Nguyên nhân và chẩn đoán trước sinh giãn não thất thai nhi
Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định một số nguyên nhân và các vấn đề liên quan đến chẩn đoán trước
sinh giãn não thất thai nhi. Nghiên cứu được tiến hành trên 300 trường hợp giãn não thất thai nhi được chẩn
đoán tại trung tâm Chẩn Đoán Trước Sinh bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. Giãn não thất được chẩn đoán
khi kích thước não thất bên ≥10mm với tuổi thai từ 20 tuần trở lên. Giãn não thất chia làm 3 mức độ giãn nhẹ
(10-12mm), giãn vừa (12,1-14,9) và giãn nặng (≥15mm). Giãn não thất đơn độc khi không có bất thường nào
khác trên siêu âm trong lần khám đầu tiên. Giãn não thất phối hợp khi có thêm ít nhất một bất thường đi kèm.
Nguyên nhân giãn não thất là những bất thường hệ thần kinh trung ương phát hiện được trên siêu âm. Tất cả
các trường hợp thai dưới 30 tuần tuổi được đề nghị xét nghiệm tế bào ối để đánh giá bất thường nhiễm sắc
thể thai. Kết quả: Giãn mức độ nhẹ: 36,3%, vừa: 30,3%, nặng: 33,3%. Giãn não thất đơn độc 43,7%, phối
hợp: 56,3%. Trong số các trường hợp tìm ra nguyên nhân, bất sản thể trai chiếm tỷ lệ cao nhất 11,7%. Tỷ lệ
bất thường nhiễm sắc thể 9,4%. Nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20-24 tuần, tỷ lệ giãn não thất phối hợp
67,9%, cao hơn trong các nhóm tuổi thai khác. Nhóm tuổi thai ≥33 tuần, tỷ lệ giãn não thất nặng 54,9%, cao
hơn trong các nhóm tuổi thai khác. Tỷ lệ giãn phối hợp trong nhóm giãn nhẹ, vừa, nặng lần lượt là: 39,4%,
58,2% và 73%. Kết luận: Nguyên nhân giãn não thất thai nhi tìm thấy được trong 56,3%, gặp nhiều nhất là
bất sản thể trai. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể 9,4%. Giãn não thất phối hợp được phát hiện nhiều nhất
trong nhóm tuổi 20-24 tuần. Tỷ lệ bất thường cấu trúc nhóm giãn não thất nặng cao nhóm giãn vừa và nhẹ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyên nhân và chẩn đoán trước sinh giãn não thất thai nhi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 62 TCNCYH 123 (7) - 2019 Tác giả liên hệ: Ngô Văn Toàn, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 16/09/2019 Ngày được chấp nhận: 02/11/2019 NGUYÊN NHÂN VÀ CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SINH GIÃN NÃO THẤT THAI NHI Trần Thị Sơn Trà¹, Trần Danh Cường², Ngô Văn Toàn³, Nguyễn Thị Khánh² 1Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam Cuba- Đồng Hới, ²Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, ³Trường Đại học Y Hà Nội Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định một số nguyên nhân và các vấn đề liên quan đến chẩn đoán trước sinh giãn não thất thai nhi. Nghiên cứu được tiến hành trên 300 trường hợp giãn não thất thai nhi được chẩn đoán tại trung tâm Chẩn Đoán Trước Sinh bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. Giãn não thất được chẩn đoán khi kích thước não thất bên ≥10mm với tuổi thai từ 20 tuần trở lên. Giãn não thất chia làm 3 mức độ giãn nhẹ (10-12mm), giãn vừa (12,1-14,9) và giãn nặng (≥15mm). Giãn não thất đơn độc khi không có bất thường nào khác trên siêu âm trong lần khám đầu tiên. Giãn não thất phối hợp khi có thêm ít nhất một bất thường đi kèm. Nguyên nhân giãn não thất là những bất thường hệ thần kinh trung ương phát hiện được trên siêu âm. Tất cả các trường hợp thai dưới 30 tuần tuổi được đề nghị xét nghiệm tế bào ối để đánh giá bất thường nhiễm sắc thể thai. Kết quả: Giãn mức độ nhẹ: 36,3%, vừa: 30,3%, nặng: 33,3%. Giãn não thất đơn độc 43,7%, phối hợp: 56,3%. Trong số các trường hợp tìm ra nguyên nhân, bất sản thể trai chiếm tỷ lệ cao nhất 11,7%. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể 9,4%. Nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20-24 tuần, tỷ lệ giãn não thất phối hợp 67,9%, cao hơn trong các nhóm tuổi thai khác. Nhóm tuổi thai ≥33 tuần, tỷ lệ giãn não thất nặng 54,9%, cao hơn trong các nhóm tuổi thai khác. Tỷ lệ giãn phối hợp trong nhóm giãn nhẹ, vừa, nặng lần lượt là: 39,4%, 58,2% và 73%. Kết luận: Nguyên nhân giãn não thất thai nhi tìm thấy được trong 56,3%, gặp nhiều nhất là bất sản thể trai. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể 9,4%. Giãn não thất phối hợp được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi 20-24 tuần. Tỷ lệ bất thường cấu trúc nhóm giãn não thất nặng cao nhóm giãn vừa và nhẹ. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giãn não thất thai nhi là thuật ngữ mô tả sự hiện diện của một lượng dịch não tủy quá mức trong não thất bên, liên quan tới bất thường não, teo não hay tắc nghẽn lưu thông dịch não tủy [1]. Não úng thủy là thuật ngữ dùng để mô tả bệnh cảnh giãn rộng hệ thống não thất do sự gia tăng áp lực dịch não tủy thông thường do nguyên nhân tắc nghẽn. Áp lực dịch não tủy không đo được trong thai kỳ nên thuật ngữ giãn não thất luôn được sử dụng cho chẩn đoán trước sinh. Não thất bên có các mức độ giãn khác nhau, tuy nhiên có thể có hay không có mối liên quan với giãn não thất 3 và não thất 4 [2]. Đánh giá kích thước não thất bên là một tiêu chuẩn quan trọng trong siêu âm sản khoa. Giãn não thất thường được phát hiện đầu tiên trong quá trình khảo sát thai quý hai thường quy tại thời điểm 18 - 22 tuần nhưng cũng có thể phát hiện vào cuối quý hai hoặc thậm chí trong quý ba. Giãn não thất cũng có thể được nghi ngờ ở cuối quý một hoặc đầu quý hai của thai kỳ, mặc dù số đo bình thường và ngưỡng giãn chưa được nghiên cứu. Giãn não thất có Từ khóa: giãn não thất thai nhi, nguyên nhân, mức độ giãn, chẩn đoán trước sinh, kích thước não thất bên. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 63TCNCYH 123 (7) - 2019 thể đơn độc nhưng cũng có thể liên kết với các bất thường khác mà trong nhiều nghiên cứu cho rằng các bất thường hệ thần kinh trung ương chính là nguyên nhân gây giãn não thất. Cơ chế bệnh sinh của giãn não thất bao gồm: mất mô não, tắc nghẽn lưu thông và sản xuất quá mức dịch não tủy. Các nguyên nhân giãn não thất đã được nhiều nghiên cứu tìm thấy: bất thường gen, nhiễm sắc thể, nhiễm trùng thai, chảy máu trong sọ, bất thường võ não, bất thường cấu trúc: hẹp cống não, bất sản thể trai, bất sản vách trong suốt, hội chứng Dandy Walker, hội chứng Chiari, hở ống thần kinh [1]. Những nguyên nhân này sẽ bao gồm những dấu hiệu trên siêu âm chi tiết hệ thần kinh trung ương. Vì vậy, khi giãn não thất được phát hiện cần đánh giá rất cẩn thận hệ thần kinh trung ương thai nhi cũng như toàn bộ giải phẫu cơ thể thai nhi. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: Xác định một số nguyên nhân và các đặc điểm chẩn đoán trước sinh của giãn não thất thai nhi. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Chúng tôi chọn vào nghiên cứu tất cả các thai nhi từ 20 tuần trở lên được chẩn đoán giãn não thất tại Trung tâm Chẩn Đoán Trước Sinh Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ tháng 9/2015 đến tháng 12/2017. Giãn não thất được chẩn đoán xác định khi kích thước của ít nhất một não thất ≥ 10mm. Số đo của cả hai não thất được thực hiện theo hướng dẫn của ISUOG 2007, với ba tiêu chuẩn sau: (1) mặt cắt đo não thất bên ngang mức cuộn đám rối mạch mạc; (2) thước đo vuông góc với thành não thất, tại vị trí đối diện với rãnh đỉnh chẩm hoặc nơi to nhất của não thất bên; (3) vị trí đặt con trỏ phía trong âm vang thành não thất sao cho mép ngoài của thanh ngang con trỏ chạm vào mép trong thành não thất [3]. Hình 1. a. Cách đo đường kính não thất bên. Mặt cắt đo não thất bên ngang mức cuộn đám rối mạch mạc. Thước đo vuông góc với thành não thất ở mức cuộn đám rối mạch mạc. b. Vị trí đặt con trỏ phía trong âm vang tạo nên thành não thất sao cho mép ngoài của thanh ngang con trỏ chạm vào mép trong thành não thất [3]. Kích thước não thất được phân chia thành ba mức độ giãn khác nhau: giãn nhẹ (10 - 12), giãn vừa (12,1 - 14,9) và giãn nặng (≥ 15). Sau khi chẩn đoán mức độ, tiến hành tìm nguyên nhân giãn não thất cũng như các bất thường đi kèm ngoài hệ thần kinh trung ương bằng siêu âm hệ thần kinh trung ương và giải phẫu cơ thể thai nhi. Giãn não thất đơn độc được xác định khi không có bất thường đi kèm. Giãn não thất phối hợp khi có thêm ít nhất một bất thường đi kèm. Khi đã có chẩn đoán nguyên nhân trên siêu âm, tư vấn tình trạng thai cho gia đình và TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 64 TCNCYH 123 (7) - 2019 đề nghị xét nghiệm tế bào ối để tìm bất thường nhiễm sắc thể thai cho những trường hợp dưới 30 tuần tuổi. Trong thời gian từ tháng 9/2015 đến tháng 12/2017 có tất cả 401 trường hợp giãn não thất, sau khi loại trừ những trường hợp song thai, những trường hợp từ chối tham gia nghiên cứu, những trường hợp không tiếp tục tham gia nghiên cứu còn lại 300 trường hợp được đưa vào phân tích trong đó có 85 trường hợp có kết quả nhiễm sắc thể thai (bao gồm 18 trường hợp có từ trước 20 tuần vì các lý do chọc ối: gáy dày, xét nghiệm sàng lọc nguy cơ với hội chứng Down, giãn não thất và 67 trường hợp đồng thuận xét nghiệm tế bào ối). Chúng tôi sử dụng Chi - square test (c2), test so sánh hai tỷ lệ. Các phép kiểm định, so sánh có ý nghĩa thống kê khi p ≤ 0,05. III. KẾT QUẢ 1. Các nguyên nhân giãn não thất thai nhi. Bảng 1. Đặc điểm thai phụ Đặc điểm thai phụ Số lượng Tỷ lệ % Tuổi mẹ < 20 22 7,3 20 - 29 200 66,7 30 - 39 78 26,0 Số lần sinh Con so 133 44,3 Con rạ 167 55,7 Tiền sử có con giãn não thất Không 289 96,3 Có 11 3,7 Tuổi mẹ có thai giãn não thất tập trung trong nhóm tuổi 20 - 29 tuổi chiếm tỷ lệ 66,7%. Tuổi mẹ trung bình: 27 ± 5,13 (thay đổi:16 - 45). Tỷ lệ thai phụ có tiền sử con lần trước được chẩn đoán giãn não thất là 3,7%. Bảng 2. Đặc điểm thai nhi giãn não thất Đặc điểm giãn não thất thai nhi Số lượng Tỷ lệ % Tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20 - 24 81 27,0 25 - 28 92 30,7 29 - 32 76 25,3 ≥ 33 51 17,0 Mức độ giãn Nhẹ 109 36,3 Vừa 91 30,3 Nặng 100 33,3 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 65TCNCYH 123 (7) - 2019 Đặc điểm giãn não thất thai nhi Số lượng Tỷ lệ % Giãn đơn độc hay phối hợp Đơn độc 131 43,7 Phối hợp 169 56,3 Một bên hay hai bên Một bên 16 5,3 Hai bên 284 94,7 Tuổi thai trung bình tại thời điểm chẩn đoán 27,7 ± 4,67 (thay đổi: 20 - 38). Tỷ lệ phát hiện giãn não thất trước 24 tuần chiếm 27%. Giãn não thất hai bên là