Nhận định dị ứng với cephalosporin gây hiểu lầm

TÓM TẮT

- Các kháng sinh nhóm penicilin và cephalosporin có thể gây ra các phản ứng dị ứng với

đặc điểm và tỷ lệ tương đương nhau.

- Phản ứng dị ứng chéo giữa các kháng sinh penicilin và cephalosporin, cũng như dị ứng

chéo giữa các thuốc trong nhóm cephalosorin, là hiếm gặp. Do đó, không nên dùng thuật

ngữ “dị ứng với nhóm cephalosporin” khi mô tả phản ứng dị ứng trên bệnh nhân.

- Dị ứng chéo có thể xảy ra giữa các thuốc trong nhóm cephalosporin (cũng như giữa các

thuốc trong nhóm penicilin) có nhóm thế tương tự nhau.

- Nhìn chung, nếu bệnh nhân có tiền sử dị ứng kháng sinh nhóm penicilin không đồng

nghĩa với việc bệnh nhân không sử dụng được các thuốc trong nhóm cephalosporin. Tương

tự, việc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với một thuốc trong nhóm cephalosporin không đồng

nghĩa rằng bệnh nhân đó không thể sử dụng được các kháng sinh khác thuộc nhóm

cephalosporin.

- Cần có thêm tư vấn chuyên môn hoặc xét nghiệm khi phản ứng nghi ngờ là phản ứng

phản vệ hoặc phản ứng bất lợi trên da nghiêm trọng, hoặc khi các kháng sinh nghi ngờ có

nhóm thế tương tự nhau.

- Khi ghi nhận một phản ứng dị ứng thuốc trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân, cần ghi rõ

tên thuốc cụ thể nghi ngờ (hoặc xác định) gây dị ứng, ngày xảy ra phản ứng và đặc điểm của

phản ứng này. Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân cũng cần được cập nhật nếu kết quả dùng thử

thuốc sau đó là âm tính.

pdf 20 trang phuongnguyen 5540
Bạn đang xem tài liệu "Nhận định dị ứng với cephalosporin gây hiểu lầm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận định dị ứng với cephalosporin gây hiểu lầm

