Nhân hai trường hợp ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn cấp tính

I. ĐặT VấN Đề

Chấn thương cột sống (CTCS): là những thương tổn của xương, dây chằng, đĩa đệm cột sống gây nên tình trạng tổn thương thần kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn cho bệnh nhân. Các tổn thương thần kinh bao gồm liệt vận động, cảm giác, rối loạn cơ tròn (liệt tứ chi, liệt hai chân, đái ỉa không tự chủ, liệt cơ hô hấp ) là những hậu quả rất phổ biến và nặng nề thường thấy trên lâm sàng. Liệt tủy hoàn toàn thường xảy ra khi tổn thương nằm trên nón tủy, trên lâm sàng được biểu hiện mất hoàn toàn vận động và cảm giác dưới mức tủy tổn thương bao gồm cả cảm giác quanh hậu môn

pdf 4 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Nhân hai trường hợp ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn cấp tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân hai trường hợp ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn cấp tính

Nhân hai trường hợp ứng dụng ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị chấn thương cột sống liệt tuỷ hoàn toàn cấp tính
1
Phản biện khoa học: TS. Trần Trung Dũng
Nguyễn Văn Thạch*, Nguyễn Lê Bảo Tiến**, Nguyễn Đình Hoà***
NHÂN HAI TRƯỜNG HỢP ỨNG DụNG GHÉP TẾ BÀO 
GỐC MÔ MỠ TỰ THÂN ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG 
CỘT SỐNG LIỆT TUỶ HOÀN TOÀN CẤP TÍNH
REPORT TWO CASE WHICH APPLICATION OF AUTOLOGOUS 
ADIPOSE DERIVED MSCS TRANSPLANTATION IN PATIENT WITH 
ACUTE SPINAL CORD INJURY
I. ĐặT VấN Đề
Chấn thương cột sống (CTCS): là những thương tổn 
của xương, dây chằng, đĩa đệm cột sống gây nên tình 
trạng tổn thương thần kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn cho 
bệnh nhân. Các tổn thương thần kinh bao gồm liệt vận 
động, cảm giác, rối loạn cơ tròn (liệt tứ chi, liệt hai chân, 
đái ỉa không tự chủ, liệt cơ hô hấp) là những hậu quả 
rất phổ biến và nặng nề thường thấy trên lâm sàng. Liệt 
tủy hoàn toàn thường xảy ra khi tổn thương nằm trên 
nón tủy, trên lâm sàng được biểu hiện mất hoàn toàn 
vận động và cảm giác dưới mức tủy tổn thương bao 
gồm cả cảm giác quanh hậu môn.[10].
Hàng năm có khoảng 40 ca CTCS mới trong một 
triệu dân hoặc tổng số có khoảng 12000 ca CTCS tại 
Mỹ. Bệnh nhân nam giới chiếm đa số với tỷ lệ khoảng 
77%, tuổi trung bình của bệnh nhân trong ba thập kỷ 
gần đây khoảng từ 28,7 đến 39,5 tuổi với nguyên nhân 
chính là tai nạn giao thông và ngã cao. Tổn thương đụng 
dập tủy chiếm 70%. [9], [10]. Tại Việt Nam, CTCS gặp 
chủ yếu do tai nạn lao động và tai nạn giao thông với 
độ tuổi trung bình khoảng 35-40 có thể chiếm đến 80%, 
đây là lực lượng lao động chính của xã hội. [3],[8]
Bệnh nhân CTCS không hoặc liệt tủy không hoàn 
toàn, sau khi điều trị theo đúng phác đồ có thể phục 
hồi, trở về cuộc sống thường ngày, lao động sản xuất 
ra vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, 
khi bị liệt tủy hoàn toàn, ngoài vấn đề mất sức lao động 
sau chấn thương, phụ thuộc vào người chăm sóc, bệnh 
nhân còn phải được điều trị các biến chứng như loét tỳ 
đè, nhiễm trùng tiết niệu, viêm tắc tĩnh mạch chi Đây 
không chỉ nâng giá thành điều trị lên rất nhiều lần mà 
còn là một sang chấn tinh thần nặng nề cho bệnh nhân 
và gia đình, nhiều trường hợp không thể tiếp tục điều trị 
do bản thân bệnh nhân từ chối.[3],[5].
