Nhận dạng ổn định hệ thống điện dùng bộ phân lớp SVM
TÓM TẮT
Đầu tư phát triển hạ tầng hệ thống điện (HTĐ) không theo kịp độ tăng trưởng của phụ tải.
HTĐ bị áp lực vận hành ở chế độ cận giới hạn biên ổn định. Cho nên HTĐ rất dễ bị tổn thương
khi gặp sự cố. Mất ổn định hệ thống điện được phát hiện sớm thì cơ hội điều khiển đưa hệ thống
điện về trạng thái ổn định còn khả thi. Các phương pháp truyền thống tốn nhiều thời gian phân
tích ổn định quá độ trong HTĐ nên không thích hợp trong làm việc trực tuyến. Nhận dạng là
phương pháp hứa hẹn áp dụng đánh giá ổn định HTĐ trực tuyến. Bài báo giới thiệu bộ phân
lớp SVM (Suport Vector Machine) và đề nghị áp dụng SVM vào đánh giá ổn định HTĐ. Nghiên
cứu được kiểm tra trên sơ đồ IEEE 39-bus. Bài báo đã so sánh độ chính xác nhận dạng ổn định
HTĐ của SVM và mạng nơ-rôn MLP (Multilayer Perceptron Neural Network). Kết quả cho
thấy bộ phân lớp SVM đạt độ chính xác nhận dạng cao hơn bộ phân lớp MLP.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận dạng ổn định hệ thống điện dùng bộ phân lớp SVM
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
1
NHẬN DẠNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG ĐIỆN DÙNG BỘ PHÂN LỚP SVM
POWER SYSTEM STABILITY RECOGNITION USING SVM CLASSIFIER
Nguyễn Ngọc Âu, Trương Văn Hiền, Phù Thị Ngọc Hiếu
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Việt Nam
Ngày toà soạn nhận bài 3/10/2019, ngày phản biện đánh giá 30/10/2019, ngày chấp nhận đăng 9/12/2019.
TÓM TẮT
Đầu tư phát triển hạ tầng hệ thống điện (HTĐ) không theo kịp độ tăng trưởng của phụ tải.
HTĐ bị áp lực vận hành ở chế độ cận giới hạn biên ổn định. Cho nên HTĐ rất dễ bị tổn thương
khi gặp sự cố. Mất ổn định hệ thống điện được phát hiện sớm thì cơ hội điều khiển đưa hệ thống
điện về trạng thái ổn định còn khả thi. Các phương pháp truyền thống tốn nhiều thời gian phân
tích ổn định quá độ trong HTĐ nên không thích hợp trong làm việc trực tuyến. Nhận dạng là
phương pháp hứa hẹn áp dụng đánh giá ổn định HTĐ trực tuyến. Bài báo giới thiệu bộ phân
lớp SVM (Suport Vector Machine) và đề nghị áp dụng SVM vào đánh giá ổn định HTĐ. Nghiên
cứu được kiểm tra trên sơ đồ IEEE 39-bus. Bài báo đã so sánh độ chính xác nhận dạng ổn định
HTĐ của SVM và mạng nơ-rôn MLP (Multilayer Perceptron Neural Network). Kết quả cho
thấy bộ phân lớp SVM đạt độ chính xác nhận dạng cao hơn bộ phân lớp MLP.
Từ khóa: nhận dạng; phân lớp; ổn định hệ thống điện; suport vector machine; mạng nơ-rôn.
ABSTRACT
Investment in developing power system infrastructure cannot keep up with the growth of
load. The power system must operate under stressful condition, and operating point of power
system is close to its stability limit. Therefore, the power system is more vulnerable to
incidents. A instability of the power system needs to be detected early. Since then, opportunity
drives the power system into re-stability state easier. Conventional methods are highly
time-consuming for transient stability analysis of power system. So, the methods are
unsuitable for on-line application. Pattern recognition is a promising method for on-line
power system stability evaluation. The paper introduces a Suport Vector Machine (SVM)
classifier and suggests applying SVM classifier to assessment of power system stability. The
study is implemented on IEEE 39-bus power system network. The accuracy recognition of
SVM classifier is compared with that of MLP (Multilayer Perceptron Neural Network)
classifier. The results showed that the SVM classifier achieved higher accuracy recognition
than the MLP classifer.