Nhận định dị ứng với cephalosporin gây hiểu lầm
Môc lôc 
Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình 
Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh 
Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy 
ThS. Đặng Bích Việt 
DS. Lương Anh Tùng 
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - 
Trường Đại học Dược Hà Nội. 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 
NhËn ®Þnh 'dÞ øng víi 
cephalosporin' g©y hiÓu lÇm 
1 
Suy gi¸p do amiodaron 6 
TæNG KÕT c«ng t¸c B¸O C¸O 
PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
n¨m 2018 
8 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 13 
Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến  
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
No.4 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 
NhËn ®Þnh 'dÞ øng víi cephalosporin' g©y hiÓu lÇm 
Nguồn: Aust Prescr 2018;41:37-41 
Người dịch: Nguyễn Thanh Lương, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lương Anh Tùng 
TÓM TẮT 
- Các kháng sinh nhóm penicilin và cephalosporin có thể gây ra các phản ứng dị ứng với 
đặc điểm và tỷ lệ tương đương nhau. 
- Phản ứng dị ứng chéo giữa các kháng sinh penicilin và cephalosporin, cũng như dị ứng 
chéo giữa các thuốc trong nhóm cephalosorin, là hiếm gặp. Do đó, không nên dùng thuật 
ngữ “dị ứng với nhóm cephalosporin” khi mô tả phản ứng dị ứng trên bệnh nhân. 
- Dị ứng chéo có thể xảy ra giữa các thuốc trong nhóm cephalosporin (cũng như giữa các 
thuốc trong nhóm penicilin) có nhóm thế tương tự nhau. 
- Nhìn chung, nếu bệnh nhân có tiền sử dị ứng kháng sinh nhóm penicilin không đồng 
nghĩa với việc bệnh nhân không sử dụng được các thuốc trong nhóm cephalosporin. Tương 
tự, việc bệnh nhân có tiền sử dị ứng với một thuốc trong nhóm cephalosporin không đồng 
nghĩa rằng bệnh nhân đó không thể sử dụng được các kháng sinh khác thuộc nhóm 
cephalosporin. 
- Cần có thêm tư vấn chuyên môn hoặc xét nghiệm khi phản ứng nghi ngờ là phản ứng 
phản vệ hoặc phản ứng bất lợi trên da nghiêm trọng, hoặc khi các kháng sinh nghi ngờ có 
nhóm thế tương tự nhau. 
- Khi ghi nhận một phản ứng dị ứng thuốc trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân, cần ghi rõ 
tên thuốc cụ thể nghi ngờ (hoặc xác định) gây dị ứng, ngày xảy ra phản ứng và đặc điểm của 
phản ứng này. Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân cũng cần được cập nhật nếu kết quả dùng thử 
thuốc sau đó là âm tính. 
GIỚI THIỆU 
Việc nhận định một bệnh nhân bị “dị ứng 
với cephalosporin” có thể gây hiểu lầm. Do 
sự đa dạng về cấu trúc của các hoạt chất 
trong nhóm cephalosporin, phản ứng quá 
mẫn hiếm khi là phản ứng chung của cả 
nhóm thuốc, mà nhiều khả năng liên quan 
đến từng hoạt chất cụ thể trong nhóm. Dị 
ứng chéo giữa các thuốc trong nhóm thường 
rất hạn chế và liên quan đến cấu trúc riêng 
của nhóm thế hơn là liên quan đến cấu trúc 
chung của nhóm thuốc. Trong thực hành lâm 
sàng, nhận thức về điều này một cách đúng 
đắn giúp bác sĩ có thể lựa chọn được kháng 
sinh cephalosporin thay thế phù hợp khi 
bệnh nhân gặp dị ứng, đồng thời hạn chế 
việc sử dụng các nhóm kháng sinh phổ rộng 
khác khi chưa thực sự cần thiết. 
Các kháng sinh cephalosporin lần đầu 
được đưa ra thị trường vào những năm 
1960. Đây là một trong những nhóm kháng 
sinh đầu tay được sử dụng phổ biến nhất. 
Cephalosporin có cấu trúc vòng beta-lactam 
liên kết với vòng dihydrothiazin 6 cạnh mang 
nhóm thế ở vị trí R1 và R2 (hình 1). Các 
cephalosporin thường được phân loại theo 
“thế hệ” (từ thế hệ 1 đến thế hệ 5) dựa trên 
thứ tự phát triển của các thuốc (mà không 
phải phân loại dựa trên hiệu quả của thuốc). 
Cách phân loại này cũng liên quan đến phổ 
kháng khuẩn và khả năng kháng 
beta-lactamase của các hoạt chất. Mức độ 
phức tạp của cấu trúc hóa học của các 
cephalosporin có xu hướng tăng lên qua 
từng thế hệ. Cách phân loại này ít có liên 
quan đến phản ứng dị ứng cũng như phản 
ứng dị ứng chéo. 
Các cephalosporin gây phản ứng dị ứng 
với đặc điểm và tỷ lệ tương đương các 
kháng sinh khác, ví dụ penicilin. Các phản 
ứng này bao gồm phản ứng quá mẫn typ I 
(mày đay, phù mạch, phản vệ) và phản ứng 
quá mẫn typ IV (ban dát sẩn, phản ứng bất 
lợi trên da nghiêm trọng bao gồm hội chứng 
Stevens-Johnson, hoại tử thượng bì nhiễm 
độc hoặc hội chứng ngoại ban mụn mủ toàn 