Trong vài năm trở lại đây, những nghiên cứu về 
ứng dụng tế bào gốc (TBG) trong điều trị bệnh đã thu 
hút được sự quan tâm rất lớn trong giới y học trong và 
ngoài nước. Nhiều bệnh lý thuộc nhiều chuyên nghành 
khác nhau đã được điều trị bằng TBG với kết quả rất 
khả quan, trong đó có bệnh chấn thương cột sống. Với 
đặc tính có khả năng tự tái tạo và biệt hóa thành những 
tế bào chuyên biệt, đa dòng trong những điều kiện nhất 
định như tế bào cơ, xương, sụn, da, tế bào thần kinh
TBG được xem như là nguồn “nguyên liệu” dự trữ, giúp 
cơ thể sửa chữa, tái tạo, thay thế những mô, tổ chức bị 
tổn thương [4],[8],[12].
II. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP GHÉP TẾ BÀO GỐC
Báo cáo trường hợp 1: Bệnh nhân nam 29 tuổi, tai nạn 
xe máy tự ngã ngày 15/3/2013. Sau tai nạn bệnh nhân đến 
viện trong tình trạng: Tỉnh G15 điểm, M: 120/70 mmHg, 
Nhịp thở: 20lần/phút, bụng mền, khung chậu vững, mất 
vận động hai chi dưới, cơ lực 0/5, mất cảm giác ngang 
mức T3. Mất phản xạ cơ thắt, đại tiểu tiện không tự chủ. 
Trên hình ảnh XQ, CT: vỡ trật T5-T6, MRI hình ảnh đụng 
dập phù nề tuỷ ngang mức T3-T6. Chẩn đoán trước mổ: 
CTCS vỡ trật T5-T6 ASIA_A. Bệnh nhân và người nhà đã 
được tư vấn chương trình ghép tế bào gốc. Bệnh nhân được 
phẫu thuật cố định cột sống T3 T4 T6 T7, mở cung sau T5-
T6 và ghép tế bào gốc 13h ngày 19/3/2013 với liều ghép 
trực tiếp số lượng 4 triệu/ 10ml: trên tổn thương 2ml, giữa 
tổn thương 2ml, dưới tổn thương 2ml. 4ml mở màng cứng 
bơm trực tiếp. Theo dõi sau ghép ngày thứ 3 sau mổ bệnh 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013
2
nhân có cảm giác ngang mức T11, chưa có vận động. 
Sốt 38,5 điều trị bằng kháng sinh Sulperazol 1g và 
Tavanic 500mg nuôi cấy làm kháng sinh đồ 3 chủng 
vi khuẩn: Entezobacter aerogenes, Acinetobacter sp 
và Entezoeoccus faccalis. Ngày 25/3 điều trị bệnh 
nhân hết sốt, được chuyển tập phục hồi chức năng.
Báo cáo trường hợp 2: Bệnh nhân nam 31 tuổi, 
tai nạn xe máy tự ngã ngày 25/3/2013. Bệnh nhân 
vào viện trong tình trạng: Tỉnh G15 điểm, M: 90/50 
mmHg, nhịp thở 20l/phút, SPO2: 99%. Bụng mềm, 
khung chậu vững, mất vận động tứ chi, cơ lực 0/5, 
mất cảm giác ngang mức C3. Mất phản xạ cơ thắt, 
đại tiểu tiện không tự chủ. Trên hình ảnh XQ, CT vỡ 
C5-C6, MRI đụng dập tuỷ ngang mức 63mm. Chẩn 
đoán trước mổ: CTCS cổ vỡ C5-C6 ASI_A. Bệnh 
nhân và người nhà được tư vấn chương trình ghép 
tế bào gốc . Bệnh nhân được phẫu thuật cổ định cột 
sống cổ đường sau C4C5C6C7 và ghép trực tiếp số 
lượng 4 triệu/10ml ngày 28/3: trên tổn thương 2ml, 
giữa tổn thương 2ml, dưới tổn thương 2ml, 4ml mở 
màng cứng bơm trực tiếp. Theo dõi sau mổ 1ngày 
bệnh nhân rút ống nội khí quản, 3 ngày có cảm giác 
ngang mức T8, phản xạ tự động tuỷ, sau 5 ngày bệnh 
nhân được chuyển tập phục hồi chức năng.
