Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn
Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng với kỹ thuật mổ tương tự như cắt tử cung tận gốc giúp bệnh nhân ung thư
cổ tử cung giai đoạn sớm khỏi bệnh mà vẫn bảo tồn được chức năng sinh sản. Chúng tôi báo cáo trường hợp
cắt cổ tử cung tận gốc được thực hiện lần đầu tại bệnh viện ung bướu Tp.HCM trên bệnh nhân 26 tuổi chưa
sinh con lần nào và qua đó nhìn lại y văn về hiệu quả của phương pháp điều trị này
Bạn đang xem tài liệu "Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng: tổng hợp y văn
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 49 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP CẮT CỔ TỬ CUNG TẬN GỐC NGẢ BỤNG: TỔNG HỢP Y VĔN HUỲNH BÁ TẤN1, NGUYỄN VĔN TIẾN2, TẠ THANH LIÊU3, PHẠM QUỐC CƯỜNG4, NGUYỄN HỮU CHỈNH5, ĐOÀN TRỌNG NGHĨA1, VÕ TIẾN TÂN NHI6, LƯƠNG CHẤN LẬP4, NGUYỄN DUY THƯ4, PHAN XUÂN MINH THỊNH4, NGUYỄN HOÀNG DUY THANH7 TÓM TẮT Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng với kỹ thuật mổ tương tự như cắt tử cung tận gốc giúp bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm khỏi bệnh mà vẫn bảo tồn được chức nĕng sinh sản. Chúng tôi báo cáo trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc được thực hiện lần đầu tại bệnh viện ung bướu Tp.HCM trên bệnh nhân 26 tuổi chưa sinh con lần nào và qua đó nhìn lại y vĕn về hiệu quả của phương pháp điều trị này. Từ khóa: Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng. ABSTRACT Abdominal radical trachelectomy: A case report and literature review Abdominal radical trachelectomy with surgical technique similar to radical hysterctomy can cure early- stage cervical cancer without sacrificing fertility. We report the first case at Oncology Hospital at Ho Chi Minh City and review literature of this surgical technique. Keyword: Abdominal radical trachelectomy 1 ThS.BSCKI. Giảng viên Bộ môn Ung thư học ĐHYDTP. HCM - BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 BSCKII Trưởng Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 3 BSCKII Phó Trưởng Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 4 BSCKI. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 5 ThS.BSCKI. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 6 BSCKII. BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 7 BSĐT Khoa Ngoại 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM MỞ ĐẦU Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung hay gặp đứng hàng hai, sau ung thư vú. Điều trị tiêu chuẩn đối với ung thư cổ tử cung bao gồm phẫu thuật, từ cắt tử cung đơn giản đến cắt tử cung tận gốc và nạo hạch chậu, hóa – xạ trị triệt để. Tất cả những phương pháp này đều dẫn đến hậu quả cuối cùng là bệnh nhân sau khi khỏi bệnh sẽ không còn khả nĕng sinh con được nữa. Gần đây, nhờ ý thức chĕm sóc sức khỏe của người dân tĕng lên nên thường xuyên đi khám phụ khoa, do đó có thể phát hiện được ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm. Mặt khác, khuynh hướng lập gia đình và sinh con trễ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại. Do đó, những trường hợp phụ nữ phát hiện mắc ung thư cổ tử cung khi chưa sinh con hoặc chưa sinh đủ con không còn là hiếm nữa. Trong những tình huống này, phẫu thuật bảo tồn chức nĕng sinh sản sẽ giúp cho bệnh nhân có cơ hội mang thai và sinh con sau khi khỏi bệnh. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi báo cáo một trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng trên một bệnh nhân 26 tuổi chưa sinh con lần nào, và qua đó nhìn lại y vĕn về hiệu quả phương pháp điều trị này. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP Bệnh nhân Nguyễn Thị Cẩm Ng., 1989. SHS: 24834/18. Lý do khám bệnh: Huyết trắng âm đạo. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 50 Bệnh sử Bệnh nhân có huyết trắng âm đạo, đi khám phụ khoa, được xét nghiệm tế bào cổ tử cung dạng nhúng dịch, kết quả: ASC-US. Soi cổ tử cung, kết quả: Cổ tử cung tái tạo không điển hình. HPV16(+). Giải phẫu bệnh: tân sinh trong biểu mô cổ tử cung độ III (CIN III). Khoét chóp cổ tử cung, giải phẫu bệnh sau mổ: carcinôm tế bào gai, không sừng hóa, grad 2. Bệnh nhân được hội chẩn, tư vấn và quyết định cách điều trị: cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng. Thời gian mổ: 170 phút. Cắt lạnh diện cắt cổ tử cung: Bình thường. Không có tai biến và biến chứng sau mổ. Hiện tại, sau mổ 3 tháng, bệnh nhân có lại chu kỳ kinh nguyệt bình thường. Hình 1. Phẫu thuật cắt tử cung tận gốc hoàn tất. Âm đạo đã được khâu vào mỏm cụt cổ tử cung BÀN LUẬN Lịch sử Phẫu thuật cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng được một bác sĩ phụ khoa người Rumani tên là Eugen Aburel mô tả lần đầu tiên vào nĕm 1956 nhưng gần như bị quên lãng cho đến bốn thập kỷ sau mới được nhắc đến trong những báo cáo của Smith và cs, Ungár và cs, trong những nĕm 90 của thế kỷ trước[26]. Cùng với kỹ thuật “cắt cổ tử cung tận gốc ngả âm đạo và nạo hạch chậu qua nội soi ổ bụng” được Dargent mô tả nĕm 1994, cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng tạo cho bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung giai đoạn IA2 đến IB2 (và có thể áp dụng cho IIA) một cơ hội thật sự để giữ lại chức nĕng sinh sản của mình. Ca mang thai thành công và sinh thường đủ tháng đầu tiên được báo cáo nĕm 2001[16]. Tiêu chuẩn chọn bệnh Để đạt được kết quả về mặt ung thư học tốt nhất trong khi vẫn bảo tồn được chức nĕng sinh sản, bệnh nhân phải thỏa mãn một số tiêu chuẩn nhất định. Các tiêu chuẩn này được Roy và Plante đề xuất đầu tiên vào nĕm 1998. Cho đến nay, hầu hết các tác giả đều đồng ý bệnh nhân phải thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: Có nguyện vọng sinh con trong tương lai. Có chẩn đoán là ung thư cổ tử cung. Loại mô học: Carcinôm tế bào gai, cacrcinôm tuyến hoặc carcinôm gai tuyến. Kích thước bướu nhỏ hơn 2cm. Giai đoạn IA1 có xâm lấn khoang mạch máu – bạch huyết, IA2, hoặc IB1. Bướu khu trú ở cổ tử cung, được xác định bằng MRI hoặc PET-CT. Rìa an toàn sau khi cắt tối thiểu 5mm. Không có bằng chứng di cĕn hạch trên lâm sàng và hình ảnh. Không có tiền sử vô sinh. Ngoài ra, tất cả bệnh nhân phải hiểu rằng cơ hội để sinh con thành công sau mổ cắt cổ tử cung