thân cấp tính, hoặc phản ứng quá mẫn trên 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2018 
hệ cơ quan). 
CẤU TRÚC HÓA HỌC VÀ DỊ ỨNG 
Phản ứng miễn dịch với các phân tử nhỏ 
như kháng sinh phụ thuộc vào sự hình thành 
các hapten. Đây là những phức hợp cộng hóa 
trị ổn định giữa thuốc với những chất mang 
lớn hơn như protein huyết thanh hoặc 
protein màng. Với penicilin, sự hình thành 
phức hợp này xảy ra khi vòng beta-lactam 
mở ra một cách tự phát để hình thành 
peniciloyl. Sau đó, peniciloyl sẽ liên kết với 
gốc lysin trong các phân tử protein của vật 
chủ. 
Vòng beta-lactam 
Các cephalosporin và penicilin đều có cấu 
trúc vòng beta-lactam 4 cạnh. Vòng beta-
lactam của các kháng sinh penicilin được liên 
kết với một vòng thiazolidin 5 cạnh, còn vòng 
beta- lactam của các kháng sinh 
cephalosporin được liên kết với vòng 
dihydrothiazin (hình 1 và hình 2). 
Trước đây, có ý kiến cho rằng bệnh nhân 
dị ứng với penicilin sẽ có khả năng cao dị 
ứng với bất kỳ cephalosporin nào khác (tỷ lệ 
được báo cáo lên tới 23,9%). Tuy nhiên, các 
nghiên cứu gần đây đã chứng minh tỷ lệ 
phản ứng chéo rất thấp, chỉ khoảng 1%. 
Sự tương đồng về vòng beta-lactam trong 
cấu trúc của nhóm penicilin và cephalosporin 
là nguyên nhân dẫn đến nghi ngờ về khả 
năng phản ứng chéo giữa các thuốc trong 2 
nhóm kháng sinh này. Tuy nhiên, cơ sở lý 
thuyết của nhận định này còn rất hạn chế. 
Các penicilin gây ra phản ứng hóa học do sức 
căng lớn giữa vòng beta-lactam và vòng 
thiazolidin. Trong khi đó, vòng beta-lactam 
của các cephalosporin tạo thành cấu trúc ổn 
định hơn so với vòng dihydrothiazin của các 
thuốc này. Điều này làm quá trình hình thành 
phức hợp hapten giữa protein với 
cephalosporin diễn ra chậm hơn và có hiệu 
quả thấp hơn. Ngoài ra, khi vòng beta-lactam 
của cephalosporin bị phá vỡ để tạo thành 
nhóm cephalosporyl, cấu trúc này trở nên 
không ổn định và nhanh chóng bị cắt thành 
các mảnh nhỏ, không còn hoạt tính kháng 
nguyên nữa. 
Phản ứng chéo của các nhóm thế 
Các nghiên cứu cho thấy các nhóm thế 
của kháng sinh beta-lactam là yếu tố quyết 
định đặc tính kháng nguyên trong phản ứng 
dị ứng (bảng 1). Ví dụ, nếu bệnh nhân bị dị 
ứng liên quan đến nhóm thế amino của 
amoxicilin chứ không phải vì cấu trúc chung 
(vòng beta-lactam), bệnh nhân đó sẽ có khả 
năng dị ứng chéo với ampicilin do các thuốc 
này có nhóm thế tương tự nhau, nhưng 
không có khả năng dị ứng chéo với 
benzylpenicilin hoặc các penicilin khác. 
Gần đây, các yếu tố quyết định đặc tính 
kháng nguyên của cephalosporin trong các 
phản ứng dị ứng đã được tìm hiểu rõ ràng 
hơn. Nhóm thế R2 của cephalosporin thường 
bị mất sau khi mở vòng beta-lactam, do vậy, 
ít gây dị ứng hơn (hình 1). Người ta cho rằng 
nhóm thế R1 quyết định tính đặc hiệu của 
các phản ứng miễn dịch đối với các 
cephalosporin. Với lý do này, phản ứng dị 
ứng chéo giữa các hoạt chất trong toàn bộ 
nhóm cephalosporin rất hiếm gặp. 
Sự có mặt của nhóm thế R1, với vai trò 
như yếu tố quyết định đặc tính kháng 
nguyên, có thể giải thích cho các phản ứng 
chéo có thể xảy ra giữa một số kháng sinh 
beta-lactam nhất định cũng như giữa các 
kháng sinh trong nhóm cephalosporin. Ví dụ, 
nhóm thế R1 tương đồng giữa các kháng 
sinh aminopenicilin (như ampicilin và 
amoxicilin) và các aminocephalosporin (như 
cefalexin và cefaclor), và các bệnh nhân nhạy 
cảm với nhóm amino sẽ có nguy cơ dị ứng 
chéo giữa amoxicilin và cefalexin nhưng có 
thể dung nạp được khi dùng các kháng sinh 
penicilin và cephalosporin không có nhóm thế 
này. 
Hình 1: Cấu trúc chung của nhóm kháng sinh cephalosporin 
No.4 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 
Dự đoán phản ứng dị ứng chéo 
Trong các cephalosporin hiện có ở Úc, sự 
tương đồng hoặc giống nhau về các nhóm 
thế có thể được ghi nhận giữa các thuốc 
trong cùng thế hệ, ví dụ cefotaxim và 
ceftriaxon là các cephalosporin thế hệ III, 
hoặc giữa các thế hệ khác nhau, ví dụ 
cefalexin (cephalosporin thế hệ I) với cefaclor 
(cephalosporin thế hệ II), hoặc cefalotin 
(cephalosporin thế hệ I) với cefoxitin 
(cephalosporin thế hệ II) (bảng 1). Tuy 
nhiên, còn có nhiều thách thức trong việc dự 
đoán phản ứng chéo giữa các cephalosporin. 
Bên cạnh đó, phản ứng dị ứng xảy ra có thể 
là do toàn bộ phân tử cephalosporin chứ 
không chỉ do nhóm thế R1 (bảng 1). Một 
trường hợp đặc biệt là phản ứng giống bệnh 
huyết thanh liên quan đến việc sử dụng 