Quy trình ghép:
Hình ảnh: Ghép tế 
bào gốc mô mỡ tự 
thân trường hợp chấn 
thương cột sống ngực
Hình ảnh: Ghép tế bào gốc mô mỡ tự thân trường hợp chấn thương côt sống cổ
Lần 1
PT
Lựa chọn và làm 
các xét nghiệm 
cần thiết
Phục hồi 
chức năng
Theo dõi đánh giá 
Lần 2 Lần 3 Lần 4
Ngày -14 Ngày 0 Ngày 15 1 T 1.5 T 2 T 3 T 6T 9T 12T 18T 24T
Phần 1: Phần cột sống
3
Kỹ thuật tách mỡ bụng:
- Sát trùng khu vực phẫu thuật.
- Sử dụng tay, xoa bóp nhẹ nhàng xung quanh vùng 
phẫu thuật. Tập trung vào những lớp mỡ bám chặt dưới da 
để hỗ trợ việc tách mỡ dễ dàng.
- Dung dịch bơm vào mô mỡ để hút: 100ml nước muối 
sinh lý với hỗn hợp nồng độ Lidocain 1%, adrenaline 
1/1000000 (Pha 500ml NaCl 0.9% với 0.5ml Adrenaline 
(1mg/1ml). Lấy 90ml dung dịch này pha 10ml Lidocain 
1%).
- Sử dụng dụng cụ chuyên dụng tạo đường vào để cán 
của bộ ống thông dò qua lại được.
- Từ từ cho đầu ống thông dò vào và định hướng đầu 
ống thông xuyên qua lớp mỡ ngay dưới da bệnh nhân.
- Di chuyển ống thông và kéo pittông của ống tiêm và 
bắt đầu lấy mỡ.
- Hút ra 80cc – 120 cc mỡ.
- Sau khi hút được lượng mỡ mong muốn, đóng kín 
ống tiêm bằng nắp ống tiêm xoắn.
- Dùng chỉ khâu hoặc kẹp để đóng đường vào.
- Vận chuyển với dây truyền lạnh về phòng thí nghiệm 
tách tế bào gốc
Quy trình phẫu thuật cố định cột sống và ghép tế bào 
gốc.
 Thì 1: cố định cột sống cổ phía sau
 Thì 2: mở cung sau
 Thì 3: mở màng cứng, đánh giá, bơm rửa
 Thì 4: Bơm tế bào gốc vào ba vị trí: phía trên tổn 
thương (2ml, 2ml/phút), phía dưới tổn thương (2ml, 2ml/
phút), chính giữa tổn thương (2ml, 2ml/phút).
 Thì 5: Kiểm tra, đóng màng cứng, trước khi đóng kín 
hẳn tiêm tế bào gốc (4ml, 2ml/phút).
III. KẾT LUẬN
Tại Mỹ, chi phí cho bệnh nhân CTCS hàng năm lên 
đến 10 tỷ đô la Mỹ, chưa bao gồm chi phí điều trị loét tỳ 
đè, một biến chứng hay gặp nhất của CTCS liệt tủy hoàn 
toàn, có thể thêm hàng tỷ đô la Mỹ mỗi năm. [10].
 Để có thể đưa các nghiên cứu về tế bào gốc và 
thực tiễn ứng dụng, thông thường cần phải theo các trình 
tự sau:
 Nuôi cấy, biệt hoá tế bào gốc thành tế bào thần 
kinh trong phòng thí nghiệm, bước này có thể tiến hành 
song song với các nghiên cứu cơ chế hình thành tế bào 
thần kinh từ tế bào gốc và các nhân tố ảnh hưởng tới quá 
trình này.
