ tử cung tận gốc, 48 
ca cắt cổ tử cung tận gốc biến đổi, 14 ca cắt cổ tử 
cung đơn giản). Có 61 bệnh nhân vẫn giữ ý muốn 
mang thai, trong đó có 15 bệnh nhân thành công 
(25%). Tổng số thai kỳ có được là 21. Mười lĕm đứa 
trẻ ra đời nhờ mổ lấy thai giữa tuần lễ thứ 23 và 37. 
Sáu đứa trẻ được mổ lúc đủ tháng. Sáu trường hợp 
vỡ ối non[9]. 
Theo dõi 
Theo khuyến cáo của Hội ung thư phụ khoa 
châu Âu (ESGO) đưa ra nĕm 2017 thì tất cả bệnh 
nhân bảo tồn chức nĕng sinh sản đều có nguy cơ tái 
phát và phải theo dõi sát. Thời gian theo dõi là mỗi 3 
– 4 tháng trong 2 nĕm đầu, mỗi 6 – 12 tháng trong 3 
nĕm tiếp theo, sau đó theo dõi giống như dân số 
chung. Tuy nhiên, cần cá thể hóa tùy theo nguy cơ 
tái phát hoặc biến chứng điều trị. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
52 
Khi tái khám, ngoài việc khám lâm sàng thường 
quy cần phải thực hiện xét nghiệm HPV có hoặc 
không có phết tế bào kèm theo. Hoặc có thể kết hợp 
soi cổ tử cung với test HPV. Xét nghiệm tìm HPV 
nguy cơ cao mỗi 6, 12, 24 tháng sau điều trị, nếu âm 
tính thì thực hiện lại mỗi 3-5 nĕm một lần. 
Khâu thắt cổ tử cung hay không? 
Một báo cáo của Ma và cs nĕm 2014 trên 46 
bệnh nhân, đưa ra đề nghị không cần khâu thắt cổ 
tử cung trước hoặc trong thai kỳ sau khi cắt cổ tử 
cung tận gốc ngả âm đạo[13]. 
Tuy nhiên, theo khuyến cáo mới nhất của 
ESGO nĕm 2017, nên khâu thắt cổ tử cung khi cắt 
cổ tử cung tận gốc. 
Một khảo sát được thực hiện trên tất cả thành 
viên Hội Ung thư Phụ khoa Hoa Kỳ (SGO) được 
thực hiện nĕm 2016. Kết quả cho thấy 66% có khâu 
thắt cổ tử cung trong lúc cắt cổ tử cung tận gốc; 
trong đó 47% sử dụng chỉ prolene, 10,5% sử dụng 
goretex, 33% sử dụng mersilene, 9% sử dụng 
ethibond hoặc nylon[4]. 
Cắt lạnh diện cắt trong lúc mổ 
Để bảo đảm bờ an toàn tối thiểu 0,5cm thì nhà 
giải phẫu bệnh phải trả lời hai câu hỏi, đó là: Có tế 
bào ung thư ở diện cắt hay không? Và nếu không thì 
khoảng cách từ chỗ cao nhất của bướu đến diện cắt 
có đủ ít nhất 0,5cm hay không? Để trả lời câu hỏi 
thứ hai nhà giải phẫu bệnh phải cắt bệnh phẩm theo 
cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Mặt khác, để trả lời 
chính xác những tổn thương tuyến khó chẩn đoán 
trên mẫu cắt lạnh không phải là điều dễ dàng nếu 
không muốn nói là không thể[18][27]. 
Chĕm sóc thai kỳ 
Chĕm sóc thai kỳ ở bệnh nhân cắt cổ tử cung 
tận gốc là một thách thức lớn dành cho các nhà sản 
khoa, đòi hỏi phải có sự phối hợp của bác sĩ ung thư 
phụ khoa, bác sĩ sản khoa và bác sĩ sơ sinh. Những 
nguy cơ có thể xảy ra là sẩy thai ở tam cá nguyệt 
thứ hai, vỡ ối non, và sinh non. 
Sinh non là biến chứng quan trọng và hay gặp 
nhất sau mổ cắt cổ tử cung tận gốc (25 – 
39%)[8][19][2][16]. Sinh non sau vỡ ối non một phần là 
do nhiễm trùng ngược dòng. Đa số tác giả khuyên 
nên khâu thắt cổ tử cung khi cắt cổ tử cung; tuy 
nhiên khi đó bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị chít hẹp cổ 
lỗ cổ tử cung và bục chỉ khâu cổ tử cung. Một 
phương pháp khác để phòng ngừa biến chứng do cổ 
tử cung yếu là khâu bít hoàn toàn lổ cổ tử cung khi 
bắt đầu bước sang tam cá nguyệt thứ hai. Cần phải 
siêu âm kiểm tra chiều dài của cổ tử cung mỗi hai 
tuần, bắt đầu từ tam cá nguyệt thứ hai trở đi[11]. 