cefaclor, thường gặp nhất ở trẻ em, không có 
phản ứng chéo với các cephalosporin hoặc 
penicilin khác (bảng 2). 
Hình 2: Cấu trúc chung của nhóm kháng sinh penicilin 
Bảng 1: Phân loại kháng sinh cephalosporin và penicilin theo nhóm thế R1 tương ứng 
Bảng 2: Phản ứng giống bệnh huyết thanh với cefaclor 
Cefaclor có liên quan đến các phản ứng giống bệnh huyết thanh thường gặp ở trẻ em và đôi 
khi xảy ra ở người lớn. Phản ứng được đặc trưng bởi phát ban, sốt, đau khớp, viêm khớp và 
viêm hạch bạch huyết, nhưng nồng độ bổ thể trong huyết thanh không giảm và các phức hợp 
miễn dịch chưa được xác định. Cơ chế này được cho là do sự biến đổi sinh học của thuốc (quyết 
định bởi yếu tố di truyền) tạo ra các chất chuyển hóa gây độc tế bào lympho. 
Bệnh nhân gặp phản ứng này có thể được nhận định là “dị ứng với cephalosporin”. Tuy 
nhiên, điều này là không chính xác, bởi vì mặc dù bệnh nhân có thể gặp phản ứng tái phát khi sử 
dụng lại cefaclor, các nghiên cứu in vitro cho thấy không có hoặc ít có phản ứng chéo với các 
phân tử tương tự và bệnh nhân có thể dung nạp các cephalosporin khác. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2018 
XÉT NGHIỆM 
Hiện đã có các xét nghiệm máu (xét 
nghiệm miễn dịch) tìm các kháng thể IgE đặc 
hiệu (sIgE) (hay còn gọi là RAST) đối với 
penicilin, amoxicilin và cefaclor. Tuy nhiên, 
độ nhạy của phương pháp này rất hạn chế. 
Giá trị dự đoán dương tính ở mức cao nhưng 
giá trị dự đoán âm tính lại thấp, do đó kết 
quả xét nghiệm máu âm tính không thể dùng 
để loại trừ dị ứng. Với phần lớn các 
cephalosporin, các xét nghiệm hiện không 
thực hiện được ở toàn bộ các bệnh viện. Xét 
nghiệm hoạt hóa bạch cầu ưa kiềm có thể có 
độ chính xác cao hơn trong chẩn đoán, 
nhưng hiện chỉ có khả năng tiến hành trong 
các phòng xét nghiệm nghiên cứu. 
Test lẩy da (skin prick), test nội bì (sớm 
hoặc muộn) (intradermal testing) và test áp 
bì (patch testing) có độ nhạy cao hơn so với 
xét nghiệm miễn dịch, tuy nhiên giá trị dự 
đoán âm tính của các test này chưa được xác 
định do thiếu các nghiên cứu có hiệu lực đủ 
lớn. Một số cephalosporin không có sẵn ở 
dạng dung dịch phù hợp cho test da do độ 
hòa tan kém. Bên cạnh đó, giá trị chẩn đoán 
của các dung dịch được chuẩn bị sẵn để sử 
dụng ngay vẫn chưa được xác định. Độ nhạy 
của test da đối với các cephalosporin có thể 
giảm theo thời gian, dẫn đến việc giải thích 
kết quả trở nên phức tạp hơn. Khi test da với 
thuốc nghi ngờ cho kết quả dương tính, test 
da với thuốc liên quan sau đó cho kết quả âm 
tính có thể giúp loại trừ dị ứng chéo giữa hai 
thuốc này. Tuy nhiên, điều này cần được xác 
nhận bằng thử nghiệm dùng thuốc đường 
uống hoặc đường tiêm. 
THỬ NGHIỆM DÙNG THUỐC 
Thử nghiệm dùng thuốc (challenge 
testing) trên bệnh nhân chỉ nên được thực 
hiện với sự giám sát thận trọng của chuyên 
gia y tế. Thử nghiệm này được tiến hành 
thông qua việc sử dụng một kháng sinh 
cephalosporin từ từ, thường ở mức liều tăng 
dần, có sự giám sát của chuyên gia tại các cơ 
sở y tế có đủ khả năng và trang thiết bị để 
xử trí các phản ứng dị ứng cấp tính. Đây là 
xét nghiệm tiêu chuẩn vàng cho bệnh nhân 
có tiền sử dị ứng với kháng sinh nhóm 
cephalosporin. 
Cần tiến hành thử thuốc với thuốc được 
cho là có liên quan đến phản ứng dị ứng 
trước đây (thử nghiệm dùng thuốc tương 
đồng) trong trường hợp có chỉ định dùng 
thuốc đó nếu có sự không chắc chắn đáng 
chú ý về tiền sử dị ứng thuốc, hoặc phản ứng 
đã xảy ra từ lâu. Trong trường hợp nguy cơ 
thấp (phản ứng nhẹ, hoặc nghi ngờ tiền sử là 
phản ứng không dung nạp chứ không phải 
phản ứng dị ứng), có thể cân nhắc tái sử 
dụng thuốc bằng đường uống mà không cần 
tiến hành thử thuốc trên da trước, từ đó tạo 
điều kiện thuận lợi để xác định lại phản ứng 
dị ứng của bệnh nhân (delabelling). 
Trên các bệnh nhân có tiền sử có phản 
ứng quá mẫn nặng typ 4 xuất hiện muộn (hội 
chứng Stevens-Johnson/hoại tử thượng bì 
nhiễm độc, hội chứng DRESS), nên cân nhắc 
chống chỉ định thực hiện thử nghiệm dùng 
thuốc do tế bào T có khả năng tồn tại bộ nhớ 
miễn dịch. Bệnh nhân có tiền sử gặp phản 
ứng dị ứng tức thì, thậm chí sốc phản vệ, đều 
không phải là chống chỉ định tuyệt đối trong 
việc thực hiện thử nghiệm dùng thuốc. Tuy 
nhiên, cần tiến hành thận trọng vì phản ứng 
dị ứng typ 1 thường có thể mất đi trong vài 
năm và thử nghiệm dùng thuốc cho kết quả 