Tiếp theo sau, các sản phẩm thí nhiệm có thể được thử 
nghiệm trên mô hình động vật để chứng minh hiệu quả 
của quá trình cấy ghép, xác định liều lượng tế bào cần thiết 
cho qúa trình điều trị, tối ưu hoá mức độ hồi phục các phản 
ứng của cơ thể sau khi cấy ghép.
Sau khi chứng minh tính an toàn và hiệu quả của 
phương pháp điều trị bằng tế bào gốc thì các thử nghiệm 
lâm sàng trên người sẽ được tiến hành theo 4 giai đoạn, 
tăng dần theo số lượng
Tế bào gốc từ các nguồn khác nhau như tế bào gốc 
phôi, tế bào gốc thần kinh từ thai, từ máu dây rốn, tuỷ 
xương, mô mỡđều đã được thử nghiệm trong mô hình 
điều trị chấn thương cột sống. Các thử nghiệm trên bệnh 
nhân về tính an toàn và tính khả thi của liệu pháp tế bào 
gốc đã được tiến hành.
Cho đến nay việc tiến hành nghiên cứu trên động vật 
rất phổ biến và thu được kết quả khả quan. Các nhà khoa 
học đã sử dụng chuột, thỏ, linh trưởng làm đối tượng 
nghiên cứu tác dụng của tế bào gốc trong điều trị. Thông 
thường mô hình động vật thí nghiệm bị chấn thương cột 
sống bằng cách kẹp tuỷ sống, cắt đứt tuỷ sống. 
Nhìn chung, để đưa tế bào gốc vào đôi tượng nghiên 
cứu có 2 con đường tuỳ theo cơ chế hoạt động của tế 
bào gốc:
+ Đưa thẳng tế bào gốc ( có thể là tế bào tiền thần kinh, 
hoặc nguyên bào sợi thần kinh biệt hoá từ tế bào gốc) hoặc 
các trường hợp chất tăng trưởng từ tế bào gốc vào vùng 
tổn thương. Lúc này tế bào gốc hoạt động theo hướng tái 
tao/thay thế, biệt hoá thành tế bào thần kinh mới hoặc tế 
bào đệm thần kinh.
+ Đưa tế bào gốc bằng đường gián tiếp: Truyền tĩnh 
mạch hoặc tiêm vào vùng L2 (khoang dưới nhện). Các tế 
bào hiện diện sẽ hoạt động theo hướng cảm ứng/hỗ trợ. 
Tế bào gốc lưu thông, hạn chế tối đa sự chết theo chu kỳ 
và hạn chế cả phản ứng viêm đã được chứng minh có hại 
cho mô tuỷ. Các tế bào này khi hiện diện sẽ tiết ra yếu tố 
tăng trưởng, đồng thời cũng tiết ra các tín hiệu huy động 
các yếu tố tăng trưởng cần thiết trong cơ thể vật chủ, kích 
Hình: lấy mỡ bụng
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013
4
%.Tài liệu tham khảo
1.	 Nguyễn	Văn	Thạch	 (2007): “Nghiên cứu điều trị phẫu 
thuật gãy cột sống ngực – thắt lưng không vững, không 
liệt và liệt tủy không hoàn toàn bằng dụng cụ Moss 
Miami”. Luận án tiến sỹ Y học. 
2.	 Nguyễn	Lê	Bảo	Tiến	(2004):	“Nghiên cứu kết quả phẫu 
thuật chấn thương cột sống lưng – thắt lưng bằng vít qua 
cuống với dụng cụ Moss Miami tại bệnh viện Việt đức”. 
Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú các bênh viện.
3.	 Nguyễn	 Quang	 Tùng	 (2011): “Nghiên cứu ứng dụng 
và hoàn thiện quy trình thu gom, xử lý, bảo quản tế bào 
gốc tạo máu dùng cho ghép đồng loại”. Luận án tiến sỹ 
Y học.
4.	 Trần	 Văn	 Bé	 (1995):	 “Chuyên đề nghiên cứu và ứng 
dụng tế bào gốc ở Việt Nam: Ca ghép tủy đầu tiên ở Việt 
Nam”. Tạp trí y dược học.