Viêm âm đạo ngược dòng có thể gây ra viêm 
màng ối. Plante ghi nhận tỷ lệ sẩy thai ở tam ca 
nguyệt thứ hai ở bệnh nhân đã cắt cổ tử cung tận 
gốc cao gấp đôi phụ nữ bình thường (8,6% so với 
4%), phần lớn là do nhiễm trùng ngược dòng và vỡ 
ối non[18]. Không có nút nhầy cổ tử cung bảo vệ là 
yếu tố góp phần gây ra tình trạng nhiễm trùng ngược 
dòng[24]. Shepherd đưa ra khuyến cáo nên sử dụng 
kháng sinh dự phòng vào những thời điểm nhạy cảm 
(tuần lễ thứ 16 và 24) để loại bỏ vi khuẩn trong âm 
đạo hoặc thực hiện tầm soát mỗi hai tháng một lần 
bắt đầu từ tuần lễ thứ 16 và điều trị bằng kháng sinh 
nếu cần thiết[7]. Một số tác giả khác đề nghị sử dụng 
povidone-iodine để vệ sinh âm đạo và đặt ulinastatin 
âm đạo mỗi ngày để phòng ngừa nhiễm khuẩn[7]. 
Nhiều phân tích hậu kiểm cho thấy hiệu quả 
của progesterone trong việc bảo vệ bệnh nhân khỏi 
sinh non tái diễn. Có thể dự phòng với 17-alpha-
hydroxy-progesterone caproate tiêm bắp mỗi tuần[14] 
hoặc đặt âm đạo mỗi ngày với progesterone[3]. 
Sử dụng corticosteroid tiêm bắp khi bệnh nhân 
có dấu hiệu dọa sinh non. Steroid đã được chứng 
minh có hiệu quả trong phòng ngừa suy hô hấp nếu 
được sử dụng trước sinh trên 24 giờ và không quá 7 
ngày trước khi sinh[1]. 
Thời điểm mổ lấy thai cũng là vấn đề còn tranh 
cãi. Một số tác giả khuyên nên mổ sớm khi thai 
được 34 tuần để tránh cơn gò tử cung[11], trong khi 
các tác giả khác khuyên mổ lúc 37 tuần[13]. Xuất hiện 
cơn gò tử cung trên những bệnh nhân này có thể 
dẫn đến nguy cơ vỡ tử cung và xuất huyết[10]. 
Một số tác giả khuyên nên sử dụng đường mổ 
dọc thân tử cung kinh điển để tránh nguy cơ đường 
mổ mở rộng sang bên quá mức làm tổn thương 
mạch máu tử cung và gây chảy máu sau mổ[7]. Tuy 
nhiên, đường mổ này lại làm tĕng nguy cơ chảy máu 
trong lúc mổ nhiều hơn đường mổ ngang đoạn dưới 
tử cung. Mặt khác, một số tác giả cũng chứng minh 
được rằng đường mổ ngang vẫn an toàn cho bệnh 
nhân đã cắt cổ tử cung tận gốc[13][7]. 
KẾT LUẬN 
Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng là một giải 
pháp an toàn về mặt ung thư cho bệnh nhân ung thư 
cổ tử cung giai đoạn sớm và thỏa mãn một số điều 
kiện nhất định. Nó giúp cho bệnh nhân có cơ hội giữ 
lại chức nĕng sinh sản sau khi khỏi bệnh mặc dù tỉ lệ 
sinh con thành công còn khiêm tốn và đòi hỏi quá 
trình chĕm sóc thai kỳ thật sát sao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Brownfoot F.C, Gagliardi D.J. Different 
corticosteroids and regimens for accelerating 
fetal lung maturation for women at risk of 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
53 
preterm birth. Cochrane Database Syst. 2013: 
Rev.8, CD006764. 
2. Cibula D, Slama J. Update on abdominal radical 
trachelectomy. Gynecol Oncol 2008; 111(2): 
111-115. 
3. Da Fonseca E.B, Bittar R.E. Prophylactic 
administration of progesterone by vaginal 
suppository to reduce the incidence of 
spontaneous preterm birth in women at 
increased risk: a randomized placebo-controlled 
double-blind study. Am. J. Obstet. Gynecol. 
2003; 188(2): 419-424. 
4. Davenport S.M, Jackson A.L, Herzog T.J. 
Cerclage during trachelectomy for early-stage 
cervical cancer.Gynecol Oncol 2016; 141 (1): 
76-77. 
5. Delia Nicolaiciuc, Gabriela Simionescu, B. 
Doroftei. Abdominal radical trachelectomy as a 
method of preserving fertility in patients with 
cervical cancer. Rev. Med. Chir. Soc. Med. Nat. 
2018; 122: 96:101. 
6. Diaz JP, Sonoda Y, Leitao MM. Oncologic 
outcome of fertility-sparing radical trachelectomy 
versus radical hysterectomy for stage IB1 
cervical carcinoma.Gynecol Oncol 2008; 
111(2):255-60. 
7. Ishioka S, Endo T. Pregnancy-related 
complications after vaginal radical trachelectomy 
for early stage invasive uterine cevical cancer. 
