Nhân một trường hợp bướu cơ trơn thành âm đạo
Giới thiệu: Bướu cơ trơn thành âm đạo là một bệnh lý rất hiếm, đến nay trên y văn chỉ có khoảng
300 trường hợp được ghi nhận. Tùy vào vị trí và kích thước, bướu cơ trơn thành âm đạo có thể
gây triệu chứng lâm sàng như giao hợp đau, tiểu khó. Bướu này có thể được chẩn đoán nhầm
với u xơ cơ tử cung, nang cạnh niệu đạo, sa bàng quang.
Bài viết này nhằm mục tiêu nhắc lại những đặc điểm của loại bệnh lý hiếm này nhân một trường
hợp bướu cơ trơn thành âm đạo đã được mổ.
Trình bày ca bệnh: Bệnh nhân nữ 43 tuổi, PARA: 1011 đến khám tại một bệnh viện tỉnh vì tiểu
khó, đau trằn nặng vùng hạ vị. Với chẩn đoán U xơ cơ tử cung to, bệnh nhân được mổ bóc nhân
xơ, nhưng khi mở bụng, phẫu thuật viên ghi nhận tử cung và hai phần phụ hoàn toàn bình
thường nên không xử trí gì, đóng bụng và chuyển tuyến trên. Tại bệnh viện tuyến trên, khám,
siêu âm và cộng hưởng từ ghi nhận có một khối u đặc nghi u cơ trơn kích thước 82x70x68 mm
ở thành trước âm đạo. Bệnh nhân được mổ lấy trọn khối u qua ngả âm đạo. Kết quả giải phẫu
bệnh: bướu cơ trơn thành âm đạo.
Bàn luận: Khác với u xơ cơ tử cung là một bệnh thường gặp, bướu cơ trơn thành âm đạo rất
hiếm gặp vì vậy thường dẫn đến chẩn đoán sai như u xơ cơ tử cung, nang cạnh niệu đạo. Chẩn
đoán dựa vào lâm sàng và các phương tiện cận lâm sàng như siêu âm, cộng hưởng từ. Phương
pháp điều trị thường được áp dụng là phẫu thuật ngả âm đạo lấy trọn khối u.
Kết luận: U cơ trơn thành âm đạo nên được chẩn đoán chính xác trước khi phẫu thuật để tránh
mổ lầm
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân một trường hợp bướu cơ trơn thành âm đạo
32 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 1, Tháng 5 – 2018 Nhân một trường hợp bướu cơ trơn thành âm đạo Trần Thị Lợi* Trần Huy Dũng** Nguyễn Thị Yến Thu** Cao Văn Hưng*** Trương Thị Thùy Dương*** Phạm Công Toàn*** Hồ Minh Tuấn*** Tóm tắt Giới thiệu: Bướu cơ trơn thành âm đạo là một bệnh lý rất hiếm, đến nay trên y văn chỉ có khoảng 300 trường hợp được ghi nhận. Tùy vào vị trí và kích thước, bướu cơ trơn thành âm đạo có thể gây triệu chứng lâm sàng như giao hợp đau, tiểu khó. Bướu này có thể được chẩn đoán nhầm với u xơ cơ tử cung, nang cạnh niệu đạo, sa bàng quang. Bài viết này nhằm mục tiêu nhắc lại những đặc điểm của loại bệnh lý hiếm này nhân một trường hợp bướu cơ trơn thành âm đạo đã được mổ. Trình bày ca bệnh: Bệnh nhân nữ 43 tuổi, PARA: 1011 đến khám tại một bệnh viện tỉnh vì tiểu khó, đau trằn nặng vùng hạ vị. Với chẩn đoán U xơ cơ tử cung to, bệnh nhân được mổ bóc nhân xơ, nhưng khi mở bụng, phẫu thuật viên ghi nhận tử cung và hai phần phụ hoàn toàn bình thường nên không xử trí gì, đóng bụng và chuyển tuyến trên. Tại bệnh viện tuyến trên, khám, siêu âm và cộng hưởng từ ghi nhận có một khối u đặc nghi u cơ trơn kích thước 82x70x68 mm ở thành trước âm đạo. Bệnh nhân được mổ lấy trọn khối u qua ngả âm đạo. Kết quả giải phẫu bệnh: bướu cơ trơn thành âm đạo. Bàn luận: Khác với u xơ cơ tử cung là một bệnh thường gặp, bướu cơ trơn thành âm đạo rất hiếm gặp vì vậy thường dẫn đến chẩn đoán sai như u xơ cơ tử cung, nang cạnh niệu đạo. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và các phương tiện cận lâm sàng như siêu âm, cộng hưởng từ. Phương pháp điều trị thường được áp dụng là phẫu thuật ngả âm đạo lấy trọn khối u. Kết luận: U cơ trơn thành âm đạo nên được chẩn đoán chính xác trước khi phẫu thuật để tránh mổ lầm. Từ khóa: u cơ trơn thành âm đạo, khối u cạnh niêu đạo. Summary VAGINAL LEIOMYOMA - A CASE REPORT Introduction: Leiomyomas of the vagina are very rare until now, approximately 300 cases have been reported in the literature. Depending on the size and location, this tumor may cause varied clinical symptoms: dyspareunia, pain, dysuria. Leiomyomas of the vagina may be misdiagnosed as uterine leiomyoma, paraurethral mass, cystocele. Case report: A 43-year-old woman G2 P1 came from a province hospital with chief complaints of dysuria and having a sensation of a mass in the lower abdomen. There, she was operated but no uterine leiomyoma found, so she was transferred to a referral hospital. Pelvic examination, ultrasound and magnetic resonance imaging (MRI) revealed a firm, non-tender mass, measuring about 82x70x68 mm in the anterior vaginal wall. A complete surgical excision was performed by vaginal route, and the pathology report confirmed the diagnosis of benign leiomyoma. Discussion: Leiomyomas are common benign tumors in the uterus, but they are rarely seen in the vagina wall leading to misdiagnosed such as uterine leiomyoma, paraurethral cysts. Diagnosis is based on physical examination and ultrasound, MRI. Excision through a vaginal approach is generally indicated. This is usually easy but can be very difficult if the tumor is large, vascular and extending into the broad ligament. Conclusion: Leiomyoma of the vagina should be well diagnosed to avoid mistreatment Keywords: vaginal leiomyoma, paraurethral mass. _____________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ * Bộ môn SPK-SKSS, ĐHQG TP.HCM ; DĐ: 0913678064 Email:[email protected] ** Học viên BM SPK-SKSS, ĐHQG TP.HCM 33 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Giới thiệu U xơ cơ tử cung là u lành tính rất thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên. Tỉ lệ phụ nữ bị u xơ cơ tử cung khoảng 20-25%, nhưng theo kết quả hồi cứu mẫu cắt tử cung hay hình ảnh trên siêu âm thì tỉ lệ cao đến 70- 80%.1,2,3 Phụ nữ gốc Phi có tỉ lệ mắc u cơ trơn cao nhất. Phụ nữ gốc Latin, châu Á và da trắng có tỉ lệ mắc u cơ trơn tương tự nhau.4,5,6 Các yếu tố nguy cơ cho sự phát triển khối u cơ trơn tử cung là tuổi tăng dần, có kinh sớm, sinh con ít, dùng Tamoxifen, béo phì và một số nghiên cứu còn chỉ ra chế độ dinh dưỡng giàu chất béo. Triệu chứng lâm sàng đa dạng liên quan đến kích thước, số lượng cũng như vị trí của u cơ trơn. Đa số phụ nữ mắc u cơ trơn thường không có triệu chứng lâm sàng, một số ít có các triệu chứng xuất huyết tử cung bất thường, đau trằn bụng. U cơ trơn có thể phát triển ở bất kì vị trí nào của cơ thể có cơ trơn và thường gặp nhất là tử cung. Ngoài ra, u cơ trơn có thể gặp ở cổ tử cung 4%,7 hiếm gặp hơn là buồng trứng, vòi trứng, dây chằng rộng, âm đạo và âm hộ. Bướu cơ trơn thành âm đạo là trường hợp rất hiếm gặp của u cơ trơn lành tính, chỉ có 300 ca được ghi nhận trên toàn y văn thế giới, trong đó ca bệnh đầu tiên được Denys de Leyden báo cáo vào năm 1733.8 Do tính cách quá hiếm gặp, bướu cơ trơn thành âm đạo thường bị chẩn đoán nhầm với u xơ cơ tử cung, nang cạnh niệu đạo, sa bàng quang. Tùy vào vị trí và kích thước, bướu cơ trơn thành âm đạo có thể gây triệu chứng lâm sàng như giao hợp đau, tiểu khó. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và các phương tiện cận lâm sàng như siêu âm, cộng hưởng từ. Báo cáo ca lâm sàng Bệnh nhân nữ 43 tuổi, PARA: 1011, đến khám tại một bệnh viện tỉnh vì tiểu khó, đau trằn nặng vùng hạ vị. Với chẩn đoán u xơ cơ tử cung to, bệnh nhân được mổ bóc nhân xơ, nhưng khi mở bụng, phẫu thuật viên ghi nhận tử cung và hai phần phụ hoàn toàn bình thường nên không xử trí gì, đóng bụng và chuyển đến bệnh viện tuyến trên. Bệnh nhân không có tiền sử rối loạn kinh nguyệt, xuất huyết tử cung bất thường hay đau khi giao hợp.Tiền sử nội và ngoại khoa không ghi nhận bất thường. Khám lâm sàng phát hiện một khối chắc, di động, không đau, kích thước khoảng 80x70x70 mm ở thành trước âm đạo. Âm đạo, cổ tử cung, tử cung và 2 phần phụ trong giới hạn bình thường. Siêu âm ghi nhận khối echo hỗn hợp đường kính 80x74 mm ở cùng đồ trước, tử cung, phần phụ bình thường và không có dịch trong ổ bụng. Chụp cộng hưởng từ cho hình ảnh một khối đặc ở thành trước âm đạo kích thước 70x82x68 mm, tín hiệu cao ở T2W, thấp ở T1W, bắt thuốc gadolium mạnh đồng nhất (Hình 1-4). Hình 1. Ảnh MRI mặt cắt ngang thì T1 ghi nhận u cơ trơn thành trước âm đạo Hình 2. Ảnh MRI mặt cắt ngang thì T2 ghi nhận u cơ trơn thành trước âm đạo 34 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 1, Tháng 5 – 2018 Hình 3. Ảnh MRI mặt cắt dọc thì T1 ghi nhận Bướu cơ trơn thành trước âm đạo Hình 4. Ảnh MRI mặt cắt dọc thì T2 ghi nhận Bướu cơ trơn thành trước âm đạo Bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật bóc trọn u qua ngả âm đạo (Hình 5). Sau khi mê nội khí quản, bệnh nhân nằm ở tư thế sản khoa, được thông tiểu bằng sonde Foley để tránh tổn thương bàng quang và bộc lộ âm đạo bằng van. Rạch ngang thành trước âm đạo để tiếp cận khối u và tiến hành bóc trọn u. Khối u to nên phẫu thuật viên đã cắt nhỏ khối u, lấy ra từ từ để có thể bóc trọn u mà không gây tổn thương bàng quang, niệu đạo. Để tránh xuất huyết hậu phẫu, sau khi khâu cầm máu, âm đạo được chèn gạc chặt, rút gạc sau 24 giờ. Hình ảnh đại thể sau phẫu thuật là một khối đặc màu trắng, mật độ chắc có kích thước 70x60x80 mm. Kết quả giải phẫu bệnh vi thể là u cơ trơn lành tính (Hình 6). Bệnh nhân được xuất viện sau bốn ngày hậu phẫu ổn. Hình 5. Bóc u qua ngả âm đạo Hình 6. Mô học Bướu cơ trơn lành tính ở mẫu nhuộm HE x 400 Bàn luận Bướu cơ trơn âm đạo là một trường hợp hiếm, chỉ khoảng 300 trường hợp được báo cáo trên y văn thế giới.10,11,12 Thường gặp ở độ tuổi 35-50 tuổi, thường đơn u, ở vị trí thành trước âm đạo nhiều hơn thành sau và thành bên, hầu hết nhỏ và phát triển chậm, với kích thước trung bình từ 1 – 5cm, đôi khi tới 15cm.10,11 Bướu cơ trơn âm đạo là loại bướu phụ thuộc estrogen, nên có thể phát triển rất nhanh trong lúc mang thai và thu nhỏ kích thước sau khi mãn kinh, khi chức năng của buồng trứng đã suy giảm.11 Bệnh nhân thường không có triệu chứng đặc hiệu nào và xuất hiện các triệu chứng lâm sàng đa dạng tùy thuộc vào kích thước và vị trí bướu như đau bụng dưới, xuất huyết âm đạo, đau khi giao hợp, tiểu khó và tắc nghẽn đường tiểu khi bướu có kích thước ≥ 6cm.10,13 Liu và cộng sự khi tiến hành nghiên cứu 11 trường hợp bướu cơ trơn âm đạo, ghi nhận 35 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC bệnh nhân phải mất 8,4 năm để xuất hiện các triệu chứng trên.13 Bướu có mật độ trung bình, tuy nhiên chúng có thể bị thoái hóa như u cơ trơn tử cung.12 Nang nước thành trước âm đạo, nang cạnh niệu đạo, nang tuyến skene, nang tuyến Gartner, nang tuyến Bartholin và sa sinh dục là những chẩn đoán phân biệt trước mổ thường gặp. Khám lâm sàng, siêu âm có thể giúp nghi ngờ chẩn đoán, nhưng chưa xác định được bản chất khối u.12,14 MRI thường được sử dụng, với hình ảnh cường độ thấp ở thì T1W, giống với mật độ của vùng cơ của tử cung và vẫn duy trì cường độ tín hiệu tương đối