5.	 Nguyễn	Thị	Thu	Hà	(2004): “Tế bào gốc và ứng dụng 
trong y sinh học”, TCNCYH phụ bản 32(6): tr. 13-26.
6.	 Park	HS,	Park	HC,	Shim	YS	et	 al	 (2005): “Treatment 
of complete spinal cord injury patients by autologous 
bone marrow cell transplantation and administration 
of granulocyte-macrophage colony stimulating factor”. 
TISSUE ENG; 11:913–922
7.	 Saito	F,	Nakatani	T,	Iwase	M	et	al	(2008): “Spinal cord 
injury treatment with intrathecal autologous bone marrow 
stromal cell transplantation: The first clinical trial case 
report”. J TRAUMA; 64:53–59.
8.	 Yoon	SH,	Shim	YS,	Park	YH	 et	 al	 (2007): “Complete 
spinal cord injury treat- ment using autologous bone 
marrow cell transplantation and bone marrow stimulation 
with granulocyte macrophage-colony stimulating factor: 
phase I/II clinical train”. STEM CELLS ;25:2066–2073.
9.	 Lammertse	 DP,	 Jones	 LAT	 et	 la	 (2012) “Autologous 
incubated macrophage therapy in acute, complete spine 
cord injury: results of the phase 2 randomized controlled 
multicenter trial.”. SPINAL CORD: 50, 661-671.
10.	 Sang	Han	Kim	et	la	(2013).	“Autologous Adipose Dirived 
MSCs Trasplantation in Patient With Spinal Cord Injury”
thích việc hình thành mạch máu và tế bào thần kinh 
mới. Theo một số ý kiến hiện nay, các nhà khoa học 
cho rằng cảm ứng hỗ trợ này có thể là hướng chính 
và hiệu quả hơn hẳn, vì theo đó, tế bào gốc khi được 
đưa vào cơ thể, một mặt biệt hoá thành tế bào thần 
kinh mới, một mặt tạo điều kiện để cơ thể vật chủ tự 
hồi phục.
Tại Việt nam gần đây có nhiều nghiên cứu ứng 
dụng tế bào gốc trong điều trị, nhưng trong ngành 
chấn thương chỉnh hình nói chung cũng như trong 
điều trị chấn thương cột sống liệt tủy nói riêng còn 
hạn chế. Cao Thỉ (2009) đã báo cáo ghép tủy xương 
để điều trị gãy hở hai xương cẳng chân, Nguyễn Mạnh 
Khánh (2010) báo cáo ứng dụng tế bào gốc điều trị 
chậm liền xương, khớp giả thân xương chày[5].
 Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ 
thuật, đặc biệt là sự phát triển công nghê tế bào gốc 
đã mở ra những hy vọng mới cho các bệnh nhân. 
Ngày nay liệu pháp tế bào gốc ( Stem cell therapy) 
được ứng dụng ngày càng nhiều trong các chuyên 
khoa, đặc biệt là chuyên khoa thần kinh và cột sống. 
Tế bào gốc có thể lấy ở rất nhiều nơi, song mỗi nơi 
có ưu nhược điểm khác nhau. Nhưng tế bào gốc mô 
mỡ là ưu điểm hơn do: dễ dàng thực hiện, bệnh nhân 
không đau, lượng tế bào gốc thu được với số lượng 
lớn, dễ nuôi cấy.
KẾT LUẬN: Qua hai trường hợp ứng dụng ghép 
tế bào gốc mô mỡ tự thân trong điều trị chấn thương 
cột sống liệt tuỷ hoàn toàn. Là phương pháp ứng 
dụng mới trong điều trị chấn thương cột sống. Mang 
đến niềm hy vọng mới cho bệnh nhân và người nhà. 
Cần phải đánh giá thêm về tính an toàn và hiệu quả 
của phương pháp. Nhưng đây cung là một giải pháp 
triển vọng cho người bệnh chấn thương cột sống 
liệt tuỷ.

File đính kèm:

  • pdfnhan_hai_truong_hop_ung_dung_ghep_te_bao_goc_mo_mo_tu_than_d.pdf