Int. J. Clin. Oncol. 2007; 12(5): 350-355. 
8. Jolley J.A, Wing D.A. Pregnancy management 
after cervical cervical surgery. Curr.Opin. Obstet. 
Gynecol. 2008; 20(6): 528-533. 
9. Kaoru Okugawa, Hiroaki Kobayashi. Oncologic 
and obstetric outcomes and complications during 
pregnancy after fertility-sparing abdominal 
trachelectomy for cervical cancer: a retrospective 
review. Int J. Clin Oncol 2016. 
10. Kay T.A, Renninson J.N. Successful pregnancy 
following radical trachelectomy and in vitro 
fertilisation with ovum donation. BJOG 2006; 
113(8): 965-966. 
11. Knight L.J, Acheson N. Obstetric management 
following fertility-sparing radical vaginal 
trachelectomy for cervical cancer.Obstet 
Gynecol 2010: 30(8): 784-789. 
12. Laszlo Ungar, Laszlo Palfalvi, Deborah C. M. 
Boyle, Giuseppe Del Priore, and J. Richard 
Smith. Radical abdominal trachelectomy. Atlas of 
gynecologic Oncology, third edition – 
Investigation and Surgery. Informa Healthcare. 
2011. 
13. Ma LK, Cao D.Y. Pregnancy outcome and 
obstetric management after vaginal radical 
trachelectomy.Eur. Rev. Med. Pharmacol. Sci. 
2014; 18(20): 3019-24. 
14. Meis P.J, Klebanoff M. Prevention of preterm 
delivery by 17 alpha-hydroxyprogesterone 
capronate.N. Engl. J. Med. 2003; 348(24): 2379-
2385. 
15. Mihai Emil Capilna, Nicolae Ioanid. Abdominal 
radical trachelectomy: a Romanian seies. 
International Journal of Gynecological Cancer 
2014; 24(3): 615-9. 
16. Palfalvi L, Ungar L, Boyle DC, et al. 
Announcement of healthy baby boy following 
abdominal radical trachelectomy. Int J Gynecol 
Cancer. 2003; 13:249. 
17. Pareja R, Rendon GJ, Sanz – Lomana. Surgical, 
oncological, and obstetrical outcomes after 
abdominal radical trachelectomy – A systematic 
literature review. Gynecologic Oncology.2013; 
131: 77-82. 
18. Park KJ, Soslow RA, Sonada Y. Frozen-section 
evaluation of cervical adenocarcinoma at time of 
radical trachelectomy: pathologic pitfalls and the 
application of an objective scoring system. 
Gynecol Oncol 2008; 110(3): 316-23. 
19. Plante M. Evolution in fertility-preserving options 
for early-stage cervical cancer: radical 
trachelectomy, simple trachelectomy, 
neoadjuvant chemotherapy. Int. Gynecol. Cancer 
2013; 23(6): 982-9. 
20. Plante M. Vaginal radical trachelectomy: an 
update. Gynecol Oncol 2008; 111(2): 105-110. 
21. Quing Zang, Wenhui Li, Margaux J. Kanis. 
Oncologic and obstetrical outcomes with fertility 
– sparing treatment of cervical cancer: a 
systematic review and meta-analysis. 
Oncotarget. 2017; 8(28): 46580-92. 
22. Ramirez P, Schmeler K, Soliman P, et al. Fertility 
presentation in patients with early cervical 
cancer: radical trachelectomy. Gynecol Oncol 
2008; 110: S25-8. 
23. Rob L, Skapa P, Robova H. Fertility-sparing 
surgery in patients with cervical cancer. Lancet 
Oncol 2011 Feb; 12(2):192-200. 
24. Shepherd J.H, Miliken D.A. Conservative surgery 
for carcinoma of the cervix. Clin. Oncol (R. Coll. 
Radiol.) 2008; 20(6): 395-400. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
54 
25. Shepherd J.H, Mould T, Oram D.H. Radical 
trachelectomy in early stage carcinoma of the 
cervix: outcome as judged by recurrence and 
fertility rates. BJOG 2001; 108(8): 882-5. 
26. Smith JR, Boyle DC, Corless DJ et al. Abdominal 
radical trachelectomy: a new surgical technique 
for the conservative management of cervical 
carcinoma. Br J Obste Gynaecol 1997; 104: 
1196-1200. 
27. Tanguay C, Plante M, Renaud MC, Roy M. 
Vaginal radical trachelectomy in the treatment of 
cervical cancer: the role of frozen section. Int J 
Gynecol Pathol 2004; 23(2): 170-5. 
28. Yong Kuei Lim, Sze Min Lek, Seow Heong Yeo. 
Obstetric care after radical abdominal 
trachelectomy in a patient with stage IB1 cervical 
cancer: A case report and a review of medical 
literature. Gynecol Oncol Reports 2016; 17:86-
88. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_mot_truong_hop_cat_co_tu_cung_tan_goc_nga_bung_tong_hop.pdf