Keywords: recognition; classification; power system stability; suport vector machine; neural
network.
1. GIỚI THIỆU
Hệ thống điện (HTĐ) hiện đại bị áp lực
vận hành rất gần với giới hạn biên ổn định,
cho nên HTĐ dễ bị mất ổn định khi gặp sự cố.
HTĐ có tính phi tuyến rất cao, để phân tích
ổn định quá độ HTĐ các phương pháp truyền
thống tốn nhiều thời gian giải. Vì vậy, phát
hiện sớm mất ổn định HTĐ trở thành yếu tố
then chốt đảm bảo vận hành HTĐ ổn định.
Trong những năm gần đây, phương pháp
nhận dạng được áp dụng như là một phương
pháp thay thế để giải quyết những vấn đề khó
khăn mà những phương pháp phân tích
truyền thống không giải quyết được về tốc độ
tính toán [1]. Bằng quá trình học cơ sở dữ
liệu vào ra giữa những thông số vận hành
HTĐ, trạng thái ổn định HTĐ có thể tính
toán một cách nhanh chóng [2], [3]. Ma trận
2
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
cơ sở dữ liệu ổn định HTĐ bao gồm biến và
mẫu như Hình 1, trong đó x là biến đầu vào
gồm n biến, N mẫu. Biến đầu ra y có N mẫu
gán nhãn nhị phân.
11 12 1
21 22 2
1 2
...
...
... ... ... ...
...
n
n
N N NN
x x x
x x x
x x x
Hình 1. Ma trận cơ sở dữ liệu
Bài toán đánh giá ổn định HTĐ là bài
toán phi tuyến phức tạp. Nhiều công trình
công bố áp dụng mạng nơ-rôn để thiết kế bộ
phân lớp đánh giá ổn định HTĐ [2]–[4].Tuy
nhiên, áp dụng mạng nơ-rôn gặp phải vấn đề
khó khăn trong huấn luyện là dễ bị rơi vào
cực trị địa phương. Để giải bài toán phân lớp
phi tuyến cao, bộ phân lớp SVM là lựa chọn
hứa hẹn cho đánh giá ổn định HTĐ. Bài báo
đề nghị áp dụng bộ phân lớp SVM vào đánh
giá ổn định HTĐ. Bài báo đã so sánh độ
chính xác nhận dạng ổn định HTĐ của SVM
và mạng nơ-rôn MLP. Kết quả cho thấy bộ
phân lớp SVM đạt độ chính xác nhận dạng
cao hơn bộ phân lớp MLP.
2. LỰA CHỌN BIẾN ĐẶC TRƯNG
Trong các giai đoạn thiết kế mô hình
đánh giá ổn định HTĐ dùng phương pháp
nhận dạng, lựa chọn biến hay giảm biến có
lợi ích trong việc giảm không gian dữ liệu,
giúp giảm dung lượng lưu trữ bộ nhớ. Quy
trình lựa chọn biến được giới thiệu trong [5],
[6], và được trình bày ở Hình 2.
yes
Lựa chọn biến đặc
trưng ban đầu
Tìm kiếm biến đặc
trưng ứng viên
Đánh giá biến đặc
trưng ứng viên
Output
Tiêu chuẩn dừng
no
Start
Hình 2. Quy trình lựa chọn biến
3. Bộ phân lớp MLP và SVM
3.1. MLP
Cấu trúc MLP cơ bản như Hình 3 gồm có
lớp ngõ vào, một hay nhiều lớp ẩn và lớp ngõ
ra.
x1
x2
xn
Input
Hidden
layer
Output
layer
Output
Input
layer
Hình 3. Mạng MLP
Số lớp ẩn có thể thay đổi trong quá trình
huấn luyện tùy thuộc dữ liệu bài toán. Các
nút ngõ ra có giá trị thay đổi phụ thuộc vào
lớp ngõ ra mục tiêu. Huấn luyện phổ biến là
học có giám sát với giải thuật lan truyền
ngược. Có nhiều giải thuật huấn luyện, trong
đó thuật toán Levenberg-Marquardt có hiệu
suất cao hơn và tốc độ hội tụ nhanh hơn [7].