chủ yếu với tỷ lệ 94,7%. Giãn não thất mức độ nhẹ, vừa, nặng lần lượt là: 36,3%, 30,3%, 33,3%. Kích thước não thất trung bình: 14,7 ± 5,66 mm (thay đổi: 10 - 53). Giãn não thất đơn độc chiếm tỷ lệ 43,7%, giãn não thất phối hợp chiếm tỷ lệ 56,3%. Trong số các trường hợp tìm thấy nguyên nhân trên siêu âm chẩn đoán trước sinh, chiếm tỷ lệ lớn nhất là nhóm giãn não thất có nhiều bất thường 17%, đứng thứ hai là bất sản thể trai 11,7%, thứ ba là bất sản vách trong suốt 7,7%, giãn não thất kèm bất thường thần kinh trung ương 4%, Spina Bifida 3,7%, thoát vị não 2%, tắc cống não 2%, Dandy Walker 1,7%, nhẵn não 1,7% và còn lại 4 trường hợp xuất huyết trong não thất, 3 trường hợp u não, 1 trường hợp nhiễm trùng thai, 1 trường hợp chẻ não, 1 trường hợp hẹp sọ, 1 hội chứng Merkel Gruber. Bất thường cấu trúc khác ngoài hệ thần kinh trung ương được phát hiện trên siêu âm chẩn đoán trước sinh chiếm tỷ lệ 21,7%. Trong các bất thường ngoài hệ thần kinh trung ương, chiếm tỷ lệ lớn nhất là bất thường tim (9,3%), tiếp theo là thận (3,3%) và chi (2,7%). Bất thường bụng có 5 thường hợp (1,6%), phù thai có 4 thường hợp (13%), bất thường mặt có 2 trường hợp (0,7%). Tỷ lệ thai chậm phát triển trong tử cung chiếm 2,3% trong tổng số giãn não thất. Thai nhi có kết quả karyotype trong 85 trường hợp chiếm tỷ lệ 28,3%. Tỷ lệ bất thường NST 9,4% (8 trường hợp). Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nhóm giãn não thất đơn độc, phối hợp, giãn nhẹ, giãn vừa, giãn nhẹ hoặc vừa, giãn nặng lần lượt là: 8,9%, 10,3%, 9,5%, 10,7%, 10%. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20 - 24, 25 - 29 tuần lần lượt là: 12,8%, 9,4%. Sự khác biệt về tỷ lệ bất thường giữa các nhóm giãn đơn độc và phối hợp, mức độ giãn nặng và nhẹ hoặc vừa, nhóm tuổi thai 20 - 24 và 25 - 28 khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong 8 trường hợp bất thường nhiễm sắc thể: 3 trường hợp trisomi 21, 1 trường hợp trisomi 18, 1 trường hợp trisomi 13, 1 trường hợp Klinefelter, 2 trường hợp chuyển đoạn cân bằng (NST giới tính X và NST số 1, NST số 2 và NST số 10). Ba trường hợp giãn não thất đơn độc không có bất thường khác đi kèm (1 trường hợp giãn nhẹ, 2 trường hợp giãn vừa) có kết quả trisomi 21, trisomi 13 và chuyển đoạn cân bằng. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 66 TCNCYH 123 (7) - 2019 2. Phân bố giãn não thất thai nhi trong các nhóm nguyên nhân, mức độ và tuổi thai tại thời điểm phát hiện. Bảng 3. Phân bố nguyên nhân giãn não thất theo tuổi thai tại thời điểm phát hiện Tuổi thai tại thời điểm phát hiện Nguyên nhân giãn 20 - 24 25 - 28 29 - 32 ≥33 Tổng P Phối hợp Số lượng 55 47 40 27 169 0,0185 Tỷ lệ % 32,5 27,8 23,7 16,0 100 Đơn độc Số lượng 26 45 36 24 131 0,0346 Tỷ lệ % 19,8 34,4 27,5 18,3 100 Thai nhi giãn não thất đơn độc được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi thai 25 - 28 tuần với tỷ lệ 34,4%. Tỷ lệ giãn não thất đơn độc trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 25 - 28 tuần cao hơn các nhóm tuổi thai khác có ý nghĩa thống kê với p = 0,0346. Thai nhi giãn não thất phối hơp được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi thai 20 - 24 tuần với tỷ lệ 32,5%. Tỷ lệ giãn não thất phối hợp trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20 - 24 tuần cao hơn trong các nhóm khác có ý nghĩa thống kê với p = 0,0185. Biểu đồ 1. Phân bố nguyên nhân mức độ giãn não thất. Tỷ lệ giãn đơn độc trong nhóm giãn nhẹ, vừa, nặng lần lượt là: 60,6%, 41,8 %, 27%.Tỷ lệ giãn phối hợp trong nhóm giãn nhẹ, vừa, nặng lần lượt là: 39,4%, 58,2% và 73%. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 67TCNCYH 123 (7) - 2019 IV. BÀN LUẬN Bảng 4. Phân bố mức độ giãn theo tuổi thai tại thời điểm phát hiện Mức độ giãn Tuổi thai tại thời điểm phát hiện Giãn nhẹ Giãn vừa Giãn nặng p Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 20 - 24 31 38,3 23 28,4 27 33,3 0,55 25 - 28 37 40,2 34 37,0 21 22,8 0,09 29 - 32 30 39,5 22 28,9 24 31,6 0,50 ≥ 33 11 21,6 12 23,5 28 54,9 0,0047 Tổng 109 36,3 91 30,3 100 33,3 Tỷ lệ giãn não thất nhẹ, vừa và nặng trong mỗi nhóm tuổi thai 20 - 24, 25 - 28, 28 - 32 tuần khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.Tỷ lệ giãn não thất nặng trong nhóm tuổi thai ≥ 33 tuần cao hơn nhóm giãn nhẹ hoặc vừa có ý nghĩa thống kê với p = 0,0047. Giãn não thất thai nhi là dấu hiệu bất thường hệ thần kinh trung ương gặp nhiều nhất và có vẻ dễ dàng chẩn đoán xác định trên siêu âm trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên chẩn đoán nguyên nhân giãn não thất trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Theo nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Panagi và cộng sự, tỷ lệ âm tính giả của chẩn đoán hình ảnh trước sinh là 7,4% đối với 9 trong 20 nghiên cứu sử dụng siêu âm hoặc MRI sau đẻ cho trẻ và 11,2% đối với 5 trong 20 nghiên cứu sử dụng cộng hưởng từ (MRI) sau đẻ phát hiện bất thường đi kèm [4]. Nguyên nhân cụ thể của giãn não thất thai nhi hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Nó có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân, bao gồm: mất thể tích não, tắc nghẽn lưu thông dịch não tủy, bất thường cấu trúc hệ thần kinh trung ương. Chẩn đoán nguyên nhân có vai trò rất quan trọng trong việc thảo luận với gia đình về kết quả của thai kỳ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy một số nguyên nhân giãn não thất như sau: bất sản thể trai, bất sản vách trong suốt, Spina Bifida, thoát vị não, tắc cống não, Dandy Walker, nhẵn não, xuất huyết trong não thất, u não, nhiễm trùng thai, chẻ não, hẹp sọ, tắc cống não, hội chứng Merkel Gruber. Trong số các nguyên nhân tìm thấy, chiếm tỷ lệ lớn nhất là nhóm đa dị tật 17%, đứng thứ hai là bất sản thể trai 11,7%, thứ 3 là bất sản vách trong suốt 7,7%, Spina Bifida 3,7%. Cũng như nhiều nghiên cứu khác, bất sản thể trai là nguyên nhân giãn não thất gặp khá nhiều [5; 6]. Năm 2016 Nan Chu và cộng sự nghiên cứu trên 214 trường hợp giãn não thất và đã tìm thấy bất sản thể trai có số lượng cao nhất 14 trường hợp (5,8%), bất thường hố sau 13 trường hợp [5]. Năm 2008, Joo và cộng sự nghiên cứu trên 230 trường hợp giãn não thất và tìm thấy một số nguyên nhân: bất sản thể trai, hẹp cống não, hội chứng Arnold - Chiari, bất thường nhiễm sắc thể, hội chứng Dandy - Walker, nhiễm trùng thai, chảy máu trong sọ, u trong sọ và đa dị tật. Trong đó bất sản thể trai (8,6%) và nhiễm trùng thai (15,51%) chiếm tỷ lệ cao nhất. Tuy nhiên, nhiễm trùng thai trong nghiên cứu của TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 68 TCNCYH 123 (7) - 2019 Joo khi xét nghiệm huyết thanh với TORCH được xác định là nhiễm mới và chỉ có 4 trường hợp xác định lại bởi real - time PCR dịch ối [6]. Nhiều nghiên cứu khác thấy rằng Spina Bifida là nguyên nhân đứng hàng đầu: Kumar và cộng sự, Madazli