tận gốc thấp hơn một phụ nữ bình thường khác[22]. Kỹ thuật mổ Kỹ thuật cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng cũng tương tự như cắt tử cung tận gốc. Có thể sử dụng đường mổ dọc hoặc ngang trên xương mu. Nạo hạch chậu hai bên được thực hiện trước khi cắt cổ tử cung. Hạch nào nghi ngờ di cĕn sẽ được gửi cắt lạnh, nếu kết quả dương tính sẽ chuyển sang cắt tử cung tận gốc. Nếu không có hạch di cĕn sẽ tiếp tục tiến hành các bước tiếp theo, theo tuần tự[12]: 1. Cắt dây chằng tròn hai bên. 2. Bộc lộ khoang cạnh bàng quang và khoang cạnh trực tràng. Bộc lộ niệu quản. 3. Kẹp, cắt và cột động mạch tử cung tại gốc. 4. Cắt nếp phúc mạc bàng quang – âm đạo, tách bàng quang ra khỏi cổ tử cung. 5. Cắt nếp phúc mạc trực tràng – âm đạo, tách trực tràng ra khỏi âm đạo. 6. Cắt ngang cổ tử cung ở mức khoảng 1 cm dưới chỗ nối thân tử cung và cổ tử cung. Lấy mô diện cắt gửi cắt lạnh. 7. Lật thân tử cung lên phía trên. 8. Cắt dây chằng tử cung – cùng hai bên. 9. Tiếp tục đẩy bàng quang ra khỏi âm đạo khoảng 3cm. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 51 10. Đẩy niệu quản ra ngoài, cắt rộng chu cung hai bên. 11. Cắt dài xuống âm đạo 2cm, lấy bệnh phẩm ra ngoài. 12. Khâu thắt mỏm cụt cổ tử cung bằng chỉ Prolene số 1. 13. Nối âm đạo vào phần còn lại của cổ tử cung bằng mũi rời hay liên tục. Biến chứng Tỷ lệ biến chứng chung tương đương với tỷ lệ biến chứng của cắt tử cung tận gốc ngả bụng. Những biến chứng chuyên biệt cho cắt cổ tử cung tận gốc là khoảng 9,5%, bao gồm chít hẹp lỗ cổ tử cung, vô kinh, bung chỉ khâu thắt cổ tử cung, tĕng tỷ lệ sẩy thai tự nhiên và sinh non[23], viêm màng ối do mất các tuyến ở cổ trong và giảm tiết chất nhầy. Để phòng ngừa biến chứng chít hẹp lỗ cổ tử cung, một số tác giả khuyên đặt một ống thông tạm thời qua lỗ cổ tử cung trước khi khâu thắt cổ tử cung. Ống thông này sẽ được rút trong thời gian hậu phẫu[5]. Lúc mang thai, bệnh nhân phải chịu cuộc mổ bắt con chứ không thể sinh ngả âm đạo được vì nguy cơ vỡ tử cung khi có cơn gò tử cung. Bệnh nhân cũng có tĕng nguy cơ vô sinh thứ phát do giảm tiết chất nhầy, là điều kiện không thể thiếu cho tinh trùng di chuyển lên trên tử cung và trưởng thành. Ngoài ra, cũng không loại trừ được sự tạo dây dính trong ổ bụng sau phẫu thuật. Tiên lượng về mặt ung thư học Trong một nghiên cứu, Diaz và cộng sự so sánh tiên lượng của 40 bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn IB1 được cắt cổ tử cung tận gốc (28 trường hợp cắt ngả âm đạo và 12 trường hợp cắt ngả bụng) với 110 bệnh nhân cùng giai đoạn được cắt tử cung tận gốc. Thời gian theo dõi trung bình 44 tháng. Tỷ lệ sống còn không tái phát 5 nĕm đối với nhóm cắt cổ tử cung tận gốc là 96% so với 86% của nhóm cắt tử cung tận gốc. Các tác giả kết luận đối với bệnh nhân giai đoạn IB1 được chọn lọc kỹ thì cắt cổ tử cung tận gốc bảo tồn sinh sản cho tiên lượng tương đương với nhóm bệnh nhân cắt tử cung tận gốc[6]. Một nghiên cứu hậu kiểm do Pareja thực hiện nĕm 2013 cho kết quả chỉ có 3,8% trong tổng số 485 trường hợp cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng bị tái phát[17]. Một