âm tính sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề liên 
quan đến việc sử dụng thuốc trong tương lai. 
Khi biết rõ về thuốc nghi ngờ, đồng thời 
xét nghiệm sIgE trong máu, hoặc test lẩy da, 
hoặc test nội bì cho kết quả dương tính, thực 
hiện thử nghiệm dùng thuốc với một 
cephalosporin khác mang nhóm thế R1 khác 
(thử nghiệm dùng thuốc khác biệt) có thể 
giúp chỉ ra không tồn tại phản ứng chéo. 
Trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử sốc 
phản vệ nghiêm trọng với một cephalosporin 
cụ thể, bác sĩ có thể chọn thực hiện thử 
nghiệm dùng thuốc với một kháng sinh 
beta-lactam thay thế, cho dù xét nghiệm in 
vitro và in vivo có cho kết quả âm tính (hình 
3). Với các bệnh nhân được nhận định có “dị 
ứng với cephalosporin” nhưng chưa biết cụ 
thể cephalosporin nào là thuốc nghi ngờ, có 
thể cần thực hiện thử thuốc một cách thận 
trọng với một kháng sinh nhóm cephalosporin 
có khả năng mang lại nhiều lợi ích nhất cho 
người bệnh. 
GHI NHẬN PHẢN ỨNG DỊ ỨNG TRÊN 
BỆNH NHÂN 
Tiền sử lâm sàng là thông tin rất quan 
trọng khi ghi nhận lại phản ứng dị ứng trên 
bệnh nhân. Tiền sử lâm sàng này bao gồm: 
Chỉ định sử dụng các kháng sinh, các bệnh 
mắc kèm và các loại thuốc dùng kèm. Việc 
No.4 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 5 
mô tả chi tiết về phản ứng, bao gồm ngày 
tháng xảy ra phản ứng, tên cụ thể của kháng 
sinh (thay vì ghi tên nhóm thuốc hoặc thế 
hệ), đóng vai trò quan trọng. Bệnh án điện tử 
có thể giúp việc ghi nhận chi tiết về tiền sử 
lâm sàng dễ dàng hơn. 
Không nên sử dụng thuật ngữ “dị ứng với 
cephalosporin”. Thuật ngữ này không chính 
xác và mang hàm ý chống chỉ định đối với 
toàn bộ nhóm cephalosporin. Các khái niệm 
về dị ứng thuốc đã và đang được thay đổi và 
việc chống chỉ định với toàn bộ thuốc trong 
nhóm cephalosporin như vậy là không phù 
hợp. 
KHUYẾN CÁO 
Khuyến cáo chung: 
- Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với penicilin không đồng nghĩa với việc bệnh nhân đó không 
sử dụng được các khá ... DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh tiếp 
nhận tăng 34% so với năm 2017, tỷ lệ báo 
cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương, 
khu vực và các tuyến bệnh viện. Do đó, công 
tác báo cáo ADR cần tiếp tục được thúc đẩy 
hơn nữa, đặc biệt tại đơn vị, địa phương 
chưa tham gia báo cáo ADR. Bên cạnh các 
ADR rối loạn toàn thân và biểu hiện trên da, 
các ADR liên quan đến thuốc kháng sinh, 
thuốc chống lao, thuốc giảm đau chống viêm 
không steroid (NSAID), cán bộ y tế cũng cần 
chú ý theo dõi, phát hiện và báo cáo các biến 
cố bất lợi của các nhóm thuốc khác (đặc biệt 
các nhóm thuốc có nguy cơ cao gây ADR, 
thuốc có phạm vi điều trị hẹp), các ADR trên 
các hệ cơ quan khác, các biến cố bất lợi cần 
giám sát thông qua các thăm dò chức năng 
chuyên sâu hay xét nghiệm cận lâm sàng. 
Trong quá trình xử lý báo cáo ADR, Trung 
tâm nhận thấy có một số báo cáo ADR gửi từ 
các đơn vị và thư cảm ơn, phản hồi từ Trung 
tâm bị thất lạc qua đường bưu điện. Để đảm 
No.4 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 13 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 
Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Hoàng Anh, Dương Khánh Linh, Đỗ Thu Thanh, Nguyễn Tùng Sơn 
Tạm ngừng và giới hạn sử dụng các 
kháng sinh quinolon và fluoroquinolon 
do nguy cơ tác dụng không mong muốn 
gây tàn tật, không hồi phục: Cảnh báo 
từ EMA 
Ngày 16/11/2018, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm châu Âu (EMA) đã đưa ra cảnh báo về 
việc tạm ngừng và giới hạn sử dụng các 
kháng sinh quinolon và fluoroquinolon do 
nguy cơ tác dụng không mong muốn gây tàn 
tật, không hồi phục. 
EMA đã đánh giá các tác dụng phụ 
nghiêm trọng, gây tàn tật và không hồi phục 
của kháng sinh quinolon và fluoroquinolon 
đường uống, đường tiêm và đường xông hít. 
Cuộc rà soát có sự kết hợp lấy ý kiến của 
bệnh nhân, cán bộ y tế, giảng viên được trình 
bày trong chương trình thu thập ý kiến của 
EMA về các kháng sinh quinolon và 
fluoroquinolon tháng 6/2018. 
EMA đồng ý với khuyến cáo của PRAC và 
kết luận cần tạm ngừng giấy phép lưu hành 
các thuốc chứa cinoxacin, flumequin, acid 
nalidixic và acid pipemidic. 
EMA khẳng định việc sử dụng các kháng 
sinh fluoroquinolon còn lại nên được giới hạn. 
Ngoài ra, thông tin kê đơn dành cho cán bộ y 
tế và bệnh nhân sẽ mô tả tác dụng không 