Thông số mạng ban đầu là ngẫu nhiên, quá
trình huấn luyện dừng khi số vòng lặp đạt giá
trị tối đa cài đặt, sai số đạt một mức cho phép
hoặc sai số không tăng nữa.
3.2. SVM
Thuật toán bộ nhận dạng SVM là thực
hiện phân lớp các mẫu dựa trên phương pháp
tiếp cận lý thuyết học thống kê do Vanipk và
Chervonenkis đề nghị [8]. SVM nhằm cực
tiểu hóa độ phân lớp sai với một đối tượng
dữ liệu mới thông qua cực đại hóa biên giữa
siêu phẳng phân cách và dữ liệu. Ý tưởng cơ
bản của các SVM là xây dựng một siêu
phẳng như là một mặt phẳng quyết định. Mặt
phẳng này tách biệt lớp dương (+1) và lớp
âm (-1) với biên lớn nhất. Xét tập dữ liệu
huấn luyện 1{x , y }
N
i i iT , trong đó, xi là vectơ
dữ liệu đầu vào kích thước n biến và N mẫu,
và yi {+1,-1} là nhãn lớp của mẫu xi. Các
SVM thực thi cho bài toán phân lớp có hai
lớp được minh họa như Hình 4. Siêu phẳng
tối ưu phân tách các mẫu dương và các mẫu
âm của hai lớp với độ tách biệt cực đại. Độ
tách biệt hay là biên xác định bằng khoảng
cách giữa các mẫu dương và mẫu âm gần mặt
siêu phẳng nhất.
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
3
Các vec-tơ hỗ trợ
x1
x2
Lớp yi=-1
Lớp yi=+1
Mặt siêu phẳng tối ưu
Biên tối ưu
Hình 4. Sơ đồ thuật toán SVM
Mặt siêu phẳng trong không gian mẫu có
phương trình (1):
g(x)= wT.x+b=0 (1)
Mục đích của huấn luyện là tìm ra một
siêu phẳng tách biệt dữ liệu huấn luyện tốt
nhất. Mặt siêu phẳng tách rời các mẫu âm và
dương thỏa điều kiện (2) và (3).
wT.xi+ b 0, nếu yi=+1 (2)
wT.xi+ b 0, nếu yi= -1 (3)
Siêu phẳng tối ưu như phương trình (1) là
siêu phẳng duy nhất tách tập dữ liệu học với
biên cực đại. Nó xác định hướng w/|w| mà
khoảng cách từ hình chiếu các vector học của
2 lớp là lớn nhất. Khoảng cách từ một điểm
đến siêu phẳng được tính theo phương trình
(4), với biên là
2
w
.
( )g x
z
w
(4)
Với mỗi điểm xi tương ứng thuộc nhãn
lớp yi, cần xác định tập thông số (w, b) của
siêu phẳng theo (5).
21
Min (w)
2
(w x b) 1
w
T
i i
w
y
(5)
Trong trường hợp dữ liệu bài toán phức
tạp và bị chồng lấn, nhiễu, khó tách biệt thì bài
toán (5) trở thành bài toán (6).
2
1
1
Min (w, )
2
(w (x ) b) 1
0
N
i
w
i
T
i i i
i
w C
y
(6)
Trong đó, w là trọng số của mặt siêu
phẳng. C là hệ số phạt định nghĩa giá trị ràng
buộc. (.) là hàm ánh xạ, b là hệ số ngưỡng,
i là biến nới lỏng, i 0.
3.3. Đánh giá mô hình nhận dạng
Phần trăm độ chính xác nhận dạng của
mô hình được tính theo phương trình (7).
R
CR% .100
D
(7)
Trong đó: R là số mẫu đúng trong tập
mẫu, D là tổng số mẫu của tập mẫu.
4. ÁP DỤNG NHẬN DẠNG ỔN ĐỊNH
ĐỘNG HTĐ IEEE 10 MÁY 39-BUS
4.1. Sơ đồ IEEE 10 máy 39-bus
HTĐ IEEE 39-bus gồm có 39 bus, trong đó
10 bus máy phát, 12 máy biến áp, 10 máy
phát, 34 đường dây truyền tải và 19 tải. 10
máy phát được kết nối từ bus 30 đến bus 39,
trong đó bus 39 được coi là bus Slack, 9 bus
được gọi là bus PV, 29 bus còn lại được gọi
là bus PQ, có 2 cấp điện áp là 345kV và
20kV. Hệ thống được cho như ở Hình 5.