và cộng sự [7; 8]. Bất thường cấu trúc ngoài hệ thần kinh trung ương gặp trong 21,7%. Bất thường tim gặp nhiều nhất 9,3%, bất thường thận trong 3,3% và bất thường chi trong 2,7%. Bất thường bụng có 5 thường hợp (1,6%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nan Chu và cộng sự: bất thường tim gặp nhiều nhất 5% [5]. Theo nghiên cứu của Kumar và cộng sự, bất thường gặp nhiều nhất lại là khe hở môi , thận 1,5% [7]. Tỷ lệ bất thường ngoài hệ thần kinh trung ương cao hơn trong nghiên cứu của Joo và cộng sự: 66%. Nghiên cứu này gặp nhiều nhất là bất thường của hệ tiết niệu 13,25%, chi 6,5%. Tuy mức độ các bất thường ngoài hệ thần kinh trung ương cao như vậy nhưng tác giả thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ bất thường trong các mức độ giãn não khác nhau [6]. Mối liên quan giữa bất thường nhiễm sắc thể với giãn não thất thai nhi đã được chứng minh bởi rất nhiều nghiên cứu trong nhiều thập niên qua. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể đã được báo cáo trong các nghiên cứu trước thay đổi từ 5% - 8,8% [5; 7; 9; 10] cho tất cả giãn não thất. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nghiên cứu này 9,4% phù hợp với nghiên cứu của Nan Chu: 8,8% và Kumar 7,5% [5; 7]. Tuy nhiên tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tác giả Gezer và cộng sự: 5%, Ganglioti và cộng sự: 6,25%, Madazli và cộng sự chỉ có 3% bất thường nhiễm sắc thể [9; 10]. Lý giải cho sự khác biệt này bởi hai nghiên cứu của Gezer và Ganglioti có số lượng mẫu phân tích karyotype lớn nhất trong tất cả các nghiên cứu về bất thường nhiễm sắc thể của thai nhi giãn não thất ở tất cả các mức độ giãn và nguyên nhân giãn (năm 2005 Ganglioti phân tích trên 152 thai nhi, năm 2014 Gezer phân tích trên 140 thai nhi, năm 2011 Madazli phân tích 67 thai trong tổng số 102 trường hợp nghiên cứu). Theo nghiên cứu phân tích gộp (5 nghiên cứu đạt tiêu chuẩn tốt) của tác giả Sun và cộng sự năm 2018, tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể 7% [11]. Thai nhi giãn não thất đơn độc được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi thai 25 - 28 tuần với tỷ lệ 34,4%. Tỷ lệ giãn não thất đơn độc trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 25 - 28 tuần cao hơn các nhóm tuổi thai khác có ý nghĩa thống kê với p = 0,0346. Thai nhi giãn não thất phối hơp được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi thai 20 - 24 tuần với tỷ lệ 32,5%. Tỷ lệ giãn não thất phối hợp trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 20 - 24 tuần cao hơn trong các nhóm tuổi thai khác có ý nghĩa thống kê với p = 0,0185. Điều này có giải thích bởi hai lí do như sau: (1) 20 - 24 tuần là thời điểm mà hệ thần kinh thai nhi hầu như đã hoàn thiện để có thể nhìn thấy rõ trên siêu âm. (2) thai nhi 20 - 24 tuần tuổi là thời điểm khảo sát hình thái học nên bất thường thai thường được phát hiện dễ dàng hơn so với các thời kỳ khác. Trong nghiên cứu của Madazli và cộng sự, tỷ lệ giãn não thất phối hợp trong nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện là 81,6% cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi [8]. Sự khác biệt này có thể giải thích bởi ba lí do sau: (1) đa số các trường hợp giãn não thất thai nhi trong nghiên cứu của Madazli và cộng sự được phát hiện trước 25 tuần tuổi, (2) ở một số quốc gia các bệnh viện thứ 3 (ngang mức bệnh viện trường đại học y khoa trở lên) thường tiếp nhận số lượng lớn trường hợp thai có nhiều bất thường hơn, (3) có thể tỷ lệ âm tính giả của chẩn đoán trước sinh trong nghiên cứu của Madazli thấp hơn làm tăng tỷ lệ giãn TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 69TCNCYH 123 (7) - 2019 não thất phối hợp. Bất thường cấu trúc trong nhóm giãn nhẹ, vừa, và nặng lần lượt là: 39,4%, 58,2%, 73%. Khi mức độ giãn não thất tăng lên, tỷ lệ giãn não thất đơn độc giảm dần, ngược lại tỷ lệ giãn não thất phối hợp lại tăng lên. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận này phù hợp với nghiên cứu của Gezer và cộng sự, Ganglioti và cộng sự, Vergani và cộng sự. Nghiên cứu của Ganglioti và cộng sự cho thấy tỷ lệ giãn phối hợp tăng từ 41% đến 76% khi kích thước não thất từ 10 - 12mm đến 14,9mm [10]. Nghiên cứu của Vergani và cộng sự cũng cho kết quả: khi kích thước não thất < 12mm tỷ lệ bất thường là 6%, tăng lên 56% khi kích thước não thất ≥ 12 [12] . Tuy nhiên nghiên cứu của Nan Chu, Madazli cho thấy: tỷ lệ bất thường cấu trúc của ba mức độ giãn khác nhau không có ý nghĩa thống kê [5; 8]. Tỷ lệ bất thường trong nhóm giãn nhẹ 39,4%, thấp hơn nghiên cứu của Nan Chu và cộng sự (70,9%) [5]. Sự khác biệt này do tỷ lệ giãn não thất nhẹ của chúng tôi (36,3%) thấp hơn Nan Chu (62,7%), mặt khác sự tiến bộ của kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh trước sinh có thể làm tăng tỷ lệ bất thường đi kèm. Tỷ lệ bất thường cấu trúc của nhóm giãn não thất nặng trong nghiên cứu này 73%, phù hợp với nghiên cứu của Nan Chu: 64,7%; Breeze 65%; Ganglioti và cộng sự: 60% [5; 10; 13]. Điểm còn hạn chế của nghiên cứu là MRI thai nhi chỉ được chỉ định rất ít bởi giới hạn của kỹ thuật này tại thời điểm nghiên cứu thực hiện. MRI rất có giá trị trong đánh giá các bất thường của hệ thần kinh trung ương trong giãn não thất. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành số liệu MRI mới được triển khai thường xuyên hơn tại bệnh viện chúng tôi. Chính vì vậy trong tương lai rất cần những nghiên cứu về giãn não thất tiến hành tại bệnh viện chúng tôi trong đó MRI được sử dụng để góp phần đánh giá chính xác các bất thường trước sinh. V. KẾT LUẬN Nguyên nhân giãn não thất thai nhi tìm thấy được trong 56,3%, gặp nhiều nhất là bất sản thể trai. Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể 9,4%. Giãn não thất phối hợp được phát hiện nhiều nhất trong nhóm tuổi 20 - 24 tuần. Tỷ lệ bất thường cấu trúc nhóm giãn não thất nặng cao nhóm giãn vừa và nhẹ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gaglioti P, Oberto M và Todros T (2009), “The significance of fetal ventriculomegaly: etiology, short - and long - term outcomes”, Prenat Diagn, 29(4), 381 - 8. 2. Garel C, Luton D, Oury JF et al. (2003), “Ventricular dilatations.”, Childs Nerv Syst, 19, 517 – 523. 3. International Society of Ultrasound in Obstetrics & Gynecology Education Committee (2007), “Sonographic examination of the fetal central nervous system: guidelines for performing the ‘basic examination’ and the ‘fetal neurosonogram’.”, Ultrasound Obstet Gynecol, 29(1), 109 - 16. 4. Pagani G, Thilaganathan B, Prefumo F (2014), “Neurodevelopmental outcome in isolated mild fetal ventriculomegaly: systematic review and meta - analysis”, Ultrasound Obstet Gynecol, 44(3), 254 - 60. 5. Chu N, Zhang Y, Yan Y et al. (2016), “Fetal ventriculomegaly: Pregnancy outcomes and follow - ups in ten years.”, Biosci Trends, 10(2), 125 - 32. 