mong muốn gây tàn tật, có thể không hồi 
phục và khuyến cáo bệnh nhân ngừng điều 
trị bằng fluoroquinolon khi có dấu hiệu của 
tác dụng không mong muốn liên quan đến 
cơ, gân hoặc khớp và thần kinh. 
Giới hạn sử dụng fluoroquinolon có nghĩa 
là các thuốc này không nên được sử dụng 
trong các trường hợp: 
 + Điều trị nhiễm khuẩn cho các trường 
hợp có thể cải thiện khi không cần điều trị 
hoặc các loại nhiễm khuẩn không nghiêm 
trọng (như viêm họng); 
+ Điều trị nhiễm trùng không do vi khuẩn, 
ví dụ viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn 
(mạn tính). 
+ Dự phòng tiêu chảy khi đi du lịch hoặc 
nhiễm khuẩn đường niệu dưới tái phát 
(nhiễm trùng đường tiết niệu không lan tới 
bàng quang); 
+ Điều trị nhiễm khuẩn ở mức độ từ nhẹ 
đến trung bình, trừ khi không thể sử dụng 
các kháng sinh được khuyến cáo phổ biến 
khác. 
Điều quan trọng là cần tránh sử dụng các 
kháng sinh fluoroquinolon ở những bệnh 
nhân đã có tiền sử gặp tác dụng không mong 
muốn nghiêm trọng với fluoroquinolon hoặc 
quinolon. Cần sử dụng các kháng sinh này 
thận trọng, đặc biệt ở người cao tuổi, bệnh 
nhân mắc bệnh thận và những người đã 
ghép tạng vì những bệnh nhân này có nguy 
cơ cao bị tổn thương gân. Việc sử dụng 
corticosteroid đi kèm với fluoroquinolon cũng 
làm tăng nguy cơ này, do đó nên tránh sử 
dụng đồng thời các loại thuốc này. 
Ý kiến của CHMP sẽ được chuyển đến Ủy 
ban châu Âu để có quyết định ràng buộc 
pháp lý cuối cùng. 
bảo việc trao đổi thông tin được đầy đủ, kịp 
thời, Trung tâm xin đề nghị các đơn vị tăng 
cường triển khai báo cáo bằng các hình thức 
khác (báo cáo trực tuyến, gửi thư điện tử 
hoặc fax) bên cạnh hình thức gửi báo cáo qua 
đường bưu điện về Trung tâm. Hiện tại, Trung 
tâm đang triển khai gửi thư cảm ơn, phản hồi 
và các thông tin khác về ADR cho các đơn vị 
qua đường thư điện tử. Trong trường hợp có 
nhu cầu, đề nghị các đơn vị gửi công văn đề 
xuất 01 cán bộ đầu mối và 01 lãnh đạo khoa/
phòng phụ trách công tác Cảnh giác Dược để 
nhận các thông tin nêu trên (công văn cần ghi 
rõ họ tên, chức vụ, đơn vị, số điện thoại và 
địa chỉ email của các cá nhân được đề xuất). 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân 
trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và 
cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong 
muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển 
khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2018 
Thông tin dành cho cán bộ y tế: 
- Các fluoroquinolon có thể gây ra các phản ứng bất lợi dài hạn (lên đến vài tháng đến vài 
năm), nghiêm trọng, gây tàn tật và có khả năng không hồi phục ảnh hưởng đến một hoặc 
nhiều cơ quan và giác quan trong cơ thể. 
- Các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng bao gồm viêm gân, đứt gân, đau khớp, đau 
chi, thay đổi dáng đi, rối loạn thần kinh liên quan đến dị cảm, trầm cảm, mệt mỏi, suy giảm trí 
nhớ, rối loạn giấc ngủ, suy giảm thính giác, thị giác, vị giác và khứu giác. 
- Gây tổn thương gân (đặc biệt là gân Achilles nhưng cũng có thể là các gân khác) có thể 
xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi bắt đầu điều trị fluoroquinolon nhưng tổn thương có thể xuất 
hiện sau vài tháng ngừng điều trị. 
- Bệnh nhân lớn tuổi, bị suy thận hoặc đã từng được ghép tạng và những người được điều 
trị bằng corticosteroid có nguy cơ bị tổn thương gân cao hơn. Cần tránh dùng đồng thời 
fluoroquinolon và corticosteroid. 
- Ngừng điều trị fluoroquinolon khi có dấu hiệu đầu tiên của đau gân hoặc viêm gân. Bệnh 
nhân cũng nên được khuyến cáo ngừng điều trị với fluoroquinolon và trao đổi với bác sĩ trong 
trường hợp các triệu chứng thần kinh như đau, nóng rát, ngứa ran, tê hoặc yếu để ngăn ngừa 
phản ứng có hại tiến triển thành tình trạng không thể hồi phục. 
- Không nên sử dụng các fluoroquinolon ở những bệnh nhân có tiền sử gặp phản ứng có hại 
nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng các quinolon hoặc fluoroquinolon. 
- Nên tham khảo các chỉ định được cấp phép trong tờ hướng dẫn sử dụng của sản phẩm 
được cập nhật khi xem xét điều trị bằng fluoroquinolon, do thuốc bị giới hạn chỉ định. 
- Lợi ích và nguy cơ khi sử dụng fluoroquinolon sẽ được theo dõi liên tục và nghiên cứu sử 
dụng thuốc sẽ đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp mới để giảm sử dụng không hợp lý 
fluoroquinolon bằng cách giám sát thay đổi hành vi kê đơn. 