Hình 5. HTĐ IEEE 39-bus
4.2. Tạo cơ sở dữ liệu
Có hai dạng biến cho chế độ hệ thống
điện là biến chứa dữ liệu ở chế độ xác lập và
ở chế độ sự cố. Biến ở chế độ xác lập hay
tiền sự cố là thông tin giúp hệ thống nhận
dạng biết tình trạng mất ổn định xảy ra để
phát tín hiệu đến hệ thống điều khiển ngăn
chặn trước, giúp hệ thống điều khiển ra quyết
định đưa hệ thống điện vào vùng vận hành an
toàn, phòng khi sự cố xảy ra gây mất ổn định
4
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
hệ thống điện, mặc dù thực tế là sự cố có thể
không xảy ra. Hẳn nhiên, việc điều khiển này
phải chịu chi phí tổn thất cho việc điều chỉnh
lại lịch trình phát của các máy phát điện. Đặc
trưng cho chế độ tiền sự cố là các điểm vận
hành hệ thống điện gồm điện áp tại các bus,
công suất các máy phát điện, dòng công suất
trên các nhánh, công suất của các tải,Biến
ở chế độ động hay chế độ sự cố là thông tin
cho biết tình trạng mất ổn định xảy ra để phát
tín hiệu đến hệ thống điều khiển khẩn cấp và
lệnh điều khiển ngay lập tức phải được thi
hành để đưa hệ thống trở về trạng thái ổn
định, cứu hệ thống điện khỏi nguy cơ tan rã.
Đặc trưng chế độ sự cố gồm độ lệch điện áp
tại các bus, độ lệch công suất phát, độ lệch
công suất trên các nhánh, độ lệch công suất
các tải, Trong thực tế phân tích ổn định hệ
thống điện thì độ sụt điện áp và độ thay đổi
công suất tác dụng chứa thông tin rất cao và
liên quan trực tiếp đến trạng thái ổn định hệ
thống điện. Đây là các biến có chứa thông tin
cao được lựa chọn làm biến đầu vào cho bộ
nhận dạng. Biến đầu ra đại diện cho điều
kiện ổn định động của hệ thống điện được
gán nhãn biến nhị phân cho lớp ổn định và
lớp không ổn định.
Phần mềm Powerworld tính toán mẫu
công suất phát tương ứng nhờ công cụ tính
toán phân bố công suất tối ưu OPF. Thực
hiện mô phỏng off-line để thu thập dữ liệu
cho đánh giá ổn định động HTĐ, trong
nghiên cứu này xét hệ thống điện ở chế độ
vận hành đầy đủ các máy phát và các đường
dây truyền tải, mức tải 100% tải cơ bản, thời
gian cắt ngắn mạch cài đặt là 50ms. Bài báo
này xem xét các sự cố ngắn mạch ba pha,
một pha chạm đất, hai pha tại tất cả các thanh
góp và dọc các đường dây truyền tải với mỗi
khoảng cách 5% chiều dài đường dây. Biến
đầu vào là: x{∆Vbus, ∆Pload, ∆Pflow}. Tổng số
biến đầu vào là 104(39+19+46), 1 biến đầu
ra. Tổng số mẫu là 310 mẫu, trong đó có 158
mẫu ổn định và 152 mẫu không ổn định.
4.3. Biến đầu vào và biến đầu ra
Để chọn tập biến, trong bài báo này tác
giả đề xuất áp dụng phương pháp xếp hạng
với hàm mục tiêu chọn biến F (Fisher) [5] và
phương pháp tìm kiếm tuần tự tiến lùi
(SFFS) với hàm mục tiêu SM
(Scatter-Matrice) [9]. Đây là hai phương
pháp đã được áp dụng chọn biến và công bố
trong bài báo [5], [6].