nghiên cứu hậu kiểm khác do Quing Zhang thực hiện nĕm 2017 ghi nhận tỷ lệ tái phát sau cắt cổ tử cung tận gốc là 2,3%, tỷ lệ tử vong là 0,7%[21]. Tiên lượng về mặt sản khoa Dự hậu sản khoa sau mổ cắt cổ tử cung tận gốc có nhiều hạn chế. Đa số tác giả cho rằng bệnh nhân phải đợi ít nhất 6 – 12 tháng sau khi mổ mới được mang thai[4] . Do có sự tạo thành mô sẹo sau mổ cắt cổ tử cung và có thể có biến chứng hẹp lỗ cổ tử cung nên bệnh nhân sẽ khó đậu thai tự nhiên hơn người bình thường, nhiều trường hợp cần phải có can thiệp của các chuyên gia sinh sản hỗ trợ. Do nguy cơ cao bị sẩy thai ở tam cá nguyệt thứ hai và bị sinh non nên nếu bệnh nhân mang thai sau cắt cổ tử cung tận gốc phải được xếp vào thai kỳ nguy cơ cao và phải được siêu âm thường xuyên để theo dõi chiều dài của mỏm cụt cổ tử cung. Nên tránh để sinh ngả âm đạo vì nguy cơ rách mỏm cụt cổ tử cung lan rộng đến mạch máu tử cung và gây xuất huyết ồ ạt rất nguy hiểm[28]. Trong một tổng kết được thực hiện tại hai bệnh viện ở Rumani nĕm 2014, các tác giả báo cáo trong 23 trường hợp được cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng có 7 bệnh nhân cố gắng mang thai, nhưng chỉ có 3 người đậu thai. Cuối cùng, chỉ có 1 trường hợp sinh thành công sau mổ lấy thai còn 2 trường hợp còn lại bị sẩy thai[15] Trong một tổng kết toàn bộ y vĕn của Pajera thực hiện nĕm 2013, có 485 bệnh nhân được cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng trên toàn thế giới, 413 bệnh nhân (85%) còn giữ được chức nĕng sinh sản, 113 bệnh nhân (38%) còn giữ ý định muốn sinh con, nhưng chỉ có 67 trường hợp (59,3%) đậu thai[17]. Okugawa (2017) hồi cứu 151 trường hợp cắt cổ tử cung ngả bụng (89 ca cắt cổ tử cung tận gốc, 48 ca cắt cổ tử cung tận gốc biến đổi, 14 ca cắt cổ tử cung đơn giản). Có 61 bệnh nhân vẫn giữ ý muốn mang thai, trong đó có 15 bệnh nhân thành công (25%). Tổng số thai kỳ có được là 21. Mười lĕm đứa trẻ ra đời nhờ mổ lấy thai giữa tuần lễ thứ 23 và 37. Sáu đứa trẻ được mổ lúc đủ tháng. Sáu trường hợp vỡ ối non[9]. Theo dõi Theo khuyến cáo của Hội ung thư phụ khoa châu Âu (ESGO) đưa ra nĕm 2017 thì tất cả bệnh nhân bảo tồn chức nĕng sinh sản đều có nguy cơ tái phát và phải theo dõi sát. Thời gian theo dõi là mỗi 3 – 4 tháng trong 2 nĕm đầu, mỗi 6 – 12 tháng trong 3 nĕm tiếp theo, sau đó theo dõi giống như dân số chung. Tuy nhiên, cần cá thể hóa tùy theo nguy cơ tái phát hoặc biến chứng điều trị. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 52 Khi tái khám, ngoài việc khám lâm sàng thường quy cần phải thực hiện xét nghiệm HPV có hoặc không có phết tế bào kèm theo. Hoặc có thể kết hợp soi cổ tử cung với test HPV. Xét nghiệm tìm HPV nguy cơ cao mỗi 6, 12, 24 tháng sau điều trị, nếu âm tính thì thực hiện lại mỗi 3-5 nĕm một lần. Khâu thắt cổ tử cung hay không? Một báo cáo của Ma và cs nĕm 2014 trên 46 bệnh nhân, đưa ra đề nghị không cần khâu thắt cổ tử cung trước hoặc trong thai kỳ sau khi cắt cổ tử cung tận gốc ngả âm đạo[13]. Tuy nhiên, theo khuyến cáo mới nhất của ESGO nĕm 2017, nên khâu thắt cổ tử cung khi cắt cổ tử cung tận gốc. Một khảo sát được thực hiện