Nguy cơ tổn thương nghiêm trọng về 
thận tiết niệu, nội tiết và gan khi sử 
dụng ketamin kéo dài và/hoặc liều cao: 
Cảnh báo từ ANSM 
Theo cảnh báo của ANSM ngày 
07/11/2018, khi sử dụng kéo dài và/hoặc liều 
lặp lại ketamin (bao gồm cả sử dụng cho chỉ 
định chưa được phê duyệt – off-label) và 
trong trường hợp lạm dụng hoặc sử dụng 
thuốc không hợp lý, một số phản ứng có hại 
đã được báo cáo: 
- Trên thận - tiết niệu: Tiểu ra máu, suy 
thận cấp, viêm bàng quang vô khuẩn, viêm 
bàng quang kẽ (hội chứng đau bàng quang), 
và rối loạn chức năng liên quan đến tắc 
nghẽn đường tiết niệu trên (ứ nước). 
- Trên hệ nội tiết: Tăng nồng độ cortisol 
hoặc prolactin (theo dõi bằng xét nghiệm nếu 
cần). 
- Trên hệ gan - mật: Viêm tắc mật, có thể 
ở mức độ nặng, thậm chí phải chỉ định ghép 
gan trong một số trường hợp. 
- Cân nhắc ngừng điều trị trong trường 
hợp rối loạn chức năng gan. 
Sử dụng an toàn dịch truyền tĩnh 
mạch chứa hydroxyethyl starch: Thông 
tin từ Medsafe 
Ngày 25/9/2018, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm New Zealand (Medsafe) đã đăng thư 
gửi cán bộ y tế của Fresenius Kabi về việc 
cập nhật thông tin an toàn thuốc liên quan 
đến dung dịch truyền tĩnh mạch hydroxyethyl 
starch (HES). Theo đó, công ty Fresenius 
Kabi New Zealand Limited đề nghị cán bộ y 
tế đảm bảo sử dụng đúng cách và an toàn 
dung dịch chứa hydroxyethyl starch như 
Voluven 6% và Volulyte 6% theo tờ hướng 
dẫn sử dụng thuốc đã được phê duyệt và lưu 
ý các chống chỉ định sau: 
- Bệnh nhân nặng (nhập khoa ICU), bao 
gồm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết. 
- Quá tải dịch, đặc biệt các trường hợp 
phù phổi và suy tim sung huyết. 
- Bệnh nhân có rối loạn đông máu và xuất 
huyết trước đó. 
- Bệnh nhân suy thận với thiểu niệu hoặc 
vô niệu không liên quan đến giảm thể tích 
máu. 
No.4 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 
- Bệnh nhân lọc máu. 
- Xuất huyết nội sọ. 
- Tăng natri máu nặng hoặc tăng clo máu 
nặng (Voluven). 
- Tăng kali máu nặng, tăng natri máu 
nặng hoặc tăng clo máu nặng (Volulyte). 
- Quá mẫn với hydroxyethyl starch. 
- Bệnh nhân có bệnh gan nặng. 
Cán bộ y tế cần lưu ý các chống chỉ định 
nêu trên, đặc biệt là chống chỉ định với bệnh 
nhân có nhiễm khuẩn huyết, suy thận hoặc 
lọc máu. 
Sử dụng hợp lý diclofenac: Khuyến 
cáo từ ANSM 
Ngày 26/9/2018, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm Pháp (ANSM) nhấn mạnh việc sử dụng 
hợp lý diclofenac sau khi có một công bố về 
nghiên cứu mới về nguy cơ tim mạch. 
Diclofenac là một NSAID được sử dụng 
trong điều trị các triệu chứng đau và viêm, 
đặc biệt trong các bệnh thấp khớp và đau do 
chấn thương. Ở Pháp, các thuốc chứa 
diclofenac dùng toàn thân (viên nén, viên 
nang, thuốc đạn và các dung dịch tiêm) chỉ 
được sử dụng khi có đơn. 
ANSM nhắc lại cho các bác sĩ về tầm quan 
trọng của việc tuân thủ các chỉ định được 
phê duyệt với các thuốc này, bao gồm cả 
chống chỉ định, cảnh báo và việc bệnh nhân 
không được tự ý sử dụng khi không có đơn 
với các thuốc chứa diclofenac. 
ANSM đã ghi nhận kết quả của một 
nghiên cứu mới ở Đan Mạch về các tác dụng 
trên tim mạch của diclofenac đường uống. 
Nghiên cứu cho thấy sự gia tăng nguy cơ 
biến cố tim mạch với diclofenac ngay cả ở 
liều thấp sử dụng trong thời gian ngắn (30 
ngày) so với thuốc khác (như paracetamol, 
ibuprofen, naproxen). Do đó, bệnh nhân 
được khuyến cáo không tự ý sử dụng 
diclofenac khi không có đơn, và nếu được kê 
đơn, thuốc chỉ được sử dụng như một lựa 
chọn hàng hai sau các NSAID khác. 
Các nguyên tắc sử dụng thuốc hợp lý 
được khuyến cáo: 
- Trước khi bắt đầu điều trị, cần đánh giá 
kỹ các nguy cơ tim mạch của bệnh nhân. 
- Sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả 
trong thời gian ngắn nhất cần thiết để kiểm 
soát các triệu chứng. 
Nguy cơ u màng não liên quan đến 
cyproteron acetat: Cảnh báo từ ANSM 
Ngày 08/10/2018, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm Pháp (ANSM) đã đưa ra cảnh báo về 
nguy cơ u màng não liên quan đến 
cyproteron acetat. Theo đó, các nghiên cứu 
của Bảo hiểm Y tế Pháp và Đơn vị phẫu 
thuật thần kinh, bệnh viện Lariboisière đã 
cho thấy có sự gia tăng nguy cơ u màng não 
tủy t rên bệnh nhân đ iều t r ị 
bằng cyproteron acetat liều cao và sử dụng 
trên 6 tháng. 
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 