6. Joo J. G, Toth Z, Beke A et al (2008), “Etiology, prenatal diagnostics and outcome of ventriculomegaly in 230 cases”, Fetal Diagn Ther, 24(3), 254 - 63. 7. Kumar M, Garg N, Hasija A et al (2018), “Two - year postnatal outcome of 263 cases of fetal ventriculomegaly”, J Matern Fetal TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 70 TCNCYH 123 (7) - 2019 Neonatal Med, 1 - 181. 8. Madazli R, Sal V, Erenel H et al (2011), “Characteristics and outcome of 102 fetuses with fetal cerebral ventriculomegaly: experience of a university hospital in Turkey”, J Obstet Gynaecol, 31(2), 142 - 145. 9. Gezer C, Ekin A, Ozeren M et al (2014), “Chromosome abnormality incidence in fetuses with cerebral ventriculomegaly”, J Obstet Gynaecol, 34(5), 387 - 391. 10. Gaglioti P, Danelon D, Bontempo S et al (2005), “Fetal cerebral ventriculomegaly: outcome in 176 cases”, Ultrasound Obstet Gynecol, 25(4), 372 - 377. 11. Sun Y và Zhang W. Y (2018), “[Meta analysis of fetal lateral ventriculomegaly and prognosis]”, Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi, 53(10), 677 - 682. 12. Vergani P, Locatelli A, Strobelt N et al (1998), “Clinical outcome of mild fetal ventriculomegaly”, Am J Obstet Gynecol, 178(2), 218 - 222. 13. Breeze A. C, Alexander P. M, Murdoch E. M et al (2007), “Obstetric and neonatal outcomes in severe fetal ventriculomegaly”, Prenat Diagn, 27(2), 124 - 129. Summary ETIOLOGY AND PRENATAL DIAGNOSTICS OF VENTRICULOMEGALY Objective: The purpose of this study was to investigate and summarize the etiology and prenatal diagnostics of ventriculomegaly. Methods: 300 cases of ventriculomegaly were examined at the Prenatal Diagnosis Centre of the National Hospital of Obstetric and Gynecology. Ventriculomegaly was diagnosed when the atrial diameter is ≥ 10mm at ≥ 20 weeks of gestation. Ventriculomegaly was classified as mild at 10 - 12mm, moderate at 12.1 - 14.9mm and severe at ≥ 15mm. Ventriculomegaly is considered as “isolated ventriculomegaly” when the fetus had no other associated anomalies, and “non isolated ventriculomegaly” or “associated ventriculomegaly” when the fetus had at least one anomaly. The etiology of ventriculomegaly was the abnormal findings of the central nervous system on neurosonography. We offered diagnostic amniocentesis to women at < 30 weeks of gestation. Amniotic fluid was tested for karyotype. Result: Mild, moderate and severe ventriculomegaly were diagnosed in 36.6%, 30.3% and 33.3% respectively. Isolated ventriculomegaly was diagnosed in 43.7% and associated ventriculomegaly with other anomalies was diagnosed in 56.3%. Ventriculomegaly was caused by agenesis of the corpus callosum was disgnosed in 11.7%. Abnormal karyotype was found in 9,4%. At 20 - 24 weeks of gestation, non- isolated ventriculomegaly was diagnosed in 67.9%. At ≥ 33 weeks of gestation, severe ventriculomegaly was at 54.9%. Conclusions: Etiology of ventriculomegaly was found in 56,3%, the most common etiology was agenesis of the corpus callosum. Non-isolated ventriculomegaly rate was at highest level at 20 - 24 weeks of gestation. Non-isolated rate in severe ventriculomegaly was higher than mild or moderate ventriculomegaly. Keywords: ventriculomegaly, prenatal diagnostic, etiology, lateral ventricle diameter
File đính kèm:
nguyen_nhan_va_chan_doan_truoc_sinh_gian_nao_that_thai_nhi.pdf