trên tất cả thành viên Hội Ung thư Phụ khoa Hoa Kỳ (SGO) được thực hiện nĕm 2016. Kết quả cho thấy 66% có khâu thắt cổ tử cung trong lúc cắt cổ tử cung tận gốc; trong đó 47% sử dụng chỉ prolene, 10,5% sử dụng goretex, 33% sử dụng mersilene, 9% sử dụng ethibond hoặc nylon[4]. Cắt lạnh diện cắt trong lúc mổ Để bảo đảm bờ an toàn tối thiểu 0,5cm thì nhà giải phẫu bệnh phải trả lời hai câu hỏi, đó là: Có tế bào ung thư ở diện cắt hay không? Và nếu không thì khoảng cách từ chỗ cao nhất của bướu đến diện cắt có đủ ít nhất 0,5cm hay không? Để trả lời câu hỏi thứ hai nhà giải phẫu bệnh phải cắt bệnh phẩm theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Mặt khác, để trả lời chính xác những tổn thương tuyến khó chẩn đoán trên mẫu cắt lạnh không phải là điều dễ dàng nếu không muốn nói là không thể[18][27]. Chĕm sóc thai kỳ Chĕm sóc thai kỳ ở bệnh nhân cắt cổ tử cung tận gốc là một thách thức lớn dành cho các nhà sản khoa, đòi hỏi phải có sự phối hợp của bác sĩ ung thư phụ khoa, bác sĩ sản khoa và bác sĩ sơ sinh. Những nguy cơ có thể xảy ra là sẩy thai ở tam cá nguyệt thứ hai, vỡ ối non, và sinh non. Sinh non là biến chứng quan trọng và hay gặp nhất sau mổ cắt cổ tử cung tận gốc (25 – 39%)[8][19][2][16]. Sinh non sau vỡ ối non một phần là do nhiễm trùng ngược dòng. Đa số tác giả khuyên nên khâu thắt cổ tử cung khi cắt cổ tử cung; tuy nhiên khi đó bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị chít hẹp cổ lỗ cổ tử cung và bục chỉ khâu cổ tử cung. Một phương pháp khác để phòng ngừa biến chứng do cổ tử cung yếu là khâu bít hoàn toàn lổ cổ tử cung khi bắt đầu bước sang tam cá nguyệt thứ hai. Cần phải siêu âm kiểm tra chiều dài của cổ tử cung mỗi hai tuần, bắt đầu từ tam cá nguyệt thứ hai trở đi[11]. Viêm âm đạo ngược dòng có thể gây ra viêm màng ối. Plante ghi nhận tỷ lệ sẩy thai ở tam ca nguyệt thứ hai ở bệnh nhân đã cắt cổ tử cung tận gốc cao gấp đôi phụ nữ bình thường (8,6% so với 4%), phần lớn là do nhiễm trùng ngược dòng và vỡ ối non[18]. Không có nút nhầy cổ tử cung bảo vệ là yếu tố góp phần gây ra tình trạng nhiễm trùng ngược dòng[24]. Shepherd đưa ra khuyến cáo nên sử dụng kháng sinh dự phòng vào những thời điểm nhạy cảm (tuần lễ thứ 16 và 24) để loại bỏ vi khuẩn trong âm đạo hoặc thực hiện tầm soát mỗi hai tháng một lần bắt đầu từ tuần lễ thứ 16 và điều trị bằng kháng sinh nếu cần thiết[7]. Một số tác giả khác đề nghị sử dụng povidone-iodine để vệ sinh âm đạo và đặt ulinastatin âm đạo mỗi ngày để phòng ngừa nhiễm khuẩn[7]. Nhiều phân tích hậu kiểm cho thấy hiệu quả của progesterone trong việc bảo vệ bệnh nhân khỏi sinh non tái diễn. Có thể dự phòng với 17-alpha- hydroxy-progesterone caproate tiêm bắp mỗi tuần[14] hoặc đặt âm đạo mỗi ngày với progesterone[3]. Sử dụng corticosteroid tiêm bắp khi bệnh nhân có dấu hiệu dọa sinh non. Steroid đã được chứng minh có hiệu quả trong phòng ngừa suy hô hấp nếu được sử dụng trước sinh trên 24 giờ và không quá 7 ngày trước khi sinh[1]. Thời điểm mổ lấy thai cũng là vấn đề còn tranh cãi. Một số tác giả khuyên nên mổ sớm khi thai được 34 tuần để tránh cơn gò tử cung[11], trong