+ Tránh sử dụng thuốc với các chỉ định 
không được cấp phép như điều trị mụn 
trứng cá, tăng tiết bã, rậm lông. 
+ Không khuyến cáo sử dụng thuốc 
trên trẻ em và phụ nữ đã mãn kinh. 
+ Chỉ định và liều dùng cần được điều 
chỉnh hàng năm, cân nhắc dựa trên lợi ích/
nguy cơ và tình trạng lâm sàng của bệnh 
nhân. 
+ Sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả 
để kiểm soát triệu chứng. 
+ Tránh sử dụng liều cao kéo dài. 
+ Tiến hành chụp cộng hưởng từ 
(MRI) não trên toàn bộ bệnh nhân bắt đầu 
sử dụng thuốc. Chụp MRI lại sau 5 năm, 
sau đó chụp lại mỗi 2 năm tiếp theo nếu 
kết quả chụp MRI ở thời điểm 5 năm là 
bình thường trong trường hợp bệnh nhân 
tiếp tục sử dụng thuốc. Nếu bệnh nhân 
xuất hiện triệu chứng u màng não, cần 
ngừng điều trị ngay lập tức và tiến hành 
xử trí phản ứng có hại. Không cần tiến 
hành MRI trên bệnh nhân đã ngừng điều 
trị và không có dấu hiệu u màng não. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2018 
Phân tích tín hiệu an toàn thuốc tại 
Việt Nam: Một số kết quả từ cơ sở dữ 
liệu báo cáo ADR tự nguyện 
Trong năm 2018, nhóm nghiên cứu tại 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã có 2 công 
bố quốc tế về các nghiên cứu dựa trên cơ sở 
dữ liệu báo cáo ADR tự nguyện tại Việt Nam. 
Trong đó, phương pháp phân tích bất đối 
xứng (disproportionality analysis) được sử 
dụng để phân tích các tín hiệu an toàn thuốc 
thông qua chỉ số ROR (tỷ suất chênh báo cáo 
– Reporting Odds Ratio). Trong cảnh giác 
dược, ROR được tính toán và sử dụng tương 
tự chỉ số OR (tỷ suất chênh – Odds Ratio) 
trong các nghiên cứu bệnh chứng. Tại Việt 
Nam, cơ sở dữ liệu với tỷ lệ lớn báo cáo ADR 
ghi nhận các phản ứng dị ứng ngoài da hoặc 
phản ứng phản vệ, sốc phản vệ sẽ là nguồn 
dữ liệu tiềm năng để phân tích tín hiệu liên 
quan đến các phản ứng này. 
Nghiên cứu về các phản ứng có hại trên 
da nghiêm trọng tiến hành phân tích dữ liệu 
báo cáo ADR giai đoạn 2010 – 2015 [1]. 
Trên tổng số 28.698 báo cáo, nghiên cứu đã 
ghi nhận 2980 báo cáo về các phản ứng trên 
da nặng xảy ra muộn, 136 báo cáo về hội 
chứng Stevens-Johnson (SJS) và hoại tử 
thượng bì nhiễm độc (TEN). Carbamazepin, 
alopurinol, paracetamol là 3 thuốc nghi ngờ 
gây hội chứng SJS và TEN được báo cáo 
nhiều nhất. Phân tích chỉ số ROR cho thấy 
carbamazepin, alopurinol, paracetamol, các 
thuốc có nguồn gốc dược liệu, 
sulfamethoxazol/trimethoprim, cefixim, 
colchicin, acid valproic và meloxicam là các 
thuốc hình thành tín hiệu với SJS/TEN. 
Nghiên cứu về phản ứng phản vệ được 
tiến hành nhằm phân tích xu hướng và các 
tín hiệu đặc thù trong cơ sở dữ liệu báo cáo 
ADR tự nguyện tại Việt Nam giai đoạn 2010 
– 2016 [2]. Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận 
4873 trường hợp phản vệ do thuốc (chiếm 
13,2% tổng số báo cáo) với số lượng tăng 
dần qua các năm (p < 0,001). Thuốc được 
ghi nhận gây phản vệ nhiều nhất là các 
kháng sinh đường dùng toàn thân (n = 
3318; 68%) với các cephalosporin thế hệ 3 
chiếm đa số (n = 1961; 40,2%). Một số tín 
hiệu đáng lưu ý khác bao gồm phản vệ liên 
quan đến các thuốc cản quang, thuốc gây 
mê, alpha-chymotrypsin và amoxicilin/
sulbactam. Các phát hiện nói trên một phần 
cho thấy đặc điểm sử dụng thuốc tại Việt 
Nam, đặc biệt là sử dụng nhiều kháng sinh 
cephalosporin thế hệ 3 và các thuốc không 
còn được lưu hành rộng rãi trên thế giới như 
alpha-chymotrypsin và amoxicilin/sulbactam. 
Các nghiên cứu trên đã cho thấy một số 
đặc điểm của cơ sở dữ liệu báo cáo ADR tại 
Việt Nam đồng thời cho thấy tính khả thi của 
phương pháp phân tích bất đối xứng trên cơ 
sở dữ liệu này. Các tín hiệu an toàn thuốc 
được phát hiện sẽ làm tiền đề để triển khai 
nghiên cứu và đánh giá tiếp theo nhằm phục 
vụ mục tiêu sử dụng thuốc hợp lý, an toàn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyen K. D., Tran T. N., et al. 
(2018), "Drug-induced Stevens-Johnson 
syndrome and toxic epidermal necrolysis in 
vietnamese spontaneous adverse drug 
reaction database: A subgroup approach to 
disproportionality analysis", J Clin Pharm 
Ther, pp. 
2. Nguyen K. D., Nguyen H. A., et al. 
(2018), "Drug-Induced Anaphylaxis in a Viet-
namese Pharmacovigilance Database: Trends 
and Specific Signals from a Disproportionality 
Analysis", Drug Saf, pp. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_dinh_di_ung_voi_cephalosporin_gay_hieu_lam.pdf