thấp đó ở cả thì T2W. Kết quả giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán và loại trừ nguy cơ ác tính.10 Trong trường hợp được báo cáo, bệnh nhân 43 tuổi, nhập viện với triệu chứng tiểu khó và đau trằn hạ vị, hình ảnh siêu âm, MRI cho thấy một khối đặc ở thành trước âm đạo kích thước 70x82x68 mm phù hợp với những tài liệu và nghiên cứu trước đó. Khi bướu được phát hiện, dù kích thước nhỏ, cũng cần loại bỏ ngay để tránh bướu phát triển to, phẫu thuật khó khăn và tiềm ẩn nguy cơ hóa ác. Khi bướu tái phát mà buồng trứng vẫn còn chức năng, thì phẫu thuật cắt buồng trứng nên được cân nhắc. Tóm lại, phẫu thuật ngả âm đạo là phương pháp an toàn và hiệu quả được lựa chọn để điều trị u cơ trơn thành âm đạo với đặt thông niệu đạo, giúp bảo vệ bàng quang và niệu đạo trong quá trình phẫu thuật.14 Những trường hợp u quá to, lan đến dây chằng rộng, có thể phải mở bụng để đảm bảo cầm máu hiệu quả. Điều đáng lưu ý u cơ trơn thành âm đạo là một u hiếm, nhưng chúng ta cũng nên lưu ý để tránh chẩn đoán nhầm, xử trí sai. Kết luận U cơ trơn thành âm đạo là một u rất hiếm, nên khi thăm khám phụ khoa, phát hiện một khối u đặc ở thành âm đạo, chúng ta cũng nên lưu ý đến loại u này để tránh chẩn đoán nhầm, xử trí sai. Tài liệu tham khảo 1. Buttram VC Jr, Reiter RC (1981), “Uterine leiomyomata: etiology, symptomatology, and management”, Fertil Steril, 36(4), pp. 433. 2. Cramer SF, Patel A (1990), “The frequency of uterine leiomyomas”, Am J Clin Pathol, 94(4), pp. 435. 3. Day Baird D, Dunson DB, Hill MC, et al (2003), “High cumulative incidence of uterine leiomyoma in black and white women: ultrasound evidence”, Am J Obstet Gynecol, 188(1), pp. 100. 4. Baird DD, Dunson DB, Hill MC, Cousins D, Schectman JM (2003), “High cumulative incidence of uterine leiomyoma in black and white women: ultrasound evidence”, Am J Obstet Gynecol, 188(1), pp. 100-7. 5. Marshall LM, Spiegelman D, Barbieri RL, Goldman MB, Manson JE, Colditz GA, Willett WC, Hunter DJ (1997), “Variation in the incidence of uterine leiomyoma among premenopausal women by age and race.”, Obstet Gynecol, 90(6), pp. 967. 6. Marsh EE, Ekpo GE, Cardozo ER, Brocks M, Dune T, Cohen LS (2013), “Racial differences in fibroid prevalence and ultrasound findings in asymptomatic young women (18-30 years old): a pilot study”, Fertil Steril, 99(7), pp. 1951-7. 7. Tiltman AJ (1998), “Leiomyomas of the uterine cervix: a study of frequency”, Int J Gynecol Pathol, 17(3), pp. 231. 8. Young SB, Rose PG, Reuter KL (1991), “Vaginal fibromyomata: Two cases with preoperative assessment, resection and reconstruction”, Obstet Gynecol, 78, pp. 972–4. 9. Bennett HG, Jr, Erlich MM (1941), “Myoma of the vagina”, Am J Obstet Gynecol, 42, pp. 314– 20. 10. IndranilChakrabarti, AnuradhaDe, and Shyama pada Pati (2011), “Vaginal leiomyoma”, J Midlife Health, 2(1), pp. 42–43. 11. Yu Wu,Weiming Wang, Xujun Sheng, Liang Kong, and Jun Qi (2015), “A Misdiagnosed Vaginal Leiomyoma”, Urol Case Rep, 3(3), pp. 82–83. 12. Ghike Sunita, Dixit Prachi, Gawande Madhuri, Kose Varsha, Jain Sheela, Jain Preksha (2014), “A rare case of vaginal leiomyoma”, PJMS, 4(2) 13. Meng-Mei Liu, Nanjing Medical College, Nanjing (1988), “Fibromyoma of the vagina”, European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology, 29, pp. 321-328 14. Kavyashree G, Manohar R, Kala B (2014), “Vaginal Leiomyoma: Unusual Case Presentation”, Indian Journal of Clinical Practice, 24(10).
File đính kèm:
nhan_mot_truong_hop_buou_co_tron_thanh_am_dao.pdf