khi các tác giả khác khuyên mổ lúc 37 tuần[13]. Xuất hiện cơn gò tử cung trên những bệnh nhân này có thể dẫn đến nguy cơ vỡ tử cung và xuất huyết[10]. Một số tác giả khuyên nên sử dụng đường mổ dọc thân tử cung kinh điển để tránh nguy cơ đường mổ mở rộng sang bên quá mức làm tổn thương mạch máu tử cung và gây chảy máu sau mổ[7]. Tuy nhiên, đường mổ này lại làm tĕng nguy cơ chảy máu trong lúc mổ nhiều hơn đường mổ ngang đoạn dưới tử cung. Mặt khác, một số tác giả cũng chứng minh được rằng đường mổ ngang vẫn an toàn cho bệnh nhân đã cắt cổ tử cung tận gốc[13][7]. KẾT LUẬN Cắt cổ tử cung tận gốc ngả bụng là một giải pháp an toàn về mặt ung thư cho bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm và thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Nó giúp cho bệnh nhân có cơ hội giữ lại chức nĕng sinh sản sau khi khỏi bệnh mặc dù tỉ lệ sinh con thành công còn khiêm tốn và đòi hỏi quá trình chĕm sóc thai kỳ thật sát sao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brownfoot F.C, Gagliardi D.J. Different corticosteroids and regimens for accelerating fetal lung maturation for women at risk of NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 53 preterm birth. Cochrane Database Syst. 2013: Rev.8, CD006764. 2. Cibula D, Slama J. Update on abdominal radical trachelectomy. Gynecol Oncol 2008; 111(2): 111-115. 3. Da Fonseca E.B, Bittar R.E. Prophylactic administration of progesterone by vaginal suppository to reduce the incidence of spontaneous preterm birth in women at increased risk: a randomized placebo-controlled double-blind study. Am. J. Obstet. Gynecol. 2003; 188(2): 419-424. 4. Davenport S.M, Jackson A.L, Herzog T.J. Cerclage during trachelectomy for early-stage cervical cancer.Gynecol Oncol 2016; 141 (1): 76-77. 5. Delia Nicolaiciuc, Gabriela Simionescu, B. Doroftei. Abdominal radical trachelectomy as a method of preserving fertility in patients with cervical cancer. Rev. Med. Chir. Soc. Med. Nat. 2018; 122: 96:101. 6. Diaz JP, Sonoda Y, Leitao MM. Oncologic outcome of fertility-sparing radical trachelectomy versus radical hysterectomy for stage IB1 cervical carcinoma.Gynecol Oncol 2008; 111(2):255-60. 7. Ishioka S, Endo T. Pregnancy-related complications after vaginal radical trachelectomy for early stage invasive uterine cevical cancer. Int. J. Clin. Oncol. 2007; 12(5): 350-355. 8. Jolley J.A, Wing D.A. Pregnancy management after cervical cervical surgery. Curr.Opin. Obstet. Gynecol. 2008; 20(6): 528-533. 9. Kaoru Okugawa, Hiroaki Kobayashi. Oncologic and obstetric outcomes and complications during pregnancy after fertility-sparing abdominal trachelectomy for cervical cancer: a retrospective review. Int J. Clin Oncol 2016. 10. Kay T.A, Renninson J.N. Successful pregnancy following radical trachelectomy and in vitro fertilisation with ovum donation. BJOG 2006; 113(8): 965-966. 11. Knight L.J, Acheson N. Obstetric management following fertility-sparing radical vaginal trachelectomy for cervical cancer.Obstet Gynecol 2010: 30(8): 784-789. 