Để tiến hành chọn biến, tập dữ liệu được
chia ngẫu nhiên làm 10 tập con có kích cỡ
bằng nhau. Mỗi lần huấn luyện với chín tập
con và một tập con còn lại làm tập kiểm tra.
Kết quả huấn luyện và kiểm tra được tính
toán trung bình cho 10 lần thực hiện. Bài báo
áp dụng bộ nhận dạng K-Nearest Neighbor
(1-NN, K=1) để thực hiện đánh giá độ chính
xác chọn tập biến nhờ vào tính đơn giản của
nó. Độ chính xác kiểm tra khi chọn biến theo
phương pháp xếp hạng và SFFS là 93,5% và
95,8% tương ứng với số biến là 15 và 14
biến. Kết quả số biến được chọn là 14 biến
theo phương pháp SFFS. Kết quả chọn biến
này sẽ được sử dụng để xây dựng mô hình bộ
nhận dạng hay bộ phân lớp ở phần trình bày
tiếp sau.
4.4. Xây dựng mô hình mạng bộ phân lớp
Phân chia dữ liệu:
Tập dữ liệu xây dựng mô hình có 310
mẫu với 14 biến đầu vào, một biến ngõ ra.
Tập mẫu huấn luyện có 230 mẫu, trong đó
118 mẫu ổn định và 112 mẫu không ổn định.
Tập mẫu kiểm tra có 80 mẫu, trong đó có 40
mẫu ổn định và 40 mẫu không ổn định.
Trong bài báo này sử dụng các công cụ nhận
dạng được hỗ trợ của phần mềm Matlab.
Xây dựng mô hình mạng MLP:
Hình 6. Đặc tuyến hội tụ huấn luyện mạng
MLP
0 10 20 30
10
-4
10
-2
10
0
M
S
E
Epochs
Train
Validation
Test
Best
Goal
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
5
Hình 7. Hệ số tương quan
Cấu hình và thông số mạng nơ-rôn
perceptron gồm 3 lớp: lớp vào, lớp ẩn và lớp
ra. Giải thuật cập nhật trọng số và bias được
chọn là Levenberg-Marquardt nhờ tính toán
nhanh. Số chu kỳ huấn luyện là 1000, sai số
huấn luyện cài đặt 1e-3, các thông số khác
mặc định. Cấu trúc mạng sử dụng hàm kích
hoạt purelin, hàm ẩn logsig với số nơ-rôn Nh
ẩn bằng 10, lớp ra có một nơ-rôn. Mạng có
14 biến đầu vào và một biến ra y{1,0}. Kết
quả huấn luyện mạng được trình bày ở Hình
6. Trong Hình 6 số chu trình huấn luyện là 32.
Hệ số tương quan giữa đầu ra của mạng và
đích được trình bày ở Hình 7.
Xây dựng mô hình bộ phân lớp SVM:
SVM được hỗ trợ trong phần mềm
Matlab [7], hàm nhân với hàm bán kính cơ
sở (RBF Kernel) được chọn để xây dựng mô
hình SVM. Xây dựng mô hình bộ phân lớp
SVM trong công cụ hỗ trợ của phần mềm
Matlab là thông qua việc tìm kiếm thông số
C và thông số Kernel (K) tốt nhất sao cho bộ
phân lớp đạt kết quả nhận dạng cao nhất.
Trong bài báo này tác giải đề nghị phương
pháp chia lưới để tìm kiếm cặp thông số (C,
K). Trong xây dựng mô hình SVM, giá trị
kinh nghiệm của C và K từ 2-15 đến 215 được
lựa chọn. Trong đó, bước khoảng cách của
lưới được đề nghị là 0,1. Như vậy, lưới được
chia là lưới vuông, có 301 điểm chia cho một
cạnh lưới, hay tổng cộng có 90601 điểm
trong lưới tìm kiếm. Kết quả đường đồng
mức hay đồng giá trị độ chính xác kiểm tra
được trình bày như Hình 8.
Hình 8. Đồ thị cặp thông số (C, K) và đường
mức độ chính xác kiểm tra
Giá trị cặp thông số (C, K) được chọn và
kết quả đánh giá được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả xây dựng các bộ phân lớp
Nh (C, K) Huấn luyện
(%)
Kiểm tra
(%)
MLP 10 96,95 95,00
SVM ((8,8),(6,6)) 98,62 98,75
4.5. Bàn luận
Hình 7, hệ số tương quan tổng thể giữa
đầu ra của bộ phân lớp MLP với đích là
0,94696. Kết quả cho thấy kết quả giữa đầu
ra của bộ phân lớp MLP với đích có tính
tương quan cao. Kết quả độ chính xác kiểm
tra của bộ phân lớp MLP là 95%, đây là kết
quả chấp nhận được trong bài toán đánh giá
ổn định HTĐ [3]–[5].
Bảng 1 kết quả độ chính xác kiểm tra của
bộ phân lớp SVM đạt đến 98,75%. Như vậy,
SVM cho độ chính xác kiểm tra cao hơn
3,75% so với MLP.
5. KẾT LUẬN
Bài báo đã đề nghị áp dụng bộ phân lớp
SVM để nhận dạng ổn định động HTĐ do
các sự cố ngắn mạch gây ra và so sánh kết
quả với bộ phân lớp MLP. Kết quả kiểm tra
cho thấy, bộ phân lớp SVM đạt độ chính xác
cao hơn MLP. Việc nâng cao độ chính xác
nhận dạng giúp tăng cơ hội can thiệp sớm khi
HTĐ gặp sự cố gây mất ổn định, giúp giảm
bớt rủi ro mất điện lưới xảy ra. Kết quả nhận
dạng với độ chính xác cao, có thể khẳng định
SVM là thích hợp để khuyến nghị áp dụng
trong xây dựng bộ phân lớp đánh giá ổn định
động HTĐ.
0.9
0.9
0.9
0.
9
0.9 0.9 0.9
0.95
0.95
0.95
0.95
0.95
0.95
0.95
0.
95
0.95 0.95
0.95 0.950.95
0.950.95
0.95
0.95 0.
95
0.95 0.95 0.95
0.9875
0.9875
C
K
-5 0 5 10 15
5
10
15
6
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 57 (04/2020)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] R. Zhang, Y. Xu, Z. Y. Dong, K. Meng, and Z. Xu, “Intelligent systems for power
system dynamic security assessment: Review and classification,” 2011 4th Int. Conf.
Electr. Util. Deregul. Restruct. Power Technol., pp. 134–139, 2011.
[2] S. Kalyani and K. S. Swarup, “Pattern analysis and classification for security evaluation
in power networks,” Int. J. Electr. Power Energy Syst., vol. 44, no. 1, pp. 547–560,
2013.
[3] A. Karami and S. Z. Esmaili, “Transient stability assessment of power systems
described with detailed models using neural networks,” Int. J. Electr. Power Energy
Syst., vol. 45, no. 1, pp. 279–292, 2013.
[4] A. M. A. Haidar, M. W. Mustafa, F. A. F. Ibrahim, and I. A. Ahmed, “Transient stability
evaluation of electrical power system using generalized regression neural networks,”
Appl. Soft Comput. J., vol. 11, no. 4, pp. 3558–3570, 2011.
[5] Z. Y. Dong, Z. Rui, and Y. Xu,“Feature selection for intelligent stability assessment of
power systems,” IEEE Power and Energy Society General Meeting, pp. 1–7, 2012.
[6] N.N.Au, Q.H.Anh, and P.T.T.Binh, “Feature Subset Selection in Dynamic Stability
Assessment Power System Using Artificial Neural Networks,” Sci. Technol. Dev. Vol.18,
No.K3, 2015.
[7] M. H. Beale, M. T. Hagan, and H. B. Demuth, “Neural Network Toolbox TM User ’ s
Guide R 2014 a,” 2014.
[8] C. Cortes and V. Vapnik, “Support-Vector Networks,” Proc. Mach. Learn., vol. 20, pp.
273–297, 1995.
[9] A. R. Webb and K. D. Copsey, ''Statistical Pattern Recognition'', Third Edition, A John
Wiley & Sons. Inc. Publication, 2011.
Tác giả chịu trách nhiệm bài viết:
Nguyễn Ngọc Âu
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
Email: [email protected]
File đính kèm:
nhan_dang_on_dinh_he_thong_dien_dung_bo_phan_lop_svm.pdf