12. Laszlo Ungar, Laszlo Palfalvi, Deborah C. M. Boyle, Giuseppe Del Priore, and J. Richard Smith. Radical abdominal trachelectomy. Atlas of gynecologic Oncology, third edition – Investigation and Surgery. Informa Healthcare. 2011. 13. Ma LK, Cao D.Y. Pregnancy outcome and obstetric management after vaginal radical trachelectomy.Eur. Rev. Med. Pharmacol. Sci. 2014; 18(20): 3019-24. 14. Meis P.J, Klebanoff M. Prevention of preterm delivery by 17 alpha-hydroxyprogesterone capronate.N. Engl. J. Med. 2003; 348(24): 2379- 2385. 15. Mihai Emil Capilna, Nicolae Ioanid. Abdominal radical trachelectomy: a Romanian seies. International Journal of Gynecological Cancer 2014; 24(3): 615-9. 16. Palfalvi L, Ungar L, Boyle DC, et al. Announcement of healthy baby boy following abdominal radical trachelectomy. Int J Gynecol Cancer. 2003; 13:249. 17. Pareja R, Rendon GJ, Sanz – Lomana. Surgical, oncological, and obstetrical outcomes after abdominal radical trachelectomy – A systematic literature review. Gynecologic Oncology.2013; 131: 77-82. 18. Park KJ, Soslow RA, Sonada Y. Frozen-section evaluation of cervical adenocarcinoma at time of radical trachelectomy: pathologic pitfalls and the application of an objective scoring system. Gynecol Oncol 2008; 110(3): 316-23. 19. Plante M. Evolution in fertility-preserving options for early-stage cervical cancer: radical trachelectomy, simple trachelectomy, neoadjuvant chemotherapy. Int. Gynecol. Cancer 2013; 23(6): 982-9. 20. Plante M. Vaginal radical trachelectomy: an update. Gynecol Oncol 2008; 111(2): 105-110. 21. Quing Zang, Wenhui Li, Margaux J. Kanis. Oncologic and obstetrical outcomes with fertility – sparing treatment of cervical cancer: a systematic review and meta-analysis. Oncotarget. 2017; 8(28): 46580-92. 22. Ramirez P, Schmeler K, Soliman P, et al. Fertility presentation in patients with early cervical cancer: radical trachelectomy. Gynecol Oncol 2008; 110: S25-8. 23. Rob L, Skapa P, Robova H. Fertility-sparing surgery in patients with cervical cancer. Lancet Oncol 2011 Feb; 12(2):192-200. 24. Shepherd J.H, Miliken D.A. Conservative surgery for carcinoma of the cervix. Clin. Oncol (R. Coll. Radiol.) 2008; 20(6): 395-400. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 54 25. Shepherd J.H, Mould T, Oram D.H. Radical trachelectomy in early stage carcinoma of the cervix: outcome as judged by recurrence and fertility rates. BJOG 2001; 108(8): 882-5. 26. Smith JR, Boyle DC, Corless DJ et al. Abdominal radical trachelectomy: a new surgical technique for the conservative management of cervical carcinoma. Br J Obste Gynaecol 1997; 104: 1196-1200. 27. Tanguay C, Plante M, Renaud MC, Roy M. Vaginal radical trachelectomy in the treatment of cervical cancer: the role of frozen section. Int J Gynecol Pathol 2004; 23(2): 170-5. 28. Yong Kuei Lim, Sze Min Lek, Seow Heong Yeo. Obstetric care after radical abdominal trachelectomy in a patient with stage IB1 cervical cancer: A case report and a review of medical literature. Gynecol Oncol Reports 2016; 17:86- 88.
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_cat_co_tu_cung_tan_goc_nga_bung